Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thực trạng và giải pháp xây dựng, phát triển giai cấp công nhân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.71 KB, 73 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==

NGUYỄN THỊ HOÀI

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2012

Sv: Nguyễn Thị Hoài

1


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==


NGUYỄN THỊ HOÀI

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG,
PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dẫn khoa học
CHU THỊ DIỆP

HÀ NỘI - 2012

LỜI CẢM ƠN
Sv: Nguyễn Thị Hoài

2


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn
tới các thầy cô giáo trong khoa GDCT đã quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo Chu Thị Diệp đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Do lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu khoa học, do khả năng,
điều kiện có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được
sự thông cảm ơn góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện

hơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài

Sv: Nguyễn Thị Hoài

3


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong khi nghiên cứu, tôi đã kế thừa những thành quả của các nhà khoa
học, các nhà nghiên cứu với sự trân trọng và biết ơn.
Những kết quả nghiên cứu trong khóa luận chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài

Sv: Nguyễn Thị Hoài

4


Khóa luận tốt nghiệp


Gv: Chu Thị Diệp

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM .................................................. 6
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân .................. 6
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ..... 15
1.3. Sự ra đời và đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam ........................ 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI...................................................................... 24
2.1. Những thành tựu đạt được........................................................................ 24
2.2. Những hạn chế còn tồn tại ....................................................................... 29
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN GIAI CẤP
CÔNG NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................... 49
3.1. Những phương hướng cơ bản về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................... 49
3.2. Một số giải pháp phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện
nay ........................................................................................................ 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 75

Sv: Nguyễn Thị Hoài

5


Khóa luận tốt nghiệp


Gv: Chu Thị Diệp

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức,
giai cấp công nhân ở các nước, nhất là các nước đang phát triển, là một trong
những lực lượng xã hội quan trọng nhất, đang tham gia tích cực vào các
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân
quốc tế. Và hiện nay, cũng đang là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam chính là nền
tảng và là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng. Xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh trong điều kiện hiện nay về thực chất là góp phần quan
trọng vào quá trình xây dựng Đảng, phát triển kinh tế tạo cơ sở cho giữ vững
chế độ định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết lần thứ bảy (khóa VII) của Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Cùng với quá trình phát triển công nghiệp
và nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây
dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn tay nghề cao, có năng lực tiếp
thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng hiệu quả
cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình” [11, tr.581].
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân nhằm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới,
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam giai cấp công nhân đã không ngừng
vươn lên, bắt nhịp với thời cuộc, hằng ngày, hằng giờ hiện diện trong các thành
phần kinh tế, các ngành nghề, làm chủ những phương tiện - kỹ thuật quan trọng
và tiên tiến nhất. Để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Việt Nam không
ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, phát huy vai trò lãnh đạo của mình

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải có nhận thức
đầy đủ về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời đại hiện nay. Từ
đó, thấy được những thế mạnh cần phát huy và những tồn tại cần khắc phục
của giai cấp giai cấp công nhân Việt Nam cho phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo ra điều kiện vững chắc cho
giai cấp công nhân Việt Nam vượt qua được những thách thức của thời đại,

Sv: Nguyễn Thị Hoài

6


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

vươn lên làm chủ nền công nghiệp hiện đại và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp xây dựng, phát
triển giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay”, làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, ở Việt Nam, giai cấp công nhân là vấn đề lý
luận ngày càng thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
dưới nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là sự soi xét của lý luận vào thực tiễn
với xu hướng phát triển mới của công nhân. Ở nước ta cũng có một số công
trình nghiên cứu về giai cấp công nhân như:
Bùi Đình Bôn (1997): Một số vấn đề về giai cấp công nhân hiện nay.
Cuốn sách trình bày những vấn đề xung quanh như cơ cấu, số lượng, chất
lượng giai cấp công nhân. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của giai

cấp đó và đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và phát
triển giai cấp công nhân Việt Nam.
Dương Xuân Ngọc (2004): Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Luận án tiến sĩ. Đề tài nghiên cứu giai cấp
công nhân dưới nhiều góc độ, đặc biệt là về cơ cấu, chất lượng giai cấp công
nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó thấy
nhiệm vụ, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
PGS, TSKH. Nguyễn Viết Vượng (2010): Giai cấp công nhân và tổ
chức công đoàn Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 20. Cuốn sách trình
bày một cách toàn diện về sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân và tổ
chức Công đoàn Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Cao Văn Lượng (chủ biên) 2001: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự
phát triển của giai cấp công nhân, Nxb CTQG, 2001. Với công trình nghiên
cứu này, tác giả đã tìm hiểu và thấy được sự phát triển của giai cấp công
nhân, những thành tựu mà giai cấp đã đạt được trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Phạm Việt Dũng: Xu hướng vận động, phát triển và một số giải pháp
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hiện nay - Tạp chí
cộng sản (số 6 - 27/04/2012). Tác giả đã trình bày cụ thể những xu hướng vận

Sv: Nguyễn Thị Hoài

7


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp


động, phát triển và nêu được những giải pháp cụ thể cho việc đẩy mạnh phát
triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Ts. Đặng Ngọc Tùng: Xây dựng, phát triển giai cấp công nhân và tổ
chức công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới – Tạp chí cộng sản
(số 8 - 1/11/2011). Tác giả thông qua thực trạng đã trình bày cụ thể vấn đề
cần phải xây dựng, phát triển giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt
Nam để đáp ứng yêu cầu hiện nay. Từ đó có những phương hướng, giải pháp
cụ thể phát triển giai cấp công nhân.
Nguyễn Thị Thu Hà (2011): Cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp – Luận văn tốt nghiệp, Học viện Báo chí tuyên
truyền. Đề tài nghiên cứu về giai cấp công nhân nhưng tập chung chủ yếu vào
mặt cơ cấu giai cấp công nhân, trình bày thực trạng cơ cấu qua đó đưa ra một
số giải pháp nhằm phát triển giai cấp công nhân đáp ứng nhu cầu hiện nay.
Như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam, từ nhiều góc độ, đã trở thành
đối tượng nghiên cứu chính của nhiều công trình. Tuy vậy, trước những thay
đổi to lớn về mọi mặt khi đất nước ta trở thành thành viên chính thức của tổ
chức thương mại thế giới WTO, vấn đề thực trạng của giai cấp công nhân
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những giải pháp kèm theo, xứng đáng
được khảo sát và phân tích trong một công trình riêng. Những nghiên cứu đã
trình bày trên đây là những nguồn tư liệu hết sức quan trọng giúp cho chúng
tôi xây dựng và hoàn thiện đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tập chung làm rõ thực trạng phát triển và đưa ra một số giải pháp
nhằm phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Thứ nhất, khóa luận làm rõ thực trạng phát triển của giai cấp công nhân
và những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
Thứ hai, khóa luận bước đầu đưa ra một số phương hướng và giải
pháp cơ bản nhằm phát triển giai cấp công nhân Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng phát triển giai cấp công
nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Sv: Nguyễn Thị Hoài

8


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Để thực hiện được mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, khóa luận
đã dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình thực hiện tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu để trình bày các luận
điểm của mình.
6. Đóng góp của đề tài
Với kết quả đạt được khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho học
sinh, sinh viên, giáo viên các môn chính trị, đạo đức học trong các trường Đại
học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề
này.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận chia 3
chương, 7 tiết.

Sv: Nguyễn Thị Hoài


9


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân
1.1.1. Quan điểm của Mác - Ăngghen
Khi đề cập đến giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã sử dụng nhiều
thuật ngữ khác nhau những cụm từ đồng nghĩa có nội hàm khái niệm giống
nhau để chỉ giai cấp như: “giai cấp vô sản”, “vô sản đại cơ khí”, “vô sản đại
công nghiệp”, “giai cấp những người lao động làm thuê của thế kỷ XIX”,
“giai cấp vô sản hiện đại”, “giai cấp công nhân hiện đại”… Các nhà kinh điển
cuả chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra giai cấp vô
sản, giai cấp công nhân là gì, mà quan trọng hơn, giai cấp này phải làm gì để
giải phóng mình? “giai cấp vô sản” là gì? Vấn đề này đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập trong nhiều tác phẩm, và hai ông đã nêu nhiều thuộc tính
của giai cấp vô sản.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen” - lời nói đầu, C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội, xu hướng
phát triển của giai cấp vô sản, và Mác nói rằng: ở Đức giai cấp vô sản chỉ mới
bắt đầu hình thành nhờ sự phát triển của công nghiệp. Như vậy giai cấp vô
sản ra đời gắn với công nghiệp, nó là sản phẩm của công nghiệp. Về mặt xã
hội, giai cấp vô sản nảy sinh và hình thành trong quá trình tan rã của xã hội
phong kiến chuyển lên chế độ tư bản chủ nghĩa, do sự phân rã của tất cả các

đẳng cấp, trước hết là sự phân rã của đẳng cấp trung gian. Xu hướng phát
triển của giai cấp vô sản là đi tới chỗ xóa bỏ nó với tư cách là một giai cấp
[22, tr. 589 - 590].
Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích
mối quan hệ giữa giai cấp vô sản và chế độ tư hữu. Giai cấp vô sản là sản

Sv: Nguyễn Thị Hoài

10


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

phẩm của chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu muốn duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của
bản thân nó, thì nó phải duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của mặt đối lập với nó là
giai cấp vô sản. Chế độ tìm được sự thỏa mãn trong bản thân mình là mặt
khẳng định của sự đối lập của một chỉnh thể thống nhất - chế độ tư hữu. Cả
hai đều là sản phẩm của chế độ ấy. Xu hướng phát triển của giai cấp vô sản là
đi tới sự thủ tiêu của bản thân mình với tư cách là giai cấp vô sản, do đó, tiêu
diệt cả mặt đối lập với nó là chế độ tư hữu – đang chi phối và làm cho nó
thành giai cấp tư sản. Mác và Ăngghen viết: “vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản
thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản
buộc phải làm gì về mặt lịch sử” [20, tr.56, 348 - 354].
Đến tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động Anh”. Ph.Ăngghen
khẳng định: Anh là nước điển hình của sự phát triển của giai cấp vô sản. Giai
cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp Anh.
Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII. Và công
nghiệp nhỏ đã nảy sinh giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã làm nảy sinh giai

cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào công nhân.
Họ là những người nhận thức được rõ ràng nhất những lợi ích của bản thân
mình.Vì trình độ văn hóa của các loại công nhân liên quan trực tiếp với mối
quan hệ của họ với công nghiệp [20, tr.56, 348 - 354].
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”,
Ph.Ăngghen đã định nghĩa giai cấp vô sản như sau: “giai cấp vô sản là một
giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ
không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp
mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ
thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của
công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn
cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai
cấp lao động trong thế kỷ XIX … Giai cấp là do cuộc cách mạng sản sinh ra”
[21, tr.456 - 457].

Sv: Nguyễn Thị Hoài

11


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Thật vậy, giai cấp vô sản ra đời là một quá trình lâu dài, từ tầng lớp vô
sản đầu tiên đến vô sản công trường thủ công và giai cấp vô sản hiện đại. Vào
các thế kỷ XIV và XV, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành
ở một số nước châu Âu, quá trình tích lũy tư bản chử nghĩa diễn ra làm xuất
hiện lao động làm thuê tư bản chủ nghĩa. Lớp người lao động này từng bước
bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt chủ yếu, trở thành người tự

do bán sức lao động để kiếm sống . Đó chính là những người vô sản đầu tiên.
Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, cùng với sự ra đời và phát triển kiểu tổ
chức sản xuất công trường thủ công, giai cấp vô sản công trường thủ công
hình thành, song phần lớn họ còn mang nặng tư tưởng, tâm lý người sản xuất
nhỏ, chưa bị cột chặt vào bộ máy sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cho nên, vô sản
công trường thủ công chưa trở thành một lực lượng ổn định, độc lập trong xã
hội. Cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX tạo ra
bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, đánh dấu bước
chuyển căn bản của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn đại công xưởng, giai cấp
vô sản hiện đại ra đời và nhanh chóng trở thành một lực lượng xã hội to lớn.
Như vậy sự ra đời của giai cấp vô sản gắn liền với nền sản xuất đại
công nghiệp và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất đại công
nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản xuất thủ công. Đúng như Ph.Ăngghen đã
viết: “đại công nghiệp kéo người công nhân công trường thủ công ra khỏi
những điều kiện gia trưởng của họ, họ mất hết mọi tài sản cuối cùng của họ và
chỉ khi đó họ mới trở thành người vô sản giai cấp vô sản là do cuộc cách
mạng công nghiệp sinh ra”.
Lần đầu tiên C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày khái niệm giai cấp vô
sản tương đối đầy đủ trên các phương diện trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản và có thể khái quát lại với một số điểm chủ yếu là:

Sv: Nguyễn Thị Hoài

12


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp


Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế, giai cấp vô sản ra đời gắn với đại công
nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, nền sản xuất xã
hội hóa ngày càng cao.
Thứ hai, về nguồn gốc xã hội, giai cấp vô sản được tuyển mộ từ tất cả
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, những đặc trưng chủ yếu của giai cấp vô sản hiện đại bao gồm:
không có tư liệu sản xuất; về lợi ích cơ bản, đối lập trực tiếp với giai cấp tư
sản; giai cấp vô sản là hiện thân của phương thức sản xuất tiên tiến; có tính
quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản, tính tiên phong, tinh thần cách mạng triệt để,
đoàn kết giai cấp, tính tổ chức kỷ luật cao.
Thứ tư, bản chất quốc tế của giai cấp vô sản được quy định bởi quá
trình quốc tế hóa sản xuất công nghiệp…; đồng thời giai câp vô sản có bản
sắc dân tộc, gắn với mỗi dân tộc cụ thể, trở thành “giai cấp dân tộc” và chịu
trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Thứ năm, quá trình đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp thống trị. Một bộ phận nhỏ của giai cấp
này - những nhà tư tưởng tư sản tiến bộ đã từ bỏ cuộc sống và thành phần giai
cấp xuất thân, vươn lên nhận thức được về mặt lý luận toàn bộ quá trình vận
động lịch sử, tách khỏi giai cấp xuất thân, đi theo giai cấp vô sản, làm cho giai
cấp vô sản ngày càng nhận thức rõ được sức mạnh và sử mệnh lịch sử của
mình.
Thứ sáu, xu hướng phát triển, giai cấp công nhân không ngừng tăng lên
về số lượng và chất lượng cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp.
Cần nhấn mạnh rằng khái niệm về giai cấp vô sản đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen rút ra qua sự phân tích một cách sâu sắc từ địa vị kinh tế - xã hội
của giai cấp đó dưới chế độ tư bản trong những năm nửa đầu thế kỷ XIX.
Những kết luận ấy cũng đã được thực tiễn lịch sử, xã hội đương thời chứng
minh là đúng đắn và khoa học.

Sv: Nguyễn Thị Hoài


13


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Những đặc trưng cơ bản của giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa mà C.Mác và Ph.Ănghen nêu lên trên đã được V.I.Lênin tiếp tục làm
rõ, phát triển và khẳng định trong tác phẩm của mình.
1.1.2. Quan điểm của Lênin
Từ thực tiễn lịch sử thế kỷ XX, V.I.Lênin chỉ rõ giai cấp vô sản là giai
cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo xã hội trong cuộc đấu tranh chống
lại ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội
mới, trong cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Ông đã phân biệt
giai cấp vô sản với tầng lớp tri thức. “người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn
to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử khác nhau về quan hệ của họ (thông thường
thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư
liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, như vậy là khác
nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoạn này thì có thể
chiếm đoạt lao động của những tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị
khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [19, tr.17-18].
Như vậy, trí thức không phải là một giai cấp xã hội vì nói chung trí
thức không có hệ tư tưởng riêng và không có quan hệ độc lập với tư liệu sản
xuất. Họ lao động bằng trí óc, độc lập, sáng tạo dựa trên cơ sở một trình độ
văn hóa cơ bản cần thiết. Đó cũng là một đặc trưng nổi bật của trí thức mà từ
đó có thể phân biệt họ với giai cấp công nhân.

Trước hoàn cảnh của nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I Lênin
mặt bên trong và “tâm lý vô sản” của người công nhân làm cơ sở để phân biệt
giữa giai cấp vô sản hiện đại với tầng lớp vô sản lưu manh vốn là sản phẩm
của quá trình đổ vỡ và thối nát của xã hội cũ.
Về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: có thể diễn đạt khái quát
nhất những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử

Sv: Nguyễn Thị Hoài

14


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

của giai cấp công nhân là tiến hành sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng
để giải phóng con người. Sứ mệnh lịch sử đó được biểu hiện qua những nội
dung cơ bản nhất sau đây:
Một là, gắn quá trình tổ chức, phát triển sản xuất xã hội với trình độ
khoa học - kỹ thuật ngày càng hiện đại. Đây là nội dung thường xuyên và trực
tiếp nhất. Tách rời sản xuất hiện đại, giai cấp công nhân không còn sứ mệnh
lịch sử với những nội dung tiếp theo. Đó là một nhận thức khoa học rút ra từ
thực tế lịch sử hình thành, phát triển giai cấp công nhân. Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân không chỉ bắt đầu với nội dung “giành chính quyền” mà
trái lại có nội dung rộng lớn hơn kể cả trước khi giành chính quyền. Từ nội
dung sản xuất hiện đại và đấu tranh cách mạng mới dẫn đến nội dung “giành
chính quyền”.
Hai là, thông qua đảng tiên phong của mình giai cấp công nhân lãnh
đạo và tổ chức quá trình giành chính quyền về tay mình và nhân dân lao động,

xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa (và các chế độ tư hữu, áp bức, bóc lột), xóa bỏ
giai cấp tư sản (và cá giai cấp bóc lột), giải tán chế độ nhà nước của chế độ
cũ, thành lập chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ba là, giai cấp công nhân thông qua đảng lãnh đạo của mình, tổ chức
thực hiện quá trình củng cố, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước và đồng
thời xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, để từng bước hình thành xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trên thực tế ở mỗi nước và trên toàn cầu.
Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách khoa học rằng:
Đó là những quá trình cải biến cách mạng căn bản, toàn diện, triệt để trên
phạm vi quốc gia, quốc tế. Đó là một nội dung mới mẻ và rất phức tạp, do đó
là một nội dung được thực hiện từng bước, lâu dài, với yeu cầu ngày càng cao
đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và nhất là đối với đảng cộng
sản, với nhà nước cả về sức lực, trí tuệ lẫn bản lĩnh và lập trường chính trị,
nhân cách và phong cách của mình. Nếu giai cấp công nhân coi nhẹ vấn đề
này, mắc bệnh “tả” khuynh hay “hữu” khuynh, “đốt cháy giai đoạn”, giản
đơn, chủ quan, duy ý chí thì thời kỳ quá độ và quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ khó khăn và kéo dài hơn.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

15


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp


Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện kinh tế,
chính trị - xã hội khách quan quy định từ khi nó hình thành và phát triển trong
chủ nghĩa tư bản. Sứ mệnh đó không hề xuất phát từ mong muốn chủ quan
của giai cấp công nhân và đảng của nó; cũng không hề do bất kì tài trí của cá
nhân nào “sáng tạo” ra! Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mang tính
qui luật khách quan trong sự phát triển tất yếu của nhân loại, như chủ nghĩa
Mác - Lênin đã luận chứng một cách khoa học, xuất phát từ thực tiễn rằng:
đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, và sự sụp đổ của giai
cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau.
Trước hết, về những điều kiện kinh tế - kĩ thuật, thì nền công nghiệp
ngày càng hiện đại đã quyết định nhiều đặc điểm của giai cấp công nhân và từ
những đặc điểm vốn có đó mà giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có
những sứ mệnh lịch sử đã nêu trên. Chính quá trình lao động sản xuất gắn với
các qui trình kĩ thuật hiện đại đã làm cho giai cấp công nhân có những vị thế
kinh tế - xã hội và những đặc điểm riêng mà không giai cấp nào, tầng lớp nào
có được (tính tổ chức kĩ thuật cao do các yêu cầu kĩ thuật của sản xuất trực
tiếp mang tính liên hợp, đồng bộ; tính xã hội, quốc tế hóa cao…). Ngay cả khi
so sánh với tầng lớp trí thức thì trí thức có thể có ưu trội hơn giai cấp công
nhân vì trí tuệ khoa học do đặc trưng lao động trí óc của họ. Nhưng với tất cả
các đặc trưng như giai cấp công nhân thì trí thức không thể có. Vả lại, tri thức
cũng không bao giờ đóng vai trò quyết định nhất trong sản xuất vật chất đối
với sự tồn tại, phát triển xã hội; trí thức càng không đại diện cho một phương
thức sản xuất riêng để có một đảng chính trị riêng có thể lãnh đạo cách mạng.
Nói như vậy không có nghĩa là tách rời, đối lập tri thức với công nhân.
Trái lại, tri thức bao giờ cũng gắn với giai cấp, nhất là giai cấp thống trị xã hội
và nền tảng sản xuất càng hiện đại bao nhiêu thì giai cấp công nhân và tầng
lớp trí thức càng gắn bó với nhau hơn ngay trong nền sản xuất đó. Thực tế đã
chứng minh, ngày nay, giai cấp công nhân nhiều nước đã có tầng lớp trí thức
của mình và bản thân giai cấp công nhân cũng ngày càng có trí tuệ cao hơn.


Sv: Nguyễn Thị Hoài

16


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Thứ hai, cũng do nền công nghiệp hiện đại phát triển mà giai cấp công
nhân ngày càng được trang bị thêm nhận thức mới, hiện đại cả về văn hóa cơ
bản, khoa học - kĩ thuật, tay nghề và chính trị - xã hội. Đây cũng là yêu cầu
khách quan đối với giai cấp công nhân trong quá trình sản xuất, hoạt động xã
hội và đấu tranh cách mạng. Vì thế, nền sản xuất hiện đại cũng qui định một
cách khách quan giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, đại diện cho phương
thức sản xuất mới và có sứ mệnh lịch sử thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi
thời, xét về mặt kinh tế.
Thứ ba, khi nền sản xuất hiện đại phát triển cùng với phong trào công
nhân và nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột trong chủ nghĩa tư bản (trong đó
có tri thức, đại bộ phận là người lao động bị bóc lột về “chất xám”) thì chính
giai cấp công nhân luôn được bổ sung một lượng trí thức và những người lao
động khác, giác ngộ, ra nhập giai cấp công nhân; thậm chí một số trí thức giác
ngộ đã giúp giai cấp công nhân hình thành hệ tư tưởng, hiểu về sứ mệnh lịch
sử của mình, tiến tới hình thành đảng tiên phong để lãnh đạo phong trào. Đó
cũng là sự qui định khách quan đối với sứ mệnh lịch sử mà không giai cấp,
tầng lớp nào có được.
Thứ tư, tính qui luật khách quan, cơ bản nhất và mang ý nghĩa tổng hợp
về cả địa vị kinh tế lẫn chính trị - xã hội đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là: ngay từ trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã nảy sinh mâu thuẫn cơ
bản nhất, đó là mâu thuẫn về mặt kinh tế, giữa lực lượng sản xuất phát triển ở

trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó
biểu hiện về mặt chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với
giai cấp tư sản. Cả hai mặt của mâu thuẫn cơ bản này không thể giải quyết
triệt để trong khuôn khổ chế độ tư bản chủ nghĩa, nên tất yếu dẫn tới cách
mạng xã hội chủ nghĩa như một yêu cầu khách quan để giải quyết triệt để mâu
thuẫn cơ bản ấy thúc đẩy kinh tế, xã hội tiếp tục phát triển cao hơn chế độ tư

Sv: Nguyễn Thị Hoài

17


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

bản chủ nghĩa. Việc lãnh đạo và tổ chức qua trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể là sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và đảng của nó.
Ph.Ăngghen khẳng định, hoàn thành được kỳ công ấy, đó là sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại. V.I.Lênin chỉ rõ: điều chủ yếu trong học
thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai
cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, khi chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế
quốc và là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội xét trên
toàn cầu thì những những tiền đề, điều kiện khách quan và chủ quan mới nảy
sinh tính quy luật đặc thù: có nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc chủ nghĩa đế
quốc, chưa từng qua chủ nghĩa tư bản mà còn là những nước lạc hậu về kinh
tế, những nước “đang phát triển” vẫn có khả năng nổ ra cách mạng xã hội

dưới dạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi lên chủ nghĩa xã hội, không qua
chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở các nước đó, tuy công nghiệp và phong trào công
nhân còn chưa phát triển nhưng phong trào giải phóng dân tộc, chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa,
phong trào công nhân quốc tế…vẫn có khả năng hình thành đảng Mác - Lênin
để lãnh đạo cách mạng thành công. Tính quy luật đặc thù đó đã được thể hiện
qua cách mạnh Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cuba, Lào và nhiều nước
khác. Điều này cũng nằm trong tính tất yếu của quá trình “lịch sử tự nhiên”
chung là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội của cả thời đại.
Những nước “quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” đó, đương nhiên có rất
nhiều khó khăn, phức tạp, nhưng có nhiều thuận lợi, có thể rút ngắn quá trình
lịch sử lâu dài và bị áp bức, bóc lột cho đại đa số nhân dân lao động. Tính chủ
động, sáng tạo và sự kiên định, vững vàng qua thử thách của các đảng cộng
sản và nhân dân ở những nước “quá độ bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”
càng phải thể hiện ở nỗ lực cao hơn, tránh những sau lầm mang tính nguyên
tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

18


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Như vậy, những đặc trưng của giai cấp vô sản mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu và V.I.Lênin tiếp tục phát triển, khẳng định phù hợp với
điều kiện lịch sử ngày ấy. Những đặc trưng cơ bản đó đến nay vẫn còn
nguyên giá trị. Nó là cơ sở phương pháp luận khoa học để cho chúng ta

nghiên cứu về giai cấp công nhân hiện đại trong điều kiện lịch sử mới.
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quán triệt sâu sắc thuyết Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta, chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân, của Đảng
cộng sản Việt Nam, tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giai cấp công
nhân, song trong nhiều bài viết quan trọng, Người đã chỉ ra vai trò, sứ mệnh
lịch sử, khả năng cách mạng của giai cấp công nhân.
Theo người, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại, giai cấp công nhân
lãnh đạo cách mạng thông qua chính đảng của mình.
Nhận thức rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc là ăn bám, bóc lột giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh khẳng
định: Giai cấp công nhân thế giới và cả chính quốc, ở cả thuộc địa phải đoàn
kết, phối hợp với nhau trong cuộc đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giành lại
quyền bình đẳng cho các dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân. Sự nghiệp
ấy phải do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Khẳng định giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng, trong
bản tham luận Đại hội quốc tế nông dân lần thứ nhất, Hồ Chí Minh nói:
“Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc lập và duy nhất
có sứ mệnh lịch sử là Người lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”
[16, tr.26].
Trong bài viết đăng trên báo nhân dân (số 2120, ngày 6/01/1960) nhân
kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Người khẳng định:
“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và
Sv: Nguyễn Thị Hoài

19



Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là
Người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin nhất của nhân dân Việt Nam”.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách
mạng đồng thời Người cũng nhấn mạnh rằng: giai cấp công nhân muốn hoàn
thành sứ mệnh vẻ vang của mình cần có đội tiên phong, có lãnh tụ chính trị,
có bộ tham mưu chiến đấu của mình đó là Đảng cộng sản.
Không chỉ là lực lượng lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh giai cấp công nhân
là lực lượng chủ yếu, là gốc của cách mạng. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” Người viết “Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công
nông là người chủ cách mệnh…công nông là gốc cách mệnh”.
Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở đâu Người cũng
nhấn mạnh vai trò to lớn của giai cấp công nhân, công nhân là người làm chủ
nước nhà “công nhân phải hiểu xí nghiệp là của mình, làm chủ nước nhà là
nói chung, làm chủ xí nghiệp là nói riêng, xí nghiệp có phát triển tương lai
của công nhân mới tiến lên” [17,tr.566].
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là nhiệm vụ, công việc chung của tất cả
các giai tầng trong xã hội nhưng Hồ Chí Minh khẳng định “Lực lượng chủ
chốt xây dựng chủ nghĩa xã hội là công nhân” [17, tr.809].
Như vậy, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy sứ mệnh lịch sử to lớn
của giai cấp công nhân thế giới nói chung cũng như vai trò của giai cấp công
nhân Việt Nam nói riêng. Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách
mạng, là lực lượng chủ yếu và là gốc của cách mạng. Để giành thắng lợi, cách
mạng phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất,
giác ngộ nhất, kiên quyết nhất và có tổ chức kỷ luật nhất.

1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là con đường cách mạng mà
Đảng và nhân dân ta lựa chọn từ năm 1930. Vận dụng sáng tạo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, quán triệt sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng cộng
sản Việt Nam đã xác định: Giai cấp công nhân là lực lượng chủ yếu, là lực
lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định: Lực lượng đánh đổ
đế quốc và phong kiến là công nông; cách mạng Việt Nam phải do Đảng cộng

Sv: Nguyễn Thị Hoài

20


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

sản Việt Nam - Đảng của giai cấp vô sản và là đội tiên phong của giai cấp vô
sản lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng mới đảm bảo chắc chắn
thắng lợi.
Đến “Luận cương chính trị” của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác
định rõ: Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giai cấp vô sản và nông dân
là hai động lực chính nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới
thắng lợi được” [8, tr.94].
Vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân lại tiếp tục được khẳng định
trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Cộng sản
Đông Dương: “Giai cấp vô sản là lực lượng cơ bản của cách mạng… Nhưng

động lực chính của cuộc đấu tranh - là lực lượng của giai cấp vô sản tức là lực
lượng của công hội. Đó là phương tiện để đấu tranh lật đổ chế độ tư bản, là
phương tiện của Đảng” [10, tr.178].
Vị trí, vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam được xác định ngay từ
những năm 30 của thế kỷ XX, trải qua những bước thăng trầm của lịch sử,
giai cấp công nhân vẫn là lực lượng giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh đọc tại Đại hội 2
đã khẳng định: Công nhân Việt Nam tuy còn trẻ…song nói chung, công nhân
Việt Nam là giai cấp tiên phong của cách mạng” [7, tr.80]. “Hai mươi năm
nay giai cấp công nhân Việt Nam đã nắm vững được quyền lãnh đạo cách
mạng và tỏ ra rất xứng đáng với sứ mệnh lịch sử của mình. Chỉ có dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân và Đảng cách mạng của công nhân, cách
mạng Việt Nam mới có thể thành công, động lực của cách mạng Việt Nam là
nông dân. Kẻ lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân [7, tr.81].
Sau 1975, khi đất nước thống nhất, cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ đó cho đến nay, chúng ta đang cố gắng xây dựng cơ sở - vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội và vai trò của giai cấp công nhân lại tiếp tục được khẳng
định: “lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó
nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất
công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc” [8, tr.33].
Như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam có nhiệm vụ là lãnh đạo cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thông qua đội tiền phong của mình,
giành chính quyền thiết lập nền chuyên chính nhân dân “phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc”. Không thông qua giai đoạn cách mạng đó giai cấp

Sv: Nguyễn Thị Hoài

21



Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

công nhân không thể chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa không có người bóc lột người,
giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự bóc lột bất công. Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nội dung căn bản, cụ thể của giai cấp công
nhân Việt Nam trong giai đoạn mới là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa [8, tr.124].
1.3. Sự ra đời và đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
1.3.1. Sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam
Giữa thế kỷ XIX, khi nền công nghiệp chủ nghĩa tư bản đã phát triển
cao thì Việt Nam vẫn còn trong chế độ phong kiến lac hậu, đời sống của nhân
dân khó khăn, cơ cực, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra, mâu thuẫn
xã hội ngày càng sâu sắc. Năm 1883, triều đình Huế kí hiệp ước hac - măng
với thực dân Pháp, Việt Nam rơi vào tình trạng mất nước. Triều đình Huế
thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, phần còn lại đặt dưới chế độ “bảo
hộ”. Sự bạc nhược của triều đình phong kiến dẫn đến đông đảo quần chúng
nhân dân và một bộ phận sĩ phu yêu nước bất bình. Phong trào kháng chiến
chống thực dân Pháp tiếp tục nổ ra ở nhiều nơi nhưng đều thất bại. Sau khi
phong trào Cần Vương kết thúc, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc tăng
cường và củng cố bộ máy thống trị đồng thời tổ chức khai thác bóc lột trên
quy mô lớn.
Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp được tiến hành một cách toàn
diện trên tất cả các mặt nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, tài chính
ngân hàng. Nét nổi bật trong chính sách của thực dân Pháp là chính sách cướp

đoạt ruộng đất trắng trợn được hợp pháp hóa bằng những điều ước, nghị định
do sự cấu kết chặt chẽ giữa đế quốc và phong kiến. Chính sách cướp đoạt
ruộng đất và khai thác nông nghiệp của thực dân Pháp đã đẩy nông nghiệp Việt
Nam vào tình trạng hết sức tiêu điều. Chính sách cướp đoạt của thực dân Pháp
đã làm người nông dân không còn đất đai để cày cấy, tức họ không còn tư liệu
sản xuất nữa, họ chỉ còn hai bàn tay trắng và sức lao động của mình. Do đó
muốn duy trì cuộc sống của người nông dân không còn sự lựa chọn nào khác,
họ phải làm thuê, mướn phải bán sức lao động cho nhà tư bản ở các hầm mỏ,
nhà máy, xí nghiệp. Và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

22


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Chính sách độc quyền thương mại của thực dân Pháp trong lĩnh vực
thương nghiệp đã bần cùng hóa nhân dân lao động và bóp chết các ngành tiểu
thủ công nghiệp Việt Nam. Còn những người thợ thủ công, họ bị sự cạnh
tranh của hàng hóa đế quốc gạt sang một bên dần dần đi đến phá sản. Cũng
như những người nông dân, những người thợ thủ công không còn tư liệu sản
xuất họ phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và cũng bị nhà tư bản
bóc lột giá trị thặng dư.
Như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp, từ sự bần cùng hóa của người nông dân, thợ thủ
công. “Không phải bao giờ cũng đã có giai cấp vô sản. Trước đây kinh tế
Đông Dương còn là kinh tế tự nhiên, dân cư còn chăm lo cày cấy nhọc nhằn,

thợ thủ công đã có nhưng giai cấp vô sản thì chưa. Từ ngày đế quốc Pháp
dùng vũ lực để xâm lược Đông Dương thành thuộc địa thì người ta mới thấy
xuất hiện một hạng người bán sức lao động để sống”. Và đó chính là giai cấp
công nhân Việt Nam.
1.3.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm, là con đẻ của nền sản xuất
công nghiệp. Nhưng không phải là sản phẩm trực tiếp của nền công nghiệp
trong đó có sự phát triển sức sản xuất, phân công lao động xã hội đem lại mà
là sản phẩm trực tiếp của nền công nghiệp du nhập từ “chính quốc”, từ sự áp
đặt của thực dân Pháp vào nước ta. Mặc dù vậy giai cấp công nhân Việt Nam
vẫn mang những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế như: có tính tổ
chức, kỷ luật cao; có tinh thần cách mạng triệt để, là giai cấp tiên tiến, có bản
chất quốc tế. Bên cạnh đó giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những đặc
điểm riêng của mình là:
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, chủ yếu là đầu thế kỉ XX ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến với một nền nông nghiệp lac hậu là chủ
yếu, công nghiệp chưa có gì; nơi mà thực dân Pháp chỉ coi là thị trường của
chúng và là nơi để chúng khai thác các tài nguyên thiên nhiên mang về phục
vụ cho chính quốc. Do đó, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm số lượng
nhỏ trong xã hội, với trình độ tay nghề thấp. Đây là một hạn chế làm cho giai
cấp công nhân Việt Nam không có trình độ nâng cao trình độ tiếp thu khoa
học công nghệ tiên tiến của các nước trong khu vực và trên thế giới, do đó họ
luôn “ lỗi thời” với công nhân thế giới.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

23


Khóa luận tốt nghiệp


Gv: Chu Thị Diệp

Ra đời trong một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó, giai cấp công nhân
Việt Nam phần đông xuất thân từ nông dân nên chịu ảnh hưởng của thói quen,
tập quán của người sản xuất nhỏ, manh mún, cá thể. Điều này ảnh hưởng đến
tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật của người công nhân. Nhưng
bù lại giai cấp công nhân Việt Nam rất cần cù, chăm chỉ, khéo tay… Đây
chính là đức tính, phẩm chất tốt của người lao động cần được phát huy.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ 1000 năm của phong
kiến phương bắc, 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống mỹ giành độc lập tự
do cho dân tộc, truyền thống khí phách ấy đã tác động đến giai cấp công nhân.
Sinh ra trong một nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân
Việt Nam phải chịu ba tầng áp bức thống trị của phong kiến, tư sản, đế quốc.
Nên có tinh thần cách mạng triệt để, có mối thù sâu sắc với đế quốc phong
kiến tay sai, có ý chí kiên cường trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. “Giai cấp vô sản có một tinh thần quần chúng hơn các
giai cấp khác. Nó không cói gì khác ngoài hai bàn tay và không gắn với chế
độ tư hữu và muốn giải phóng nó phải đánh đổ chế độ đang đẻ ra chủ nghĩa
đế quốc. Từ lao động tập trung từ phân công lao động nảy sinh tinh thần tập
thể hóa. Giai cấp vô sản toàn thế giới không có lợi ích mâu thuẫn nhau, do đó
nó sẽ không chỉ có tinh thần dân tộc chủ nghĩa mà trái lại có tinh thần quốc tế
chủ nghĩa”.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đã vùng lên
đấu tranh, giai cấp công nhân Việt Nam và phát triển trong không khí sục sôi
của các phong trào yêu nước như: phong trào Cần Vương, Đông Du, các cuộc
khởi nghĩa của Đồ Thám, Nguyễn Thái Học… Sự thất bại của phong trào đã
đem lại cho giai cấp công nhân những bài học kinh nghiệm bổ ích nhưng nó
cũng đặt ra nhiệm vị mới cho giai cấp công nhân đó là: tìm ra con đường cách

mạng mới cho dân tộc, xứng đáng là lực lượng tiên phong của thời đại mới.
Giai cấp công nhân ra đời chủ yếu từ nông dân và các tầng lớp nhân
dân khác, do vậy số phận và lợi ích của nó ngay từ đầu đã gắn với số phận và
lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc. Vì vậy sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân gắn bó hữu cơ và thống nhất với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Giai cấp công nhân đại biểu cho lợi ích của dân tộc và nó trở thành lực
lượng lãnh đạo của dân tộc.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

24


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong thời kỳ phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh. Do vậy, nó sớm tiếp thu
được ánh sánh của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác Lênin. Vì vậy, sự nghiệp đấu tranh giải phóng của nó ngay từ đầu đã gắn với
sự nghiệp đấu tranh giải phóng toàn nhân loại và giai cấp công nhân Việt
Nam trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, đóng góp to lớn
vào sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa thực dân, giải
phóng giai cấp, dân tộc và toàn thể nhân loại.
Như vậy, Giai cấp công nhân Việt Nam bên cạnh những đặc điểm
chung của công nhân quốc tế thì vẫn có những đạc điểm riêng. Những đặc
điểm này là do hoàn cảnh lịch sử của việt nam chi phối. Nhờ có những đặc
điểm riêng đó mà giai cấp công nhân Việt Nam sớm giữ vị trí lãnh đạo và
chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Bên cạnh đó, giai cấp nhân còn nhiều mặt hạn chế, trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước những hạn chế đó sẽ dần dần được khắc
phục.

Sv: Nguyễn Thị Hoài

25


×