Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Văn Hoá phi vật thể Thăng long
Tập 1
Chịu trách nhiệm: Đinh Tiến Hồng
|
Biên tập: Nguyễn Thị Khun
2010
www.100hanoi.com
1
|
Hiệu đính: Bùi Quang Tú
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Hà Nội ln là một địa danh văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Tìm hiểu các thơng
tin về kinh tế, văn hóa, giải trí….của Hà Nội ln là một nhu cầu thiết yếu của nhiều tầng
lớp nhân dân. Bên cạnh đó, năm 2010 là năm quan trọng, với rất nhiều những dịp lễ kỉ
niệm lớn, đặc biệt là đại lễ 1000 năm Thăng Long. Đây là một cột mốc văn hóa, lịch sử
được quan tâm của cả trong và ngồi nước. Đó chính là lí do chúng tơi lựa chọn chủ đề
về Hà Nội để định hướng nội dung cho dự án chuỗi website Hà Nội.
Dự án chuỗi website về Hà Nội mang tên Hà Nội Tơi u được cơng ty CP ĐT Hồng
Đạt triển khai thực hiện từ tháng 2 năm 2010. Với những nỗ lực, tâm huyết và tình u
dành cho Hà Nội, các thành viên ban dự án đã cho ra những sản phẩm văn hóa gây
được ấn tượng với độc giả u Hà Nội.
Đại Lễ 1000 năm Thăng Long đang đến rất gần, dự án cũng đang đi vào giai đoạn gấp
rút hồn thành để hòa chung khơng khí của ngày Đại Lễ.
Dự án là một bức tranh tổng thể, đi từ những sự kiện gắn với Đại Lễ, cũng như những
góc sâu trong tâm hồn Hà Nội, những nếp sống, những cảm xúc của người Hà Nội.
Bên cạnh việc xây dựng và hồn thiện chuỗi website về Hà Nội, Ban dự án còn cho ra
mắt những ấn phẩm về Hà Nội. Chúng tơi đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng Tủ sách
Hà Nội với những ấn phẩm điện tử được tặng miễn phí cho q bạn đọc. Chúng tơi hi
vọng những tâm huyết này sẽ mang lại cho q bạn đọc u Hà Nội những điều thú vị.
Tư liệu chúng tơi sử dụng để thực hiện những ấn phẩm này hồn tồn được sưu tầm và
biên tập từ các nguồn trên Internet nên khơng tránh được những thiếu sót. Một số tư liệu
do lấy ở các nguồn thứ cấp, nên chúng tơi khơng thể trích dẫn nguồn đầy đủ. Chúng tơi
mong nhận được sự thơng cảm từ các tác giả.
Xin chân thành cảm ơn và mong nhận được những góp ý từ phía bạn đọc!
Ban d án
www.100hanoi.com
2
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Mục Lục
Thư ngỏ ..................................................................................................................................... 2
Hát ả đào xuất xứ từ đất Thăng Long ....................................................................................... 3
Xẩm Bờ Hồ ................................................................................................................................ 6
Hát xẩm chợ đêm Đồng Xn ................................................................................................. 10
Tranh truyền thần .................................................................................................................... 14
Neo câu ca trù lại bến Thăng Long ......................................................................................... 18
Thánh thót ca trù...................................................................................................................... 23
Hát chèo .................................................................................................................................. 28
Những điệu múa lắng hồn Hà Nội ........................................................................................... 32
Hà nội với múa rối nước.......................................................................................................... 35
Phường múa rối nước làng Đào Thục .................................................................................... 38
www.100hanoi.com
3
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Hát ả đào xuất xứ từ đất Thăng Long
Hát ả đào hay còn được gọi là ca trù hiện nay được mọi người biết đến như một thể loại
nhạc dân gian nhưng dành cho các tầng lớp q tộc xưa. Trải qua một thời gian tạm
lắng, thơng qua “Liên hoan âm nhạc dân gian truyền thống Châu Á – Thái Bình Dương”,
thế giới đã biết đến nghệ thuật hát ả đào của nước ta.
Theo sách “Đại Việt sử ký tồn thư” về nguồn gốc loại nhạc này có viết: “Mùa thu, tháng
7 năm Ất Sửu (1025) đời Lý Thái Tổ… Định lại các khoản quản giáp. Chỉ con hát mới
được gọi là quản giáp. Khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát, thường được thưởng,
người bấy giờ hâm mộ tiếng của Đào Thị, cho nên phàm con hát đều gọi là đào nương”.
Như vậy, có thể thấy người con gái hát giỏi kia là họ Đào. Sau này ai làm nghề đó đều
được gọi là “Đào hát”. “Đào nương” hay “ả Đào” đều có nghĩa ám chỉ người con gái làm
nghề hát xướng. Có thể có nhiều tên gọi cho nghệ thuật hát này ở từng địa phương,
từng thời điểm như hát ca trù còn gọi là hát ả đào, hát cơ đầu, hay hát nhà tơ… Tuy
nhiên, dù có tồn tại ở dạng tên gọi nào thì sự tồn tại của ca trù ln gắn liền với các đào
nương “ khơng có đào nương bất thành ca trù, khi nói đến ca trù khơng thể khơng nói tới
đào nương”. Để trở thành một đào nương cũng khơng phải là chuyện dễ, phải hội được
nhiều tiêu chuẩn khắt khe như giọng hát, năng khiếu âm nhạc (thẩm âm, gõ phách), tri
thức âm nhạc và văn thơ, lòng đam mê và kiên trì… sự tồn tại của ca trù được quyết
định bởi chính các đào nương. Các đào nương chính là những người truyền tải và thể
hiện những cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của ca trù, giúp ca trù tồn tại cho đến ngày nay.
www.100hanoi.com
4
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Theo sử sách ghi chép lại, được dân gian thừa nhân thì hẳn bộ mơn nghệ thuật này phải
được ni dưỡng từ bao đời. Nếu theo sách sử thì nghề hát ả Đào xuất xứ từ đất Thăng
Long – nơi hội tụ những bậc vương tơn, cơng tử, khách phong lưu với những nhu cầu
hưởng thụ đời sống tinh thần phong phú. Kinh thành có thể là nơi xuất xứ hoặc ít nhất
nơi đây cũng là mảnh đất màu mỡ làm cho nghệ thuật hát này được thăng hoa.
Trong những tên gọi cho mơn nghệ thuật hát này thì tên hát ả đào và hát ca trù được
mọi người biết đến nhiều hơn cả. Cái tên ả đào được ra đời từ ban đầu với ý nghĩa là gọi
tên những người theo nghiệp ca xướng còn tên ca trù thì có thể giải thích theo lối triết tự:
“ca” nghĩa là hát còn “trù” nghĩa là tre. Ngày xưa giấy bút ghi điểm còn hiếm. Những
người thưởng thức ả đào hát mà thường là vương tơn, cơng tử, q tộc, phú hào có
trong tay mỗi người một bó thẻ tre do chủ đồn hát mang tới. Khi đào hát tới chỗ hay mà
người nghe tâm đắc thì tùy theo ý và sự hào phóng của từng người mà ném thẻ thưởng.
Sau khi tàn canh hát, ả đào cứ đem thẻ của mình vào nơi tổ chức cuộc vui mà lĩnh
thưởng. Nếu quy định mỗi thẻ một tiền, thì 60 thẻ được lĩnh một quan tiền.
Đó chính là xuất xứ của ca trù và sau ngày người ta dùng ln nó để nói về nghệ thuật
hát ả đào nhưng nó chỉ mang ý nghĩa phiếm chỉ chứ khơng đúng với nguồn gốc hình
thành nghệ thuật hát này.
Ngay từ xa xưa, hát ả đào còn được dùng vào loại hát thờ thần mà thường gọi là hát
“cửa đình”. Trong những ngày lễ hội, bên trong đình, đền, các viên quan tiến hành cuộc
tế lễ còn ngồi cửa đình thì các phường cứ múa hát. Ngày xưa các đào hát phải biết
múa và cuộc hát này khơng chỉ phục vụ cho thần linh mà còn phục vụ cho cả người xem.
Cuộc hát cũng phải có bài bản để ăn nhập với nội dung của cuộc tế, thể hiện được sự
thành kính của con người đối với các vị thần linh thiêng. Chính vậy mới thể hiện được
thần – người hòa hợp, thần gắn bó mật thiết với con người. Nghệ thuật này khơng chỉ sử
dụng trong hát “cửa đình” mà đã được vời vào hát trong cung đình, nhiều nhà giàu có
hiếu hỉ cũng đón phường hát về nhà.
Đặc biệt đối với các giới tri thức, q tộc có nhu cầu thưởng thức thơ đã đón phường hát
về nhà hoặc lập ra hẳn một ban hát, viết lời cho đào hát để biểu diễn thường xun ngay
trong dinh thự như Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật hoặc Chiêu Quốc Vương Trần Ích
Tắc thời nhà Trần.
www.100hanoi.com
5
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Xẩm Bờ Hồ
Khi sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào - Đồng Xn từ đầu tháng
4-2006, bỗng nhiên người ta thấy xẩm vẫn còn dun và mặn mà lắm.
Xẩm là âm nhạc đường phố. Nhưng tại sao nó khơng gắn với một cái đi khác mà lại
gắn với Bờ Hồ? Lại có người gọi “Xẩm tàu điện”? Thực ra cách gọi khác nhau nhưng
cơ sở để gọi lại khơng khác: Tàu điện muốn chạy đi đâu thì cũng bắt đầu từ Bờ Hồ và
từ đâu về thì cũng dừng ở Bờ Hồ.
Tại sao những người hát xẩm khơng chọn ga Hàng Cỏ cũng là bến Tàu còn đơng đúc
hơn bến tàu điện? Giản đơn là tàu điện tuy chỉ tối đa có 3 toa, chở ít khách hơn nhưng
liên tục chuyến đi chuyến về nên khách ln ln mới. Còn tàu hỏa lại khơng đi về liên
tục, hơn nữa, xuống tàu là người ta về nhà hay đến ngay nơi cần đến. Do vậy, bến tàu
điện là nơi kiếm tiền thuận tiện hơn chỗ khác, vì thế dân gian gắn xẩm với tàu điện.
Trong những người hát xẩm, khơng có những quy ước về lãnh địa, nhóm này ngồi chỗ
này thì nhóm kia tự biết đi chỗ khác. Giữa họ khơng bao giờ có ẩu đả tranh giành chỗ
hát, vì họ rất hiểu câu nói “Đồng cảnh tương lân”.
Truyền thuyết kể rằng, vào thế kỷ XIII, Hồng tử Trần Quốc Đĩnh bị người em trai đâm
mù mắt giữa rừng xanh, đoạt ngọc q để chiếm ngơi vua. Trong cơn mê sảng, Đĩnh
mơ thấy mình được ca hát với một bầy tiên nữ trong tiếng nhạc tưng bừng… Tỉnh dậy,
Hồng tử mới biết là mình được những người dân q thơn dã hết lòng chăm sóc. Qua
cơn hoạn nạn và nhớ lại giấc mơ, Đĩnh đã lần mò tự tay chế tác cây đàn bằng một ống
tre dài, có cần mềm để nắn tiếng chỉnh âm, lại có dây xe bằng vỏ cây và có que để bật,
gõ thành tiếng nhạc. Chàng còn soạn ra cả những bài thơ để hát, kể lể tâm tình của
mình, của đời, mang niềm vui đến với mọi người, mọi nhà, tay đàn miệng hát khắp mọi
nơi, từ bến sơng, bãi chợ, sân đình… Tiếng tăm của chàng ca sĩ mù vang đến tận kinh
thành, Thái Thượng hồng cho vời vào cung, mới hay đó chính là Hồng tử mất tích
năm nào… Từ đấy, Đĩnh ra sức dạy dỗ cho mọi người đàn hát, nhất là những người
khiếm thị, vừa là để vui đời, vừa là nghiệp mưu sinh…
www.100hanoi.com
6
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Những loại nhạc cụ trong mơn nghệ thuật hát xẩm
Vậy xẩm ra đời từ khi nào? Có nhà nghiên cứu cho rằng, có thể xẩm ra đời trước khi
có hát chèo, là một trong nhiều nguồn góp phần cấu thành hát chèo. Hoặc xẩm chỉ là
bản sao vụng về của hát chèo trong điều kiện và hồn cảnh rất ư hạn chế của lớp
người tật nguyền; hoặc đây là mối liên quan ruột rà tất yếu khơng ai chối cãi giữa hai
loại hình, bởi chính nghệ nhân xẩm xếp hát xẩm và chèo cùng loại trung ca, trong khi
tuồng vào loại võ ca, ca trù vào loại văn ca. Các nghiên cứu về xẩm cho ra kết quả: Hát
xẩm là một thể loại khan xuất hiện ở Hà Nội vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Ban đầu chỉ có xẩm Hà Nội, sau đó đã “loang” ra để có những điệu xẩm Ninh Bình,
Nam Định, Hưng n… Xẩm có rất nhiều bài, nhưng có 7 bài đặc trưng là Xẩm chợ,
Chênh bong, Riềm h, Ba bậc nhịp bằng, Phồn h, Hát với ai và Xẩm thập ân với
những làn điệu Xẩm chợ, Xẩm thập ân, Xẩm tàu điện... Các bài xẩm về Hà Nội thường
nhắm đến hai đích, giới thiệu với người ở q về đơ thị phồn hoa này và “nịnh” người
dân thị thành, nơi hằng ngày họ nai lưng kiếm sống. Trong bài “ Hà Nội 36 phố phường”
có đoạn:
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xn
Mùa nào thức nấy xa gần xem mua….
Trong bài “Vui nhất Hà Thành” có câu:
Bắc kỳ vui nhất Hà Thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
www.100hanoi.com
7
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Thanh tao lịch sự đủ mùi
Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu khắp hết đơng tây
Thăng Long thắng địa xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sáu phố phường
Ngày nay mở rộng đến hàng vài trăm
Người đi xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ
Những năm 30 của thế kỷ trước, ở bãi An Dương có xóm xẩm. Sở dĩ có tên như vậy
bởi xóm có chừng 10 nóc nhà gồm tồn những người hát xẩm. Ban ngày họ đi hát, tối
lại về nấu nướng ngủ ở đây. Xóm tồn tại đến năm 1954, sau đó thì mỗi người một nơi.
Số lượng người hát xẩm đơng nhất là thời kỳ Pháp thuộc và những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp. Song tưng bừng nhất lại là năm 1954. Sau khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, xẩm còn được “thời sự hóa”. Chẳng hạn để hưởng ứng
phong trào bình dân học vụ, các nghệ nhân xẩm đã sáng tác bài “Tiễu trừ giặc dốt”
(được trình diễn ở chiếu xẩm Đồng Xn với lời mới “Tiễu trừ tham nhũng”). Sau Hiệp
định Giơ-ne-vơ, Nhà nước vận động nhiều nhóm hát xẩm, cử người viết bài hát và đến
diễn ở các vùng dun hải miền Bắc nhằm chống lại phong trào di cư vào Nam do thực
dân Pháp lơi kéo. Vài ba chục nghệ nhân hát xẩm ở Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định,
Bắc Giang, Hà Nội… đã tham gia cuộc vận động này. Nhà văn Thanh Tịnh được giao
phụ trách một nhóm hát xẩm gồm 23 anh chị em khiếm thị, về vùng Bùi Chu, Phát Diệm
để hát với mục đích trên. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, tại bến tàu điện Bờ Hồ vẫn có
khá nhiều người khiếm thị hát xẩm, có một cặp vợ chồng lùn tịt hát rất hay và họ kiếm
sống ở đây cho đến khi Mỹ ném bom Hà Nội thì dắt díu nhau đi đâu khơng rõ. Những
năm 70, loại hình nghệ thuật này mai một rồi đi dần vào qn lãng. Kể từ đó những
người hát xẩm khơng còn được hành nghề nữa, hát xẩm tưởng chừng như đã thất
truyền.
Khi sân khấu hát xẩm xuất hiện trên khu phố đi bộ Hàng Đào - Đồng Xn từ đầu tháng
4-2006, bỗng nhiên người ta thấy xẩm vẫn còn dun và mặn mà lắm. Nhạc sỹ Thao
Giang, chủ nhiệm chương trình âm nhạc dân gian “Hà Nội 36 phố phường” và cũng là
người có cơng sưu tầm, khơi phục lại nghệ thuật hát xẩm cho rằng, cách bn bán, các
cửa hàng có thể thay đổi nhưng hồn của bài hát vẫn ở trong tâm thức mỗi người khi họ
www.100hanoi.com
8
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
nghe xẩm. Để phục vụ cho chương trình này, nhóm “Xẩm Hà Nội” đã sưu tầm được
khoảng 20 điệu. Ngồi những điệu được phổ từ thơ của Nguyễn Khuyến, Á Nam Trần
Tuấn Khải, Nguyễn Bính, như: Mục hạ vơ nhân, Anh khóa, Lỡ bước sang ngang, Trăng
sáng vườn chè… thì còn nhiều điệu khác, trong đó khá đặc sắc chính là “Xẩm tàu
điện” do nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trình bày. “Xẩm tàu điện” đặc sắc bởi đây chính là điệu
xẩm của riêng Hà Nội. Nếu ca trù, hát cơ đầu là “đặc trưng” của phố Khâm Thiên, thì
hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xn và phố cổ. Những nghệ sĩ u xẩm phải kể
đến NSƯT Xn Hoạch (Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam), Văn Tý (Viện Văn hóa dân
gian), Thanh Ngoan (Nhà hát Chèo Việt Nam), Đồn Thanh Bình (Trường Đại học Sân
khấu - Điện ảnh), cơ “xẩm trẻ” Mai Tuyết Hoa (Viện Âm nhạc)… cùng các nhạc sỹ Hạnh
Nhân, Hồng Thái, Lê Cương, Tự Cường… đã tập hợp về Trung tâm Phát triển nghệ
thuật âm nhạc Việt Nam của Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Văn Khang và nhạc sỹ Thao Giang
từ năm 2003.
Đó là những tín hiệu tốt cho một tương lai của xẩm trong văn hóa đường phố của
Thăng Long - Hà Nội. Và chắc là sẽ khơng bị ruồng rẫy như một thời...
www.100hanoi.com
9
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Hát xẩm chợ đêm Đồng Xn
Sau những biến cố của lịch sử, hát xẩm trong tiềm thức người Hà Nội dường như dần
đi vào qn lãng giữa những bộn bề của cuộc sống. Nhưng giờ đây, xẩm khơng chỉ trở
lại bởi dăm ba câu hát bên đường mà nó đã thực sự trở thành bộ mơn nghệ thuật với
niềm đam mê khơng dứt của những người đã trót một lần nghe xẩm.
Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Âm nhạc Việt Nam là một trong những cái nơi đào
tạo hát xẩm hiện nay và đã thu hút được số đơng học viên theo học, trong đó phần lớn
là các bạn trẻ đến từ khắp mọi miền.
Một lớp học hát xẩm đặc biệt được khai giảng do Trung tâm nghiên cứu và Phát triển
Âm nhạc Việt Nam tổ chức đã thu hút được mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các
bạn trẻ. Họ học hát xẩm có thể vì thú vui, vì thích nhưng điều quan trọng hơn cả là họ
đã ý thức được việc lưu giữ dòng nhạc kén người nghe này để khơng bị mai một.
Chị Nguyễn Thị Hà, sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho biết: “ Lúc đầu em
khơng thích nghe hát xẩm nhưng khi đến đây vài lần được các anh chị của Trung tâm
dạy cho vài làn điệu. Thế rồi, em mê hát xẩm từ lúc nào khơng biết”.
Nhạc sĩ Thao Giang, Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Âm nhạc Việt
Nam cho biết: “Sau khi hát xẩm được khơi phục và biểu diễn vào mỗi tối thứ 7 ở chợ
đêm Đồng Xn, đã có rất nhiều người đến Trung tâm xin theo học và chiếm phần lớn
là các bạn trẻ”.
www.100hanoi.com
10
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Những ngày đầu mở lớp, cả Trung tâm vừa mừng vừa lo. Mừng vì đơng người theo
học nhưng lại lo khơng biết họ có theo được đến cũng hay khơng. Nếu được đào tạo tốt
và thêm một chút đam mê thì đây sẽ là những hạt giống nối tiếp thế hệ đi trước gìn giữ
một loại hình âm nhạc độc đáo. Nhưng lại lo khơng biết học viên có thể “bám trụ” được
với lớp bao lâu.
NSƯT Văn Ty cho biết: “Trung tâm mở lớp học hát xẩm miễn phí nhằm thu hút mọi
người đến với xẩm, cũng chỉ duy nhất với mục đích lưu truyền lại nó”.
Tuy lớp học được tổ chức hồn tồn miễn phí nhưng cả thầy và trò đều rất nghiêm túc,
do phần lớn số lượng học viên đều đang đi học, đi làm nên thời gian học chủ yếu thầy
phải phụ thuộc vào trò.
Những học viên lớn tuổi đến Trung tâm như để tìm lại một chút gì đó ngày xưa của Hà
Nội, cơ Đinh Thị Hiền, ở Khu đơ thị mới Linh Đàm cho hay: “ Từ nhà lên lớp học hơi xa,
nhưng đến đây được học xẩm, cũng thấy đỡ buồn nên con cháu cũng ủng hộ cho lên
học”.
www.100hanoi.com
11
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Còn bác Hồ Thị Thủy, ở mãi tận Từ Liêm những cũng lặn lội đi xe bus sang lớp học: “
Lớp học miễn phí nhưng chất lượng, tơi đang định rủ mấy bà hàng xóm cùng đi học cho
vui”.
Khơng chỉ các cơ bác lớn tuổi mà có những em nhỏ như Nguyễn Ngọc Anh, 10 tuổi q
ở Thái Bình nhân dịp nghỉ hè lên nhà bác chơi, được đi chợ đêm nghe hát xẩm cũng
nằng nặc đòi bác cho đến học hát.
Nguyễn Hồng Đăng là con gái nghệ nhân xẩm Nguyễn Văn Gia cũng quyết học xẩm chỉ
đơn giản để “ thay đổi định kiến là xướng ca vơ lồi”.
Xẩm có 8 điệu nhưng trước hết học viên sẽ được làm quen với các điệu dễ như xẩm
tàu điện rồi đến các điệu khó hơn như h tình, xẩm thập ân..Để hát được xẩm khơng
chỉ đòi hỏi năng khiếu mà còn cần đến sự khổ luyện của người học, phải nắm được ý
tứ của bài hát.
Hát xẩm phải luyến láy, tập trung cao độ nghe nhạc đệm cho chính xác. Xẩm khó ở chỗ
khi mới chỉ nghe thì thấy rất dễ bởi vì ca từ mộc mạc đơn sơ nhưng điều đó khơng đồng
nghĩa với việc nó bản năng vơ hồn, chỉ khi hát mới có thể hiểu được cái tinh tế của các
www.100hanoi.com
12
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
nghệ nhân nên xẩm phải có những nốt tơ đệm để nhấn, bộc lộ đựoc tình cảm trong
từng câu chữ của mỗi bài hát.
“Chúng tơi khơng thu tiền học phí ở lớp hát xẩm, nhưng cũng khơng có thù lao. Lớp học
do các nghệ sỹ trong Trung tâm đứng lớp truyền dạy cho học viên một cách bài bản
nhất, và phải bằng chính niềm say mê với xẩm mới có thể giúp chúng tơi mới làm được
điều này”. Nghệ sĩ Thao Giang cho biết.
Sau một thời gian đào tạo, học viên nào đáp ứng được nhu cầu và có chất giọng tốt sẽ
được biểu diễn cùng với các nghệ sỹ ở chợ đêm hay các chương trình mà Trung tâm
tham gia.
Tiếng lành đồn xa, các trường học trên địa bàn thành phố cũng gửi đến Trung tâm
những bạn trẻ có khả năng ca hát để thành lập nhóm hát xẩm. Trung tâm cũng đặt ra
các tiêu chí để tuyển chọn và đào tạo số học viên từ các trường học, các nhà văn hóa
của các quận huyện, yếu tố đầu tiên là niềm đam mê với xẩm sau đó Trung tâm sẽ đào
tạo những kĩ năng khác để các bạn thực sự là những truyền nhân cho những bạn trẻ
khác.
Trường đại học FPT là một trong số ít các trường đại học đã thành lập được CLB hát
xẩm và có những hoạt động thường xun thu hút được thêm nhiều bạn trẻ tham gia.
Đây là thành cơng bước đầu của Trung tâm cũng như là cánh cửa mở ra niềm hy vọng
mới cho sự trở lại của xẩm.
www.100hanoi.com
13
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Tranh truyền thần
Lạc giữa con phố Hàng Ngang sầm uất và rực rỡ sắc màu của các cửa hàng quần áo,
có một góc nhỏ thâm trầm với hai màu đen – trắng, đó là cửa hiệu vẽ tranh truyền thần
hiếm hoi còn sót lại ở phố cổ Hà Thành.
Đã có một thời nghề này phát triển mạnh, tạo nên một giá trị văn hóa đặc trưng của đất
Hà Thành. Nhưng với sự phát triển như vũ bão của khoa học cơng nghệ, giờ đây ảnh
kỹ thuật số đã chiếm ngơi tranh truyền thần, nghề vẽ tranh truyền thần sắp chỉ còn
được kể lại trong những câu chuyện của các cụ già Tràng An. Lớp họa sĩ cũ đa phần
đã ra đi, khơng có người kế thừa bởi nghề này khơng thể làm giàu được khiến tranh
truyền thần dần bị mai một. Họa sĩ truyền thần Nguyễn Bảo Ngun (47 Hàng Ngang) là
một trong số ít những họa sĩ truyền thần hiếm hoi còn lại và ngày ngày vẫn say sưa giữ
hồn cho tranh.
www.100hanoi.com
14
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Thời hồng kim của tranh truyền thần
Tranh truyền thần ra đời từ thế kỷ XIX, khi mà nhiếp ảnh còn là mơn nghệ thuật xa xỉ,
khơng phải ai cũng có tiền để phóng một bức ảnh. Ban đầu người họa sĩ vẽ theo người
mẫu thật sau đó là vẽ theo trí tưởng tượng của người kể. Đến thập niên 30 của thế kỷ
XX nghệ thuật vẽ truyền thần dần phát triển theo một hướng mới. Nghệ thuật vẽ tranh
theo trường phái ấn tượng Pháp nhanh chóng phát triển trong các phòng vẽ của những
họa sĩ đầu tiên tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đơng Dương, các hiệu ảnh tân kỳ cũng bắt
đầu xuất hiện ở các thành phố lớn với những tấm ảnh rõ nét, nghề truyền ảnh ra đời.
Người họa sĩ dùng mực Tàu mài ra nước vẽ lại những bức ảnh đã chụp theo u cầu
của khách. Nhưng thời kỳ cực thịnh của nghệ thuật truyền thần này lại là những năm
1960 – 1970. Ngun nhân chủ yếu là do thời kỳ chiến tranh, nhiều người ra đi khơng
bao giờ trở lại. Tất cả những gia đình còn lưu giữ được chỉ là một tấm hình nhỏ xíu có
khi đã bị hư hại hay chụp chung với nhiều người khác, mặt người chỉ to bằng hạt đỗ.
Những tấm ảnh đó được truyền thần phóng to và đặt lên bàn thờ của người đã khuất.
Cửa hàng ảnh truyền thần của họa sĩ Bảo Ngun nổi tiếng ở đất kinh kỳ vào thời đó
(từ năm 1956).
Trong ký ức của ơng, Hà Nội những năm 60-70, thợ ảnh truyền thần đơng lắm, có tới
www.100hanoi.com
15
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
hàng trăm người với vài chục cửa hiệu lớn nhỏ. Truyền thần lúc bấy giờ là một nghề
“cực thịnh”. Ơng Ngun cho biết, để trở thành thợ vẽ truyền thần phải mất ít nhất 3-4
năm, thành người lành nghề khoảng 5-10 năm, có khi phải theo đuổi cả đời. Đó là nghề
đòi hỏi lòng kiên trì, cần mẫn, mức độ tập trung cao, có năng khiếu hội họa và hiểu biết
nhất định về giải phẫu học. Theo ơng Ngun, vẽ truyền thần là phải truyền được cái
“thần” của bức ảnh. Cái “thần” ấy là phần hồn, có thể ở đơi mắt, kh miệng hay chiếc
áo, đơi tay của người trong ảnh.
Người thợ nhìn bức ảnh sẵn có, bắt lấy cái “thần” và thể hiện dưới một bức vẽ khác. Để
hồn thành một bức ảnh truyền thần, người thợ phải thực hiện nhiều cơng đoạn cơng
phu. Trước hết, phải chọn được loại giấy canson (căng-xơng) của Pháp đối với thời
trước, và bây giờ là loại giấy xốp Đức có độ dày vừa phải, “bắt” thuốc, tẩy được. Bút vẽ
cũng được chế tạo một cách rất thủ cơng: vót thật nhọn một thanh tre (hoặc thường là
đũa), chẻ giữa rồi cắm vào một đầu tăm làm ngòi bút.
Nghe có vẻ đơn giản nhưng chưa ai có thể sản xuất hàng loạt bút này. Mỗi họa sĩ có bí
quyết riêng trong việc làm bút và ai vẽ thì tự tạo lấy bút riêng cho mình. Thuốc vẽ là
muội đèn dầu. Loại thuốc này có ưu điểm mịn, lên hình nét, rõ. Để lấy được muội đèn
cũng khá là vất vả, người họa sĩ phải vặn đèn dầu thật to, quấn giấy bản tạo thành phễu
hứng muội đèn, hứng được một ít muội đèn thì quần áo, đầu tóc cũng lấm lem hết cả.
Bây giờ thuốc vẽ đã có thể mua được loại bột màu của Tiệp Khắc, Trung Quốc, nhưng
người họa sĩ vẫn thích dùng muội đèn dầu được chế thủ cơng hơn cả.
Để vẽ lại một bức ảnh đòi hỏi người họa sĩ phải kiên trì, cần mẫn và tập trung cao độ,
bức ảnh sao kho hồn tất khơng chỉ giống với ảnh được chụp mà còn phải truyền được
thần thái của con người đó. Quan trọng nhất đó chính là đơi mắt của người được vẽ mà
người họa sĩ gọi là “điểm nhãn”, đây là cơng đoạn khó nhất, phải vẽ sao để truyền được
cái hồn cho bức tranh. Đó chính là nét độc đáo trong các bức tranh truyền thần mà
khơng một nhà nhiếp ảnh nào thực hiện được.
www.100hanoi.com
16
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Dụng cụ vẽ được chế thủ cơng
Nhưng đó là những chuyện của một thời xa vắng, nghề nào cũng phải phụ thuộc vào
nhu cầu của cuộc sống. Năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, đất nước trở lại hồ bình,
rồi đến thời đổi mới, kinh tế khá dần, nhiếp ảnh phổ biến hơn thì cũng là lúc cái chức
năng “tranh thờ” của truyền thần thu hẹp lại. Bắt đầu từ đây, tranh truyền thần có một ý
nghĩa mới, một bước ngoặt, cả những người sống cũng mang ảnh của mình đến cửa
hàng truyền thần để truyền. Lúc đầu là người nước ngồi. Các bức tranh truyền thần
với bố cục ơng tây bà đầm, mắt xanh mũi lõ bên cạnh nhau, hai đứa con, một trai một
gái ở giữa là phổ biến hơn cả. Các cửa hàng truyền thần trên phố Hàng Đào, Hàng
Ngang, Hàng Đường rất đơng khách, khách Liên Xơ, khách Thụy Điển, khách Pháp đến
đặt vẽ những bức truyền thần gia đình như vậy để lưu niệm.
Lối đi nào cho tranh truyền thần trong thời đại mới?
Cuộc sống phát triển, cơng nghệ số chiếm lĩnh thị trường, giờ muốn phục chế một bức
ảnh cũ chỉ mất vài giờ đồng hồ, giá tiền cũng chỉ từ 60-150 nghìn đồng trong khi muốn
vẽ một bức tranh truyền thần phải mất vài ngày với giá khá cao, từ 300 trăm đến 1 triệu
đồng. Ưu thế nhanh, tiện, rẻ của ảnh kỹ thuật số đã dần khiến tranh truyền thần mất
chỗ đứng. Ở Hà Nội hiện nay những cửa hiệu vẽ tranh truyền thần chỉ còn đếm được
trên đầu ngón tay, ở 47 Hàng Ngang, 24 Hàng Đường, 51 Hàng Đào.
Nhưng với những người u nghệ thuật thì tranh truyền thần vẫn là một nét đẹp đáng
lưu giữ và trân trọng. Mới đây, vào tháng 2/2009, tại Gallery 39A – Lý Quốc Sư – Hà
Nội vừa diễn ra triển lãm “Truyền thần”. Triển lãm trưng bày 30 tác phẩm (trong đó có
www.100hanoi.com
17
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
26 bức trong bộ sưu tập tranh truyền thần do hoạ sỹ Lê Thiết Cương sưu tập trong
khoảng 10 năm gần đây). Đây là triển lãm về tranh truyền thần hiếm hoi, có lẽ vài chục
năm mới có. Họa sĩ Lê Thiết Cương muốn gìn giữ nghệ thuật truyền thần bởi theo ơng:
“Ở các nước khác khơng thấy có nghệ thuật truyền thần và ở nước mình thì dường như
nó là “đặc sản” của miền Bắc. Giờ đây, khi bị ảnh kỹ thuật số lấn át, nghệ thuật truyền
thần mai một dần. Nếu khơng có người giữ lại thì thế hệ sau khó có thể hình dung được
về truyền thần”.
Tranh truyền thần bây giờ có thị trường mới, hướng đến người nước ngồi. Khách du
lịch nước ngồi đến Hà Nội coi truyền thần là “đặc sản” của hội hoạ Việt Nam và muốn
truyền thần các bức ảnh của gia đình để lưu niệm. Việt kiều về nước thích truyền thần
một số chân dung như: vua Bảo Đại, Nam Phương hồng hậu, hoặc các cơ gái Bắc Kỳ
từ các bưu ảnh cũ. Một số người khác chọn truyền thần chân dung các tài tử điện ảnh,
ngơi sao ca nhạc, thể thao, những người nổi tiếng đương thời. Thậm chí, có những đơi
un ương còn mang ảnh cưới, ảnh con cái mới sinh đến truyền thần. Ơng Ngun
nhận được rất nhiều “đơn đặt hàng” của những người khách nước ngồi qua e-mail và
họ đều bày tỏ lòng cảm kích khi được nhận tác phẩm nghệ thuật độc đáo do họa sĩ vẽ.
Vẫn biết để gìn giữ nghề này trong thời đại số hóa hiện nay là rất khó khăn, song những
người đam mê với nghề vẽ tranh truyền thần cả một đời như họa sĩ Bảo Ngun thì vẫn
lạc quan lắm, ơng đang truyền cái nghề đáng q này cho con trai là anh Nguyễn Bảo
Lân và hàng ngày miệt mài với giá vẽ, dù bên ngồi cuộc sống phố phường vẫn xơ bồ
chảy qua.
Neo câu ca trù lại bến Thăng Long
Đến với ca trù như cái dun đất trời định sẵn, ca nương Phạm Thị Huệ đã dành hết
niềm đam mê, vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống để học đàn, học hát. Tâm
nguyện
của
chị
là
giữ
lại
cho
đời
sau
câu
hát
của
người
xưa…
Dọc ngang “tầm sư học đạo”
www.100hanoi.com
18
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Tốt nghiệp Nhạc viện Hà Nội, Phạm Thị Huệ đứng trước những lựa chọn lớn của cuộc
đời: đi làm kinh doanh, ra nước ngồi học thạc sỹ, đi theo dòng nhạc “thị trường” để
kiếm sống…? Nhưng cuối cùng chị trở thành giảng viên mơn đàn Tì bà tại Nhạc viện
Hà Nội và bắt đầu chinh phục niềm đam mê Ca trù.
Chị đã biết đến Ca trù từ thời còn theo hoc Nhạc viện, nhưng đến năm 2001 mới gặp
được nghệ nhân Nguyễn Thị Chúc ở Bích Câu đạo qn (Câu lạc bộ Ca trù Hà Nội).
Nhờ bà Chúc chị lại quen bà Kim Đức, một đào nương của Hà Nội. Chị thường xun
đến thăm bà và xin được bà truyền dạy Ca trù. Nhưng bà Kim Đức đã có học trò chân
truyền nên khơng nhận chị nữa. Phạm Thị Huệ kiên trì lui tới, học “lỏm” trong những
cuộc tụ họp hát hò. Bà Đức đã “động lòng” trước sự quyết tâm của chị nên bà nhận
dạy chị hát một bài Chèo với những kỹ thuật thanh nhạc rất gần Ca trù. “Bí quyết thanh
nhạc” của bà Kim Đức chính là vốn liếng ít ỏi ban đầu của chị.
Từ đó chị càng dấn thân sâu hơn vào con đường chinh phục Ca trù. Sau đó chị đã tìm
đến danh ca Ngãi Cầu – Nguyễn Thị Chúc (Hà Tây) và tiếp tục dùng chiêu “ngoan cố”
để bám trụ và xin theo học. Cuối cùng bà Chúc cũng xiêu lòng trước niềm đam mê của
Phạm Thị Huệ và truyền nghề cho chị.
Được học hát rồi chị lại muốn học đàn, nên theo lời người quen, tiếp tục xuống Hải
www.100hanoi.com
19
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Dương tầm sư học đạo. Nhờ có tố chất nghệ thuật, mới cầm đàn đã biết gảy, nên chị
được danh cầm Tứ Kỳ - Nguyễn Phú Đẹ nhận làm học trò.
Sau những năm tháng miệt mài như con thoi đi về giữa Hà Tây – Hà Nội – Hải Dương,
chị đã học được cái tinh hoa của những làn điệu Ca trù. Tháng 8- 2006 chị được các
thầy tổ chức lễ Mở xiêm y, đây là “lễ tốt nghiệp” cho ca nương hành nghề đầu tiên của
làng Ca trù sau gần một thế kỷ vắng bóng.
Sau đó chị lại trăn trở làm như thế nào để có thể đưa Ca trù đến với nhiều người? Để
thực hiện tâm nguyện đó chị đã cho ra đời Câu lạc bộ Ca trù Thăng Long. Câu lạc bộ
Ca trù Thăng Long từ chổ chỉ có vài thành viên, đến nay đã đào tạo được nhiều khóa,
thường xun có hơn 20 học viên tham gia. Hơn 2 năm nay, Câu lạc bộ duy trì được
sinh hoạt đều đặn với mỗi tuần một buổi chị truyền dạy Ca trù cho các học viên, mỗi
tháng một buổi biểu diễn vào thứ Bảy tuần đầu tiên trong tháng.
Niềm đam mê Ca trù của Phạm Thị Huệ có vẻ rất sn sẻ với những thành cơng
khơng nhỏ. Nhưng để đạt được kết quả đó, chị và các học sinh của mình đã phải vượt
qua khơng ít những khó khăn. Câu lạc bộ vẫn “học ké sân đình” và duy trì hoạt động
bằng chính nguồn lực của mình. “Để bảo tồn vốn q này của cha ơng, từng cá nhân
khơng đủ sức làm, cần có sự đầu tư của Nhà nước, sự giúp đỡ của các Mạnh Thường
Qn” ca nương Phạm Thị Huệ chia sẻ.
Đào kép ca trù
Nghệ thuật hát ả đào thực sự đã trở thành một mơn nghệ thuật đáng tự hào của dân
tộc. Trong dân gian vẫn còn nhắc tới giai thoại một đào hát dùng tiếng hát của mình
để giết chết kẻ thù xâm lược. Đó là vào đầu thế kỷ 15, ở vùng Hưng n ngày nay có
một đào hát nổi tiếng. Bà mở ca qn cùng tửu qn. Khi giặc Minh vào qn, bà hát
cho chúng nghe, chuốc rượu cho chúng uống say. Giọng hát tiếng đàn quyến rũ cùng
với những hũ rượu ngon tẩm độc đã khiến cho qn giặc gục ngã hàng loạt. Bà sai
www.100hanoi.com
20
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
người tống vào bao tải và vứt xuống sơng.
Giặc tan, bà được nhà vua khen thưởng và khi mất bà được dân lập đền thờ, triều
đình còn ban cấp ruộng đất để quanh năm hương khói, phong bà làm phúc thần. Nơi
đó vẫn còn tên gọi là “Đào xá” tức là làng của bà họ Đào thuộc huyện Ân Thi, Hưng
n bây giờ.
Hát ả đào được tổ chức chặt chẽ thành phường, giáo phường, do trùm phường và
quản giáp cai quản. Hát ả đào có qui chế về sự truyền nghề, cách học đàn học hát, có
những phong tục trong sự nhìn nhận đào nương rành nghề, như lễ mở xiêm áo (thầy
cho phép mặc áo đào nương để biểu diễn chính thức lần đầu tiên trong đình làng gọi
là hát cửa đình), có những qui chế về việc chọn đào nương đi hát thi (ngồi tài năng và
sắc diện cần phải có đức hạnh tốt).
www.100hanoi.com
21
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Nâng hát ả đào lên thành một mơn nghệ thuật, một thú chơi tao nhã, một loại nhạc
thính phòng của giới q tộc, thượng lưu, nho sĩ mới thực sự chỉ bắt đầu từ thời Lê –
Nguyễn. Và chỉ có mảnh đất kinh thành Thăng Long, nơi hội tụ những con người hào
hoa mới có những nữ ca, những nhạc cơng tài năng tạo nên một nghệ thuật hát ả đào
làm đắm say lòng người. Những nghệ sĩ tài hoa khi ấy đã được đại thi hào Nguyễn Du
tỏ lòng tơn kính và tiếc nuối trong bài “Long thành cầm giả ca” trong khi xã hội coi các
đào hát là “xướng ca vơ lồi”, điều đó thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong con
người Nguyễn Du.
Nghệ thuật hát ả đào sang thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20 đã nâng tới mức độ hồn
chỉnh với những nhà nho lừng danh đặt lời cho bài hát như Cao Bá Qt, Chu Mạnh
Trinh, Dương Kh, Nguyễn Khuyến… khiến cho loại nhạc – thơ này trở nên hấp dẫn
người nghe vơ cùng.
Nghệ thuật hát ả đào thực sự để được nâng tới tầm nghệ thuật, thể hiện được sự tài
hoa, tinh tế đáp ứng được nhu cầu thưởng thức âm nhạc của người Thăng Long thì
đòi hỏi phải có một thời gian dài hình thành và phát triển trên mảnh đất phồn hoa đơ thị
như kinh thành Thăng Long. Trải qua nhiều q trình biến đổi, nghệ thuật hát ả đào
vẫn còn mang những giá trị độc đáo riêng của nó và xứng đáng được đế xuất lên
UNESCO cơng nhận đây là “Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp”.
www.100hanoi.com
22
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Thánh thót ca trù
Ca trù còn có cách gọi tên khác là hát thẻ (ca - hát, trù - thẻ, người hát xưa khi hát
được thưởng cho những thẻ bằng tre trên đó có ghi số tiền thưởng). Theo tài liệu Việt
Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đồn- Đỗ Trọng Huề thì hát ca trù có nguồn gốc từ
sự kết hợp của ca vũ Trung Hoa với âm nhạc cung đình Việt Nam trong khoảng thời
gian từ 111tr.c.n đến năm 938.
Nguồn tư liệu cho biết về tình hình âm nhạc cung đình Việt Nam sớm nhất là thời nhà
Lý (1009- 1225) với sự kiện Lý Thái Tổ bổ nhiệm một người làm chức quản giáp trong
đội nhạc hồng gia. Sự kiện này rất quan trọng với sự hình thành của giáo phường ca
trù. Cho đến thời nhà Lê (niên đại Hồng Đức) thì đã có một số các tư liệu cho biết về
một thể loại âm nhạc mà tên gọi của một số điệu thức giống như tên gọi trong ca trù
hiện nay: cung bắc, đại thực, hát tầng (ngày nay gọi là xướng tầng), thiết nhạc, hà nam
(Đỗ bằng Đồn- Đỗ Trọng Huề. tr35).
Đến giai đoạn cuối của nhà Lê (thời Lê Mạt) ca trù đã được biết đến với tư cách là Nữ
Nhạc (ca nhạc nhẹ do nữ diễn xuất); hay hát cửa quyền (hát trong các gia đình q
tộc). Về sau lối hát này phát triển vượt ra ngồi với phạm vi rộng và được hát ở cả trong
các dịp hội hè, đám cưới, chúc thọ...vv. Lúc này nó được gọi là Hát ả đào với các điệu
thức bao gồm phong u cổ, đan diện cổ (phối với trống), hay địch quản (phối với sáo
www.100hanoi.com
23
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
trúc)...
Ngồi ra còn một số nhạc cụ khác nữa như đàn đáy, phách, đàn cầm, đàn tranh cũng
được sử dụng để phối âm khi biểu diễn loại hình ca nhạc này. Người hát ca trù nói
chung gọi là ả đào hay đào nương, tồn bộ những người tham gia biểu diễn âm nhạc
cùng ả đào đều gọi là giáo phường. Đứng đầu giáo phường là ơng Trùm, sau nữa là
Quản giáp. Các giáo phường ca trù chun hát ở đình trong các ngày lễ tế thổ thì được
gọi là hát cửa đình, các giáo phường khác chun hát ở nhà các quan lại để phục vụ
các gia đình q tộc này được gọi là hát nhà tơ (tơ là biến âm của từ Ty- tên gọi cơng
sở quan lại xưa); bộ phận giáo phường Ca trù hát ở các nhà tiếp khách (rạp )thì gọi là
hát nhà trò.
Trong kinh thành Thăng long xưa có những thơn chun hát ả đào như thơn giáo
phường Tống Tả Nghiêm sau đổi là Kim Liên là đất cũ quanh phường Bùi Thị Xn
thuộc quận Hai Bà, nay gồm các phố Lý Thái Tổ, Tràng Tiền, Hàng Khay. Tại đây trước
thời kháng chiến vẫn còn đình thờ tổ ca cơng của giáo phường. Ngồi ra các địa bàn
khác như phường hát khâm Thiên, Thái Hà, Ngã Tư Sở...cũng đều là những trung tâm
hát Ca trù xưa. Hằng năm những nơi này đều về dự lễ tế tổ tại đền Nam Đồng nằm trên
ấp Thái Hà cũ cạnh gò Đống Đa, sau này đã bị phá bỏ.
Từ hình thức sinh hoạt văn hố tổng thể thời Lê, gồm cả ca, múa, nhạc, đến đầu thời
Nguyễn Ca trù đã chuyển dần thành lối hát Ca trù thính phòng, phần múa bị tước bỏ,
phần ca nhạc được nâng cao, càng về sau ca trù thính phòng càng được ưa chuộng và
trở thành thú chơi tao nhã của giới ca sĩ kinh thành. Đi nghe hát Ca trù là vừa kết hợp
nghe đào nương hát những bài hay của cổ nhân vừa là dịp để tự thưởng thức thơ mình
do chính bản thân soạn ra theo làn điệu cố định.
www.100hanoi.com
24
Hà Nội Tôi Yêu
Văn Hoá phi vật thể
www.100hanoi.com
Đào nương ngồi hát, hai tay gõ phách, kép đệm đàn đáy, trống chầu được đặt cạnh
quan viên (khán giả) để gõ tom, chát khen thưởng cho Đào những khi giọng hay, văn
khéo, đàn ngọt... Ca trù có nhiều làn điệu, nhưng những điệu chính thường hát hiện nay
là Thét nhạc, ngâm vọng, bắc phản, nhịp ba cung bắc, gửi thư, đọc thơ, hãm...Những
bài thơ hay như Tỳ bà hành, Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú là những bài ca
đặc sắc và được ưa chuộng hơn cả. Đặc trưng của ca trù là hát nói, lời hát được phổ từ
thơ, hát nói cấu trúc phóng khống với thể thơ lục bát và thất ngơn.
Khi hát thường hát mưỡu trước sau đó mới hát nói. Số lượng bài hát nói trong ca trù rất
lớn, trong đó có nhiều bài khuyết danh, những tác giả về thơ hát đều là những thi nhân
nổi tiếng ở Hà Thành như Nguyễn Cơng trứ, Cao Bá Qt, Nguyễn Q Tần, Chu Mạnh
Trinh, Phan Văn ái, Nguyễn Thượng Hiền... Đây cũng là lối hát mà các chí sĩ u nước
hồi đầu thế kỷ rất hay sử dụng để vận động tun truyền quảng bá tư tưởng u nước
trong quần chúng nhân dân.
Nghệ thuật hát ca trù cũng rất phức tạp đòi hỏi người đào hát ln ln phải luyện
giọng cho tròn vành rõ chữ, người hát hay lại phải hát làm sao cho đài các lịch sự,
nhưng vẫn khơng kém phần thắm thiết, tài tình, tâm sự, kỹ thuật nhả chữ, bng câu
sao cho bất chợt. Trong hát ca trù sử dụng hơi trong là chính, rung giọng ngâm phải đạt
được phong thái vừa kín đáo vừa đoan trang. Luyện được phách đã khó, luyện được
những khổ phách cho lưu lốt, sinh động phải mất rất nhiều cơng phu rèn luyện, đào
hát khơng cần dùng điệu bộ mà chỉ qua tiếng phách lẫn câu hát để biểu lộ hết tình cảm
của mình.
Hát ca trù nhiều khi khơng chỉ là thể hiện bài thơ mà còn gửi gắm cả tâm sự riêng khi
cất tiếng hát. Người hát đã đòi hỏi phải tinh vi như vậy còn người cầm chầu cũng đòi
www.100hanoi.com
25
Hà Nội Tôi Yêu