Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.18 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI QUỐC HOÀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, NĂM 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI QUỐC HOÀN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH HÒA BÌNH

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Châm

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
hoàn toàn trung thực, chưa từng được sử dụng để công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ
nguồn gốc.

Học viên

Bùi Quốc Hoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO
TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ........................ 8
1.1. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể ........................................................................................................ 8
1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể .................................................................................................. 18
1.3. Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam .... 20
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA
BÌNH ............................................................................................................................. 26
2.1. Tổng quan về Di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Hòa Bình ....................................... 26
2.2. Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở

tỉnh Hòa Bình. ............................................................................................................... 30
2.3. Kết quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. ..................................................................................... 48
2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. ......................................................................... 50
Chương 3. MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở TỈNH
HÒA BÌNH ................................................................................................................... 56
3.1. Quan điểm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi
vật thể ở tỉnh Hòa Bình ................................................................................................. 56
3.2. Mục tiêu thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể ở tỉnh Hòa Bình. ...................................................................................................... 58
3.3. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể ở tỉnh Hòa Bình ............................................................................. 60
3.4. Kiến nghị, đề xuất .................................................................................................. 70
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BTV

: Ban Thường vụ

DSVH

: Di sản văn hóa

HĐND


: Hội đồng nhân dân

VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch

UBND

: Ủy ban nhân dân

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một vài thập niên gần đây, quan niệm truyền thống về “di sản văn
hoá” đã thay đổi một cách đáng kể, mà phần nhiều do tác động của các văn kiện
quốc tế của Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hiệp quốc
(UNESCO). “Di sản văn hoá phải được hiểu bao gồm tất cả các thành phần tự
nhiên và văn hoá, vật thể và phi vật thể…” (trích kết luận của Hội nghị liên Chính
phủ về Chính sách văn hoá vì sự phát triển tổ chức tại Stockholm, Thuỵ Điển,
tháng 4/1998). Việc UNESCO thông qua Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể tại cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 32 năm 2003 tại Paris, Pháp như một
bước tiến quan trọng để xây dựng các chính sách mới trong lĩnh vực di sản văn hoá
và cũng tạo điều kiện cho chúng ta có cách tiếp cận tương đối toàn diện về loại
hình di sản văn hóa này. Điều này đã thể hiện cam kết mạnh mẽ của các nước phải
có những hành động khẩn trương, mạnh mẽ và đúng đắn để bảo vệ DSVH phi vật

thể của các quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng định “Di sản văn hoá
Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận
của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của nhân dân ta”. Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng
cũng đã khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc,
là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao
lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể
và phi vật thể”.
Qua đó, chúng ta thấy rằng, di sản văn hóa luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm và xác định là tài sản quan trọng của đất nước. Di sản văn hóa nằm trong 3 mục
tiêu lớn được xác định trong chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam hướng đến

1


việc: bảo vệ di sản và khuyến khích hoạt động sáng tạo; đảm bảo sự tiếp cận bình
đẳng của tất cả mọi người đối với văn hóa; tạo cơ hội cho tất cả mọi người tham gia
vào sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ văn hóa.
Tỉnh Hòa Bình thuộc vùng miền núi Tây Bắc, nơi có nền văn hóa Hòa Bình
đặc sắc và có đa dạng màu sắc văn hóa của các tộc người, trong đó chứa đựng cả
kho tàng di sản văn hóa độc đáo và phong phú.
Trong những năm qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa ở
Hòa Bình, đặc biệt là các di sản văn hóa phi vật thể đã được chính quyền các cấp của
tỉnh quan tâm nhưng chưa thực sự tạo ra được nguồn lực văn hóa xứng tầm cho phát
triển từ các di sản văn hóa đó. Chính vì vậy nhu cầu tìm hiểu, đánh giá về việc thực
hiện các chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể đang đặt ra cấp
thiết đối với sự phát triển của Hòa Bình.

Xuất phát từ những vấn đề trên cùng với mong muốn góp một phần công sức
của mình vào việc bảo vệ, lưu truyền cho thế hệ sau những giá trị đặc sắc của các di
sản văn hóa phi vật thể của Hòa Bình, từ đó đưa các di sản văn hóa phi vật thể của
địa phương trở thành nội lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
theo hướng bền vững, chúng tôi đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách Bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình” cho luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề Bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trên thế giới, vào khoảng nửa sau thế kỷ XX, các tổ chức quốc tế như tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO), chương trình phát
triển của Liên hiệp quốc (UNDP) đều nỗ lực nghiên cứu đánh giá tiềm năng quá
khứ của nhân loại, đặc biệt là về di sản văn hoá. UNESCO chia di sản văn hoá
thành hai loại: di sản “văn hóa vật thể” và di sản “văn hoá phi vật thể”.
Trong Hội nghị quốc tế “Bảo vệ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể: Hướng
đến Phương pháp tiếp cận tổng thể” tổ chức tại Nara, Nhật Bản từ 19 đến

2


23/10/2004, đã ra tuyên bố Yamato về phương pháp tiếp cận tổng thể trong bảo vệ
di sản văn hoá vật thể và phi vật thể đã được thông qua. Với bản Tuyên bố này, các
quan niệm về di sản văn hóa đã được nhân loại định nghĩa cụ thể trên phương diện
lý luận theo Công ước và Quy chế của UNESCO. Đây là những quan niệm cụ thể
nhằm giúp nhận diện một cách đúng đắn khoa học về di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể trên thế giới.
Ở nước ta, nghiên cứu về di sản văn hóa nói chung, văn hóa phi vật thể nói
riêng trước tiên phải kể đến công trình “Việt Nam Văn hoá sử cương” của nhà văn
hóa Đào Duy Anh từ năm 1938 với quan điểm: “Ta muốn trở thành một nước

cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ văn hoá cũ (di sản) làm thể
(gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá mới làm dụng nghĩa là phải khéo điều hòa tinh tuý
của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa học của văn hoá
phương Tây.
Hay trong cuốn sách “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hoá
dân tộc” của GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành năm 1997, tác giả đã đưa ra một hệ
thống lý luận về di sản văn hóa, đồng thời bước đầu vận dụng nghiên cứu di sản văn
hóa nước ta. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả đã đưa ra các nhóm giải pháp
nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Năm 2002, Luật Di sản văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành được coi là
văn bản pháp quy về di sản văn hóa. Trong sách Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể
do Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch phát hành năm 2007, GS,TS. Ngô Đức Thịnh
(nguyên Viện trưởng viện Văn hoá dân gian) đã bàn đến Văn hóa phi vật thể: Bảo
tồn và phát huy. Trưởng Ban Di sản phi vật thể Văn phòng UNESCO Pari - Ông
Rieks Smeets đã nghiên cứu về: Bối cảnh, nhận thức và quá trình xây dựng Công
ước về bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể.
Ngoài ra, cũng có nhiều bài báo, công trình ngiên cứu về vấn đề Bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể. Có thể kể đến như: Bài nghiên cứu “Bảo tồn di
sản văn hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay”của tác giả Nguyễn Chí Bền, đăng trên
Tạp chí cộng sản, năm 2007. Bài nghiên cứu bàn sâu về cách thức bảo tồn văn hóa

3


phi vật thể ở nước hiện nay. Hay bài nghiên cứu “Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể
- từ góc nhìn toàn cầu hóa” của tác giả Đặng Văn Bài, đăng trên Tạp chí Di sản văn
hóa số 21, năm 2007, đã bàn sâu về phương pháp tiếp cận di sản văn hóa phi vật thể
và đưa ra một số giải pháp Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể trong xu thế hội nhập
quốc tế.
Trên cơ sở kế thừa một số bài viết của các nhà nghiên cứu trên website Cục di

sản văn hóa, Di sản văn hóa Mo mường Hòa Bình, Luận văn tốt nghiệp của tác giả
Nông Thủy Tiên, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016 - “Chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng”; Luận văn tốt
nghiệp của tác giả Trương Quốc Huy, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2014 - “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa
hiện nay”… Các công trình nghiên cứu này đã viết khá kỹ về lý luận văn hóa, chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể và thực tiễn khảo cứu tại một
số địa phương.
Những nghiên cứu trên góp phần cung cấp khung lý thuyết về thực hiện
chinh sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, gợi mở những
phương hướng xây dựng giải pháp trong luận văn. Tuy nhiên, tất cả những những
nghiên cứu trên chưa có công trình nào nghiên cứu về thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy DSVH phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình, cũng như đánh giá khái
quát những tác động của chính sách bảo tồn, phát huy DSVH phi vật thể trong phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Những vấn đề này sẽ được đi sâu nghiên cứu
và làm rõ trong luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu là chỉ rõ những thành công và hạn chế của
việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Hòa Bình
để từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách cũng như
triển khai thực hiện các chính sách hiệu quả hơn ở địa phương.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đặt ra nhiệm vụ như sau:

4


- Hệ thống hóa tài liệu lý thuyết về chính sách bảo tồn di sản văn hóa phi vật
thể trên thế giới và cách tiếp cận ở Việt Nam.
- Chỉ rõ thực trạng việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa phi vật
thể ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Hòa Bình nói riêng.

- Đánh giá thành công và hạn chế của việc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở tỉnh Hòa Bình.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện chính sách và thực hiện tốt
hơn chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể tỉnh Hòa Bình, bao gồm việc thực hiện
các chính sách chung của nhà nước, việc ban hành và thực hiện các chính sách cụ
thể của địa phương, hiệu quả của chính sách và những vấn đề đặt ra, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể ở tỉnh Hòa Bình trong thời gian tới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu, thu thập và phân tích số
liệu trọng tâm là trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan
trong nghiên cứu, tác giả cũng đã tham khảo số liệu ở một số địa phương khác.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện chính sách
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn từ
năm 1991 đến nay. Bởi vì, năm 1991, tỉnh Hòa Bình được tái lập sau 15 năm hợp
nhất với tỉnh Hà Tây (năm 1976) thành tỉnh Hà Sơn Bình. Khi đó các chính sách
của Hòa Bình về kinh tế, văn hóa, xã hội và các mặt của đời sống con người mới
được hình thành và phát triển.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận liên ngành, đa ngành với trọng tâm là các

5


phương pháp phân tích chính sách công (phân tích chu trình chính sách từ hoạch

định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của các
chủ thể chính sách). Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn giúp
hoàn thiện các vấn đề về chính sách chuyên ngành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các
nguồn tư liệu có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu,
Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa
phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền,
ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề
chính sách bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Hòa Bình. Đồng thời, thu thập các số liệu của
các tổ chức và học giả quốc tế liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, quan sát: Tiến hành đi cơ sở khảo sát
thực tế các lễ hội, di sản văn hóa phi vật thể, kết hợp với việc tiếp xúc phỏng vấn
những người đang trực tiếp làm công tác quản lý văn hóa, người dân có liên quan để
thu thập thông tin.
- Phương pháp logic và lịch sử: Trên cơ sở những thông tin thu thập được,
bằng phương pháp logic học, những thông tin ấy sẽ được kết nối chặt chẽ với nhau
giúp cho kết quả nghiên cứu của luận văn có tính thuyết phục.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận để đảm bảo
căn cứ khoa học cho việc tiếp cận, nghiên cứu và luận giải về tổ chức thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung căn
cứ khoa học cho tỉnh Hòa Bình trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể đáp ứng yêu phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh theo hướng bền vững; Góp phần bổ sung thêm nguồn tài liệu tham khảo
cho nghiên cứu và cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành trong quá trình hoạch

6



định và thực thi chính sách bảo tồn Di sản văn hóa ở địa phương.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
Chương 3. Mục tiêu, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
1.1. Những vấn đề cơ bản về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm Chính sách
Cho đến nay trên thế giới, đã có nhiều định nghĩa về chính sách hay chính sách
công, thuật ngữ này ngày càng được sử dụng rộng rãi. Có thể hiểu một cách đơn giản,
chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay các nhà quản lý đề ra
nhằm giải quyết một số vấn đề nào trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Trong từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong thời gian nhất định, trên nhiều lĩnh vực cụ thể nào

đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất
của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...".
1.1.1.2. Khái niệm Chính sách công
Ở các nước phát triển và các tổ chức quốc tế, thuật ngữ “Chính sách công”
được sử dụng rất phổ biến. Với cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau, các nhà khoa
học đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau: Chính sách công là một tập hợp các
quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính
trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó
(William Jenkin, 1978); “Chính sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm
hoặc không làm” (Thomas R. Dye, 1984).
Ở nước ta cũng có một số tác giả nghiên cứu về chính sách công, đã đưa ra
các định nghĩa chính sách công như: PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính
Quốc gia) đưa ra khái niệm chính sách công với các nội hàm sau:
- Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà nước

8


ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước.
- Chính sách công là những quyết định hành động, bao gồm cả những hành
vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện dự định
đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì
những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.
- Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế- xã
hội theo những mục tiêu xác định.
Trong giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học viện
Hành chính Quốc gia xuất bản năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa chính sách công:
“Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề
phát sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,

nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”.
PGS. TS. Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái niệm chính
sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện
giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.
Các khái niệm định nghĩa nêu trên có sự khác nhau trong chừng mực nhất
định, nhưng đều có chung các nội dung nội hàm sau:
+ Chính sách công là chính sách của Nhà nước.
+ Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau.
+ Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
theo ý chí của đảng cầm quyền.
1.1.1.3. Khái niệm Di sản văn hóa
Di sản theo nghĩa Hán Việt: di là để lại, còn lại, dịch chuyển, chuyển
lại; sản là tài sản, là những gì quý giá, có giá trị. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Di
sản là cái của thời trước để lại [20]. Như vậy, di sản văn hóa được hiểu như là tài
sản, là báu vật của thế hệ trước để lại cho thế hệ sau, gồm các tác phẩm nghệ thuật
dân gian, công trình kiến trúc, tác phẩm điêu khắc, các loại hình văn hóa nghệ thuật,

9


hệ thống phong tục tập quán, tín ngưỡng,...
Luật Di sản văn hóa của Việt Nam đã xác định “di sản văn hóa bao gồm di
sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[34].
Tại điều 4, Luật Di sản văn hóa cũng đã đã nêu rõ khái niệm:
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.
Cách phân chia di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng chỉ là tương đối.
Văn hoá vật thể là vật thể hoá tinh thần con người, ngược lại, không có thành tố văn
hoá tinh thần nào mà không có yếu tố vật chất. Chẳng hạn, ngôn ngữ là một thành
tố thuộc văn hoá phi vật thể, nhưng bên cạnh nội dung vẫn có vỏ vật chất âm thanh
của ngôn từ, v.v... Dù phân loại thế nào chăng nữa, các di sản văn hóa vẫn có những
đặc điểm chung, đó là:
- Tính biểu trưng đại diện cho mỗi nền văn hóa của một quốc gia, một dân tộc;
- Tính lịch sử với những đặc trưng của thời đại và đại diện cho thời đại sinh
ra chúng, nền văn minh và kỹ thuật tái tạo chúng;
- Tính truyền thống lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không chỉ bản
thân di sản mà cả những giá trị phi vật thể đi cùng với chúng cũng được truyền sang
thế hệ sau bằng mô phỏng, phát triển và sáng tạo mới trên nền của di sản cũ;
- Tính nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng dưới các tác động khác nhau, dễ dàng bị
hư hỏng, bị phá hủy và bị mai một đi do những tác động khác nhau của con người,
của điều kiện thời tiết, các phản ứng hóa học… Trong quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước, cha ông ta đã sáng tạo và để lại hàng nghìn di tích có giá trị.

10


1.1.1.4. Khái niệm Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó. Bảo tồn là giữ lại, không để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa
hay biến thái.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa luôn gắn kết chặt chẽ biện chứng. Đó là
hai lĩnh vực thống nhất, tương hỗ, chi phối ảnh hưởng qua lại trong hoạt động giữ

gìn tài sản văn hóa. Bảo tồn di sản văn hóa thành công thì mới phát huy được các
giá trị văn hóa. Phát huy cũng là một cách bảo tồn di sản văn hóa tốt nhất (lưu giữ
giá trị di sản trong ý thức cộng đồng xã hội).
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể) cần
thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận
minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài với
thời gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước những biến đổi
tất yếu về đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sôi động.
Trong bài nghiên cứu “Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hiện nay”
của tác giả Nguyễn Toàn Thắng, đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 345, đã
chia công tác Bảo tồn thành hai dạng: Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng tĩnh)
và Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động)
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng tĩnh)
Bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật thể ở dạng tĩnh là vận dụng thành quả khoa
học kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như vốn có
về kích thước, vị trí, chất liệu, đường nét, màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên,
cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi tính công
nghệ 3D theo không gian ba chiều, chụp ảnh, băng hình video, xác định trọng
lượng, thành phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Sau khi bảo tồn nguyên vẹn,
phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được lưu giữ chi tiết để không làm

11


biến dạng.
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là điều tra sưu tầm, thu thập các dạng
thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc chặt

chẽ, giữ chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình (video), băng
tiếng (audio), ảnh... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ
trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động)
Bảo tồn động, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các
di sản văn hóa vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di
tích, cố gắng phục chế lại nguyên trạng bằng nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn các hiện
tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng không
những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà còn là nơi tốt
nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy chúng trong đời sống xã hội. Các hiện
tượng văn hóa phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói,
hình thức diễn xướng, nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian. Văn hóa phi vật thể
luôn tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của những con người đặc biệt mà chúng ta
thường mệnh danh là những nghệ nhân hay là những báu vật nhân văn sống. Do đó
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với việc bảo vệ
những báu vật nhân văn sống. Đó là việc xã hội thừa nhận các tài năng dân gian,
tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để họ sống lâu, khỏe mạnh, phát
huy được khả năng trong quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống. Cần phải phục hồi các giá trị một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy, khoa
học chứ không thể chủ quan, tùy tiện. Tất cả những giá trị phải được kiểm chứng
qua nhiều phương pháp nghiên cứu có tính chất chuyên môn cao, có giá trị thực
chứng thuyết phục thông qua các dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và
xuất bản các dấu tích di sản văn hóa phi vật thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng chính là phương thức lý tưởng
nhất. Nếu không thể bảo tồn nguyên dạng thì có thể bảo tồn theo hiện dạng đang có.

12



Bởi theo quy luật của thời gian thì các di sản văn hóa phi vật thể ngày càng có xu
hướng xa dần nguyên gốc. Nếu không thể khôi phục được nguyên gốc thì bảo
tồn hiện dạng là điều khả thi nhất. Tuy nhiên hiện dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ
với nguyên dạng. Theo đó, cần xác định rõ thời điểm bảo tồn để sau này khi có
thêm tư liệu tin cậy thì sẽ tiếp tục phục nguyên ở dạng gốc di sản văn hóa.
1.1.2. Các bước thực hiện chính sách Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa phi vật thể diễn ra trong thời gian dài và có liên quan đến nhiều tổ chức, cá
nhân, vì thế để chính sách mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn của chủ thể
ban hành chính sách cũng như các đối tượng chính sách thì quá trình tổ chức thực
hiện cần phải được thực hiện theo một quy trình khoa học, hợp lý và phù hợp với
những điều kiện khách quan của quá trình chính sách. Vận dụng lý thuyết chính
sách công được học, chúng tôi cho rằng, quá trình tổ chức thực hiện chính sách Bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể gồm các bước sau:
1.2.1.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Đây là bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng nhất trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách. Để đảm bảo cho chính sách nhanh chóng và dễ dàng đi vào
đời sống xã hội, chúng cần phải được cụ thể hóa bằng những Kế hoạch hành động
cụ thể để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động và có kết
quả, hiệu quả.
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi
vật thể được xây dựng trước khi đưa chính sách vào đời sống xã hội. Trong quá
trình tổ chức thực hiện chính sách, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, các
cơ quan có trách nhiệm triển khai thực hiện chính sách từ trung ương đến địa
phương đều phải xây dựng các Kế hoạch triển khai thực hiện. Kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể bao gồm những nội
dung cơ bản như: kế hoạch về tổ chức, điều hành; kế hoạch cung cấp các nguồn vật
lực; kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện


13


chính sách; dự kiến những nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; các biện pháp
khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách.
Kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể ở
cấp nào sẽ do cơ quan chủ trì của cấp đó xây dựng. Sau khi được quyết định thông
qua, kế hoạch thực hiện chính sách sẽ mang giá trị pháp lý, được các chủ thể triển
khai thực hiện chính sách và cả đối tượng của chính sách nghiêm chỉnh thực hiện.
1.2.1.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách
Sau khi bản kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị
DSVH phi vật thể được thông qua, các cơ quan nhà nước tiến hành tổ chức triển khai
thực hiện theo kế hoạch. Việc trước tiên cần làm trong quá trình này là tuyên truyền
vận động nhân dân, các tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia thực hiện chính sách
bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể. Đây là một hoạt động quan trọng, có ý
nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên
truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân hiểu rõ về
mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách và tính khả thi của
chính sách...trong điều kiện hoàn cảnh nhất định để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu
quản lý của nhà nước. Đồng thời phổ biến, tuyên truyền chính sách còn giúp cho mỗi
cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức được đầy đủ tính chất,
quy mô của chính sách cũng như vai trò của chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH
phi vật thể đối với đời sống xã hội để họ chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích
hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả kế
hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.
Phổ biến, tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị DSVH phi vật thể được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách
đang được thực hiện, để mọi đối tượng cần tuyên truyền luôn được củng cố lòng tin
vào chính sách và tích cực tham gia vào thực hiện chính sách. Phổ biến, tuyên
truyền chính sách bằng nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối

tượng là người lưu giữ di sản (những ông thầy mo Mường, nghệ nhân chiêng
Mường, người uy tín trong công đồng, người tổ chức lễ hội…) qua các phương tiện

14


thông tin đại chúng v.v. Tuỳ theo yêu cầu của các cơ quan quản lý, tính chất của
chính sách và điều kiện cụ thể mà có thể lựa chọn hình thức tuyên truyền, vận động
sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.1.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể khi được tổ chức thực
hiện cần có sự chung tay thực hiện của nhiều cấp, nhiều ngành ở nhiều lĩnh vực
khác nhau, chứ không chỉ dành riêng cho lĩnh vực văn hóa. Vì thế các chủ thể tham
gia vào quá trình này rất phong phú, bao gồm các đối tượng của chính sách, các cơ
quan trong bộ máy nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, thậm
chí là các nhà khoa học và các đối tượng khác trong xã hội.v.v. Bởi vậy, muốn tổ
chức thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị DSVH phi vật thể có hiệu quả
cần phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, các cấp
chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực hiện chính sách.
Trong phân công nhiệm vụ cần đặc biệt chú ý đến khả năng, trình độ năng
lực chuyên môn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng trùng
chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. Việc phân công, phối hợp nhịp nhàng giữa
các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện chính sách thể hiện năng lực tổ chức
điều hành của người lãnh đạo, người quản lý trong triển khai thực hiện kế hoạch
đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống.
1.2.1.4. Duy trì chính sách
Để duy trì chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể trong
điều kiện thực tế của địa phương thì nhất quán các cơ quan nhà nước, các cấp có
thẩm quyền và đơn vị liên quan phải đồng tâm, hợp lực với nhau; phải có liên hệ
mật thiết với nhân dân trong việc thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động

người dân và toàn dân tích cực tham gia thực hiện chính sách. Trong một chừng
mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cấp có thẩm quyền có thể kết
hợp sử dụng biện pháp hành chính để duy trì chính sách. Bên cạnh đó, người dân,
đặc biệt là những người nắm giữ di sản cần có trách nhiệm tham gia thực hiện yêu
cầu của nhà nước và vận động lẫn nhau tích cực nâng cao tính tự giác chấp hành

15


chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của cơ quan nhà nước.
Để thực hiện tốt việc duy trì thực hiện chính sách cần phải đảm bảo một số
nội dung sau:
- Cụ thể hóa nội dung triển khai bằng các văn bản mang tính pháp lý - qui
định rành mạch, hợp lý trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện; tránh tình
trạng lẫn lộn quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện.
- Tổ chức phối hợp thống nhất, hiệu quả, đồng bộ (giữa cơ quan chủ trì với
cơ quan khác; giữa cơ quan nhà nước với nhân dân).
- Đảm bảo các điều kiện về nhân lực, vật lực và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
- Đảm bảo kế hoạch hóa về thời gian và qui trình thủ tục thực hiện.
- Đảm bảo thông suốt về thông tin (mệnh lệnh và phản hồi) trong quá trình
thực hiện, triển khai, duy trì chính sách.
- Đảm bảo sự thống nhất giữa việc kiên trì mục tiêu chính sách công với việc
sáng tạo trong khi sử dụng các biện pháp, hình thức, chương trình hành động cụ thể
thích hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
1.2.1.5. Điều chỉnh việc thực hiện chính sách
Điều chính chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong
tiến trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình
thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh
bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chính các biện pháp, cơ chế chính

sách diễn ra rất năng động, linh hoạt, vì thế cơ quan nhà nước các ngành, các cấp
chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện có hiệu quả chính
sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu chính sách.
Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: để chính
sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu,
hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chỉnh làm thay
đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách, thì coi như chính sách không tồn tại.
Hoạt động điều chỉnh chính sách đòi hỏi phải chính xác, hợp lý, nếu không

16


sẽ làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả,
thậm chí không tồn tại được. Muốn đáp ứng những đòi hỏi chính đáng trên đây, cơ
quan Nhà nước các ngành, các cấp phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra đôn đốc
thực thi mới kịp thời phát hiện những chênh lệch, sai sót để điều chỉnh, bổ sung.
1.2.1.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể diễn ra trên địa
bàn tương đối rộng và do nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia. Các điều kiện
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường ở các vùng, địa phương không
giống nhau, cũng như trình độ, năng lực tổ chức điều hành của cán bộ, công chức
trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Qua
kiểm tra, đôn đốc thường xuyên sẽ giúp cho cơ quan quan nhà nước có thẩm quyền
nắm bắt được tình hình thực hiện chính sách, từ đó đánh giá được một cách khách
quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực hiện chính sách;
giúp phát hiện những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ chức thực hiện để
điều chỉnh; tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng các hoạt động giữa các cơ quan, đối
tượng thực hiện chính sách; kịp thời khuyến khích những mô hình bảo tồn di sản
phi vật thể phù hợp, mang lại kết quả để tạo ra những phong trào thiết thực cho việc

thực hiện mục tiêu lớn của chính sách bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể.
Chủ thể tham gia kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy DSVH phi vật thể là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Tuy
nhiên, để đảm bảo tính khách quan và chính xác về kết quả kiểm tra đánh giá, quá
trình này còn cần có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, thậm chí là của
chính đối tượng chính sách. Có như vậy mới bảo đảm được tính dân chủ trong quá
trình thực hiện chính sách.
1.2.1.7. Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách
Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm là bước cuối cùng trong các bước thực
hiện chính sách, bước này giúp chúng ta hệ thống lại một quá trình thực hiện chính
sách, rút ra những việc làm tốt, việc chưa phù hợp, chưa đúng, đồng thời có thêm

17


những kinh nghiệm thực hiện chính sách.
Đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách là quá trình xem xét, kết luận về
sự chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chính sách của chủ thể thực hiện chính sách
(các cơ quan, tổ chức và đội ngũ cán bộ công chức có chức năng thực hiện chính
sách) và việc cháp hành thực hiện của các đối tượng thụ hưởng chính sách. Thước
đo đánh giá kết quả thực hiện chính sách là: tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính
sách; ý thức chấp hành các quy định về cơ chế, biện pháp thực hiện mục tiêu chính
sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
Cùng với việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo điều hành, thực hiện của các
cơ quan nhà nước, của đội ngũ cán bộ công chức còn phải xem xét, đánh giá kết quả
việc thực hiện của các đối tượng thụ hưởng trực tiếp và gián tiếp từ chính sách.
Thước đo, căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện chính sách của các đối tượng này là
tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách, ý thức chấp hành những quy định về
cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục
tiêu và các quy định cụ thể của chính sách.

1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH phi vật thể có nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá
trình này. Trong số những yếu tố đó có cả những yếu tố thuộc về nhà nước, yếu tố
thuộc về chính các đối tượng của chính sách và những yếu tố kinh tế, xã hội khác.
Thứ nhất: Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ, công
chức ở các cấp trong công tác bảo tồn và phát huy DSVH. Đây là yếu tố có vai trò
quyết định đến kết quả tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy DSVH.
Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và của đội ngũ cán bộ, công chức trong
thực hiện chính sách là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công
vụ, về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng
phó được với những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện chính
sách v.v. Các cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền khi được giao nhiệm vụ

18


tổ chức thực hiện chính sách, cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ
luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực hiện. Tinh thần trách nhiệm
và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực thực tế. Đây là một yêu
cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công chức để thực hiện việc chuyển tải ý đồ
chính sách của nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan có
thẩm quyền tổ chức thực hiện chính sách sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát
với thực tế, dẫn đến lãng phí nguồn lực được huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả
của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực
hiện v.v. Năng lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở
thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá
nhân và tổ chức trong xã hội.
Thứ hai: Công tác vận động tuyên truyền về chính sách. Công tác tuyên

truyền về chính sách bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể nhằm nâng cao nhận
thức cho đội ngũ cán bộ, công chức và cho các đối tượng của chính sách để họ chủ
động, tự giác tham gia vào quá trình chính sách của nhà nước, sớm đưa các di sản
phi vật thể của địa phương vào danh mục DSVH phi vật thể cấp quốc gia, phát huy
được giá trị to lớn của các DSVH phi vật thể.
Trong thực hiễn thực hiện chính sách về bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể
ở nước ta hiện nay, công tác vận đồng tuyên truyền về chính sách còn bị xem nhẹ và
được thực hiện mang tính máy móc, hình thức nên kết quả vận động tuyên truyền chưa
cao, chưa làm cho các đối tượng của chính sách chủ động, tích cực tham gia vào công
cuộc kiểm kê di sản, bảo tồn các DSVH phi vật thể của nhà nước.
Thứ ba: Điều kiện kinh tế và nguồn lực để thực hiện chính sách của nhà nước.
Để tổ chức triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy DSVH phi vật thể đạt
được kết quả và hiệu quả trong điều kiện hiện nay, nhà nước luôn phải tăng cường các
nguồn lực vật chất để phục vụ cho việc triển khai thực hiện chính sách. Tuy nhiên, thực
tế hiện nay trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể là công tác xã
hội hóa còn thiếu sự định hướng, thiếu những chính sách, chế tài cụ thể để khuyến
khích, kêu gọi sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân. Các nguồn lực do dân đóng góp

19


chưa được qui tụ dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước một cách chặt chẽ nên không
được định hướng để sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Thứ tư: Nguồn nhân lực. Cụ thể ở đây là đối tượng của chính sách, là những
nghệ nhân dân gian, người am hiểu sâu sắc và đang nắm giữ linh hồn của các di sản.
Đội ngũ này từ xưa vốn đã ít, hiếm hoi, nay lại càng hiếm vì phần lớn đã qua đời
hoặc tuổi cao, trong khi đó lớp trẻ hiện nay ít hiểu biết và không tâm huyết nhiều
đối với những nghệ thuật biểu diễn dân gian này, dẫn đến công tác truyền dạy, kế
thừa gặp nhiều khó khăn, một số DSVH phi vật thể đang đứng trước nguy cơ bị thất
truyền nếu không có các biện pháp bảo tồn.

1.3. Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể của
Việt Nam
Ngay sau khi giành được độc lập, ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
ký và công bố sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Trong
sắc lệnh này, thuật ngữ “cổ tích” được hiểu với nghĩa DSVH, bao gồm cả văn hóa
vật thể và văn hóa phi vật thể. Từ đó đến nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành.
Hiến pháp 1992 đã quy định trách nhiệm của Nhà nước, các tổ chức và nhân
dân về bảo vệ phát huy DSVH dân tộc. Đặc biệt là Quyết định số 25/TTg ngày
19/1/1993 của Thủ tướng chính phủ về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi
mới sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, trong đó nêu rõ: “Đầu tư 100% cho công tác sưu
tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài, phổ biến các sản phẩm văn hóa tinh thần
như: Văn hóa dân gian, các điệu múa, các làn điệu âm nhạc của các dân tộc, giữ gìn
các nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc cụ dân tộc. Đầu tư 100% kinh phí cho
việc xây dựng tiết mục, luyên tập thường xuyên và trang bị cho các đơn vị nghệ
thuật dân tộc: tuồng, chèo, dân ca, cải lương, múa rối... Nhà nước khuyến khích và
dành một khoảng kinh phí đễ hỗ trợ các tập thể hoặc gia đình tổ chức hoạt động
biểu diễn nghệ thuật và truyền dạy trên cơ sở khai thác, phổ biến nghệ thuật truyền
thống, các loại hình nhạc cụ cổ truyền, xét khen thưởng xứng đáng cho những
người có công sưu tầm các giá trị văn hóa dân gian, các hiện vật bảo tàng có giá trị,

20


×