Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đông Kinh Nghĩa Thục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.03 KB, 13 trang )

Đông Kinh Nghĩa Thục
Đông Kinh Nghĩa Thục (chữ Hán: 東京義塾 ;[1] lập ra từ tháng 3 năm 1907 và chấm dứt
vào tháng 11 năm 1907) là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào
đầu thế kỷ 20 trong thời Pháp thuộc. Mục đích của phong trào là: khai trí cho dân,
phương tiện được hoạch định: mở những lớp dạy học không lấy tiền (để đúng với cái tên
là nghĩa thục) và tổ chức những cuộc diễn thuyết để trao đổi tư tưởng cùng cổ động trong
dân chúng.[2]

Bối cảnh
Đầu thế kỷ 20, Pháp hầu như đã hoàn thành quá trình bình định, dẹp yên các cuộc khởi
nghĩa yêu nước bên trong Việt Nam (chỉ còn phong trào Khởi nghĩa Yên Thế của Đề
Thám còn đang hoạt động, nhưng chỉ ở diện hẹp và bị dập tắt hoàn toàn vào năm 1913).
Cùng với việc mở rộng quá trình thực dân hoá, tư bản hóa nhằm khai thác thuộc địa một
cách hiệu quả nhất, những cơ sở đầu tiên của kinh tế tư sản bắt đầu phát triển trên toàn
lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Song song với sự phát triển kinh tế,
những tư tưởng tư bản cũng du nhập và phát triển bên trong Việt Nam. Các nhà nho có tư
tưởng tiến bộ nhận thức được sự yếu kém của Khổng giáo, chứng kiến nước Nhật Bản
duy tân mà thắng đế quốc Nga đã quyết định phải thay đổi tư tưởng, cách thức học tập
trong nước nhằm mục đích tự cường hy vọng một cuộc đổi mới. Đồng thời học tập từ thất
bại của cuộc cải cách của nhóm Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi khởi xướng ở Trung
Quốc. Tháng 3 năm 1907, Đông Kinh Nghĩa Thục bắt đầu được khai giảng ở phố Hàng
Đào, Hà Nội.
Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở nên nổi tiếng bên trong Hà Nội, nhiều tỉnh lân
cận cũng đã có các hội nhóm mở lớp, xin sách giáo khoa của trường về giảng dạy. Bắt
đầu là ở Hà Đông, quê hương của nhiều sáng lập viên nghĩa thục có tên tuổi như Vũ Trác,
Hoàng Tăng Bí; ở Hoài Đức còn có 3 phân hiệu nghĩa thục ở thôn Canh, Tây Mỗ, Tân
Hội; ở Hưng Yên cũng có 2 huyện có nghĩa thục, lại còn mở thêm một hiệu buôn nội hoá
là Hưng Lợi Tế. Hải Dương, Thái Bình, nghĩa thục cũng phát triển khá mạnh mẽ, lại còn
tổ chức ra nhiều hội ái hữu, tương tế. Thậm chí, nghĩa thục của Thái Bình còn cử người
đi liên hê với phong trào chống Pháp của Hoàng Hoa Thám, muốn ứng viện cho nghĩa
quân Yên Thế...


Ban đầu, chính quyền Pháp cho phép cho Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động hợp pháp, về
sau nhận thấy đây có thể là một mối nguy đối với chế độ thuộc địa, vào tháng 11 năm
1907 trường bị chính quyền thực dân buộc phải giải tán và đầu năm 1908, ra lệnh cấm
việc hội họp diễn thuyết ở miền Trung.
Sau vụ chống thuế Trung kỳ (tháng 3 năm 1908) và vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội
(tháng 6 năm 1908), chế độ thuộc địa của Pháp nhân đó quy trách nhiệm cho sĩ phu duy
tân và thẳng tay đàn áp, bắt hầu hết giáo viên, giải tán hội buôn, đóng cửa Đăng Cổ Tùng
Báo, cấm diễn thuyết, nói chuyện, cấm lưu hành và tàng trữ các tác phẩm của nhà trường.


Tên của phong trào sau này được đặt tên cho một quảng trường tại Hà Nội

Sáng lập viên chính













Lương Văn Can
Nguyễn Quyền
Đào Nguyên Phổ
Phan Tuấn Phong

Đặng Kinh Luân
Dương Bá Trạc
Lê Đại
Vũ Hoành (tạm xem bài Lê Đại Vũ Hoành)
Phan Đình Đối
Phan Huy Thịnh
Nguyễn Hữu Cầu
Hoàng Tăng Bí

Mục tiêu
Phong trào có hai mục tiêu:




Bỏ tư tưởng Khổng giáo, Tống nho, Hán nho. Du nhập những tư tưởng mới, phát
triển văn hoá, thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ thông qua các hoạt động giáo dục
(dịch, viết sách giáo khoa), báo chí, tuyên truyền, cổ động.
Chấn hưng thực nghiệp. Mở tiệm buôn, phát triển công thương.

Tổ chức
Theo tài liệu, cuối năm 1906, sau khi hội kiến với Phan Bội Châu ở Nhật về nước, Phan
Chu Trinh đã gặp gỡ Lương Văn Can và nêu ý định thành lập một trường học kiểu mới,
giống mô hình của trường Khánh Ứng Nghĩa thục ở Nhật.
Dưới thời Thiên hoàng Minh Trị, học giả Fukuzawa Yukichi (Phúc Trạch Dụ Cát, 1835 1901) đã thành lập Trường Khánh Ứng Nghĩa thục vào năm 1868 ở Nhật Bản theo mô
hình "public school" của nước Anh bao gồm việc truyền bá bốn tính cách quan trọng cho
học sinh đó là tính tự cường, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện đóng góp vào
các việc công ích, công thiện.
Một thời gian sau, Phan Bội Châu cũng về nước, cùng Phan Chu Trinh, Lương Văn Can
và Tăng Bạt Hổ họp tại phố Hàng Đào, quyết định mở trường, lấy tên là Đông Kinh

Nghĩa thục với mục đích: khai chí (trí) cho dân, mở những lớp dạy học không lấy tiền.
Đông Kinh là tên trường, Nghĩa Thục là trường làm việc nghĩa. Lương Văn Can được cử
làm Thục trưởng (Hiệu trưởng). Nguyễn Quyền làm học giám[3]


Về tài chánh, hội viên tự ý giúp bao nhiêu cũng được và quyên thêm trong những chỗ
quen thuộc hảo tâm. Tiền do cụ Lương xuất phát, nhưng sổ sách do cụ Nguyễn Quyền
giữ.
Trường được chia làm bốn ban hoạt động:

Ban giáo dục
Nhiệm vụ của Ban là mở lớp học, dạy học. Tuy nhiên, trường chưa có một chương trình
học rõ ràng và hệ thống, cũng như các tài liệu được biên soạn giành cho giảng dạy. Cơ
bản với 3 bậc học: Tiểu học dạy những người mới học Quốc ngữ; Trung học và Đại học
dạy cho những người lớn đã thông chữ Hán, hoặc muốn học chữ Pháp. Các bậc học thực
chất chỉ căn cứ vào trình độ hiểu biết của học sinh mà xếp thành lớp, do đó lớp tuổi học
sinh cũng không đều.
Các môn học được giảng dạy bao gồm Sử ký, Địa lý nước nhà, Toán, Hội họa, một số
kiến thức khoa học.



Dạy Hán văn có Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí...
Dạy Việt văn và Pháp văn có Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá
Học...

Về tài liệu giáo khoa, về Hán học, thì học tân thư Trung Quốc, nhất là sách của Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu. Sách học Quốc ngữ là các giao án tự soạn của các giao viên,
dạy những kiến thức cơ bản về đất nước, về lịch sử Việt Nam.


Ban tài chính
Trường không thu học phí và giáo viên ban đầu cũng không có lương. Ban đầu, nguồn
kinh phí của trường dựa vào các khoản "lạc trợ" (ủng hộ) của các hội viên và những
người hảo tâm yêu nước, cũng như các khoản đóng góp tự nguyện của học sinh. Theo cụ
Lê Đại, một hội viên sáng lập của trường, phụ trách Ban Tài chính, "Ấy vậy, có lúc nhà
trường đứng ra thu tiền ủng hộ không xuể".
Về sau, phong trào duy tân xung quanh hoạt động dạy học Đông Kinh Nghĩa Thục lan
rộng. Ban Tài chính còn chịu trách nhiệm mở các tiệm buôn bán và kinh doanh nhằm
khuếch trương thực nghiệp, cổ động cải cách kinh doanh, đồng thời tăng thêm nguồn thu
cho trường. Sau này kinh phí dồi dào, trường cấp miễn phí giấy bút cho học sinh và trả
giáo viên một số lương tượng trưng nhỏ.

Ban cổ động diễn thuyết và bình văn
Ban chịu trách nhiệm điều hành hai tờ báo Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo, là cơ
quan ngôn luận của trường, tuyên truyền cho cải cách, bài trừ hủ tục, vận động nhớ đến
ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3, sử dụng chữ quốc ngữ. Ban cũng thường xuyên tổ chức
diễn thuyết, bình văn tại trường vào các tối mồng một và rằm hàng tháng. Người ngoài


trường dự nghe rất đông, có cả quan lại, binh lính, viên chức. Trong các buổi diễn thuyết,
diễn giả thường bình luận các bài in trên Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo, hoặc nói
chuyện về đề tài lịch sử, về Cách mạng Pháp 1789, về sự nghiệp của George Washington,
v.v... Phan Chu Trinh cũng thỉnh thoảng đến diễn thuyết ở trường.

Ban trước tác
Biên soạn, dịch thuật các tài liệu học tập và tài liệu tuyên truyền là nhiệm vụ của Ban
Trước tác. Xuất bản và dịch thuật các tài liệu Tân thư được xem như cương lĩnh hành
động chung của sĩ phu Duy tân bấy giờ, chủ trương dùng văn tự nước nhà, hiệu định sách
vở cốt thiết thực, sửa đổi phép thi, cổ võ nhân tài, chấn hưng công nghệ, xuất bản báo
chí....

Các sách giáo khoa chữ Hán được in bản gỗ, trên giấy lĩnh làng Bưởi như Nam Quốc địa
dư, Nam Quốc vĩ nhân truyện, Quốc dân độc bản. Sách Quốc ngữ thì in bằng thạch, chủ
yếu là những bài ca dễ đọc, dễ nhớ, đại loại như Kêu hồn nước, Á Tế Á, Đề bỉnh quốc
dân, Thiết diễn ca... Các sách dịch đầu tiên là những bộ Tân thư như Trung Quốc tân
giáo khoa thư, Văn minh tân học sách...
Chỉ trong vòng mấy tháng, ban này đã soạn được nhiều sách giáo khoa cho mục đích dạy
học của nhà trường, ngoài ra còn biên dịch nhiều Tân thư chữ Hán. Nhờ Đông Kinh
Nghĩa Thục mà tiếng Việt hiện đại đã có thêm nhiều từ mới.

Lịch sử hoạt động
Khai trí dạy học
Tháng 3 năm 1907, mặc dù chưa được giấy phép của chính quyền thuộc địa, trường vẫn
tạm thời khai giảng tại gác tẩu mã trên nhà số 4, phố Hàng Đào, với 2 lớp chuyên dạy
Quốc ngữ; với khoảng 70 học sinh, phần đông là con cháu hội viên. Đây vốn là căn nhà
cụ Lương Văn Can cho mượn. Cụ Lương cũng đề nghị khi nào số học sinh đông, sẽ
mướn thêm ngôi nhà số 10 ở bên cạnh. Nhà này còn rộng hơn nhà cụ, vốn là của ông
Hương cống Sùng, một phú gia bậc nhất nhì Hà Thành hồi trước, lúc đó đã bán cho ông
Phạm Lẫm[4]. Hai lớp ban đầu được mở, một là để dành cho nam, lớp còn lại là của nữ.
Nhưng họ lại gặp phải khó khăn để quyết định ai là người dạy ban nữ. Khi đó cụ Lương
Trúc Đàm đã đề nghị:
"Nếu không tìm được ai dạy thì tôi xin cử em Năm tôi. Cô ấy biết Quốc ngữ, tôi
tưởng dạy tạm lúc đầu cũng được."[5]
Mọi người đồng ý và lớp được mở. Đến tháng 5, Thống sứ Bắc Kỳ mới chính thức cấp
giấy phép cho trường hoạt động. Trường phải mượn thêm căn nhà số 10 gần đó để mở
rộng, nhằm đáp ứng sự phát triển của trường. Sau này trường chia các lớp thành ba ban:
tiểu, trung và đại học. Tuy nhiên mặc dù được chia ra như vậy nhưng thực sự thì chương
trình học không được chia ra rõ ràng. Đại loại, tiểu học để dạy những người mới học
quốc ngữ, trung học và đại học dạy những người lớn đã thông chữ Hán hoặc muốn học



chữ Pháp. Các môn học thì có sử ký, địa lý của nước nhà, toán học, vẽ, một chút khoa
học. Không chia ra từng năm học như ngày nay, cứ tùy trình độ hiểu biết của học sinh mà
sắp thành từng lớp, trong một lớp tuổi học sinh cũng không đều. Lối dạy của trường là
cốt đào tạo những người có sáng kiến, có óc thực tế ngược hẳn với lối huấn hỗ, lối "Tử
viết, Thi vân", bảo thủ của nhà Nho. Lối văn khoa cử bỏ hẳn, Tứ thư, Ngũ kinh vẫn còn
giảng, nhưng giảng theo một tinh thần mới, những sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải
Siêu được đem ra bàn nhiều nhất. Phần Hán văn giao cho cụ Kép([51]) làng Hương
Canh, các cụ Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Quyền, Lương
Trúc Đàm; cụ Đào Nguyên Phổ tuy không dạy nhưng thường góp ý kiến.
Phần Việt văn và Pháp văn do sáu bảy nhà tân học đảm nhận: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Trần Đình Đức, Bùi Đình Tá, Phạm Đình Đối...
Sau đó, do đề nghị của cụ Nguyễn Văn Vĩnh, trường lập một sân thể dục tại hoa viên,
cũng sắm được vài quả tạ, dựng được vài cây cột leo. Các nhà tân học lãnh dạy môn đó,
nhưng giáo sư đã không thạo mà học sinh cũng không ham, rốt môn thể dục hữu danh mà
vô thực.

Soạn sách và bài ca
Sách
Nhằm mục đích truyền bá tư tưởng mới cho dân chúng, trường đã tự soạn lấy sách và lập
ra ban Tu thư chia làm hai ngành: ngành soạn giao cho các cụ Phạm Tư Trực (Thủ khoa,
người làng Hành Thiện), Dương Bá Trạc, Lương Trúc Đàm, Phương Sơn và ngành dịch
giao cho các cụ: Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, ông cử làng Đông Tác, Hoàng
Tích Phụng. Tuy nhiên, chương trình hoạt động và tổ chức phân công chưa được vạch rõ.
Đại loại giáo sư dạy môn nào thường phải soạn bài cho môn đó, mỗi bài dài độ vài trang
và xét về một vấn đề. Dù viết bằng Hán văn hay Việt văn, các cụ vẫn theo thể biền ngẫu,
trừ một số đọc nhiều tân thư thì dùng thể nửa biền nửa tản, thể sở trường của Lương Khải
Siêu. Nội dung bài nào cũng hô hào lòng ái quốc, chí tự cường và tinh thần duy tân.
Ngoài ra các cụ còn dịch sách của ngoại quốc. Những sách được dịch đầu tiên là những
tân thư của Trung Hoa, như bộ Trung quốc tân giáo khoa thư. Hai cụ Nguyễn Hữu Tiến
và Nguyễn Đôn Phục, nhờ rảnh việc dịch mà luyện được cây bút, sau thành những nhà

văn sắc sảo trong nhóm Nam Phong. Sách soạn xong, giao cho một ban khác và in ra
hằng trăm bản để phát không cho học sinh và các đồng chí ở khắp nơi. Nhưng số sách
của trường hiện tại bị thất lạc và không còn di tích.
Bài ca
Tuy số sách của phong trào đã bị thất lạc. Nhưng những bài ca xuất phát từ phong trao đã
được nhiều người cùng thời học thuộc lòng và được truyền lại tới ngày nay. Nổi bật là là
Hải ngoại huyết thư được cụ Lê Đại dịch của Phan Bội Châu. Nhờ vậy bài thơ được lưu
hành khắp nước Việt Nam và là nguồn cổ vũ cho phong trào yêu nước đầu thế kỷ 20.


Không chỉ dịch thơ, các nhà nho trong phong trào còn sáng tác những bài thơ yêu nước
như cụ Nguyễn Quyền có bà Cắt tóc, Chiêu hồn nước, ... Ngoài những bài thơ do các nhà
nho sáng tác, những bài thơ khuyết danh cũng là nguồn cảm hứng yêu nước cho nhân dân
và cổ vũ duy tân. Ví dụ như Á Tế Á, Vợ khuyên chồng, Khuyên con, ...
Tuy nhiên bài thơ nổi bật nhất và có sức ảnh hưởng lớn đương thời là bài Thiết tiền ca
của Nguyễn Phan Lăng, biệt hiệu là Đoàn Xuyên. Bài dùng thể song thất lục bát, nội
dung chua xót và đầy phẫn uất[6]
Trời đất hỡi! dân ta khốn khổ,
Đủ trăm đường thuế nọ thuế kia,
Lưới vây chài quét trăm bề
Róc xương, róc thịt còn gì nữa đâu
Chợt lại thấy bắt tiêu tiền sắt
Thoạt tai nghe bần bật khúc lòng!
Trời ơi có khổ hay không?
Khổ gì bằng khổ mắc trong cường quyền
Lấy mẹo lừa giết hết chúng ta
Bạc vào đem sắt đổ ra,
Bạc kia thu hết sắt mà làm chi?:...[7]
Bài thơ được truyền tụng rộng rãi, từ kẻ chợ đến thôn quê, không ai chịu dùng tiền sắt
nữa. Chính phủ Pháp ra lệnh bắt giam một số, nhưng càng đàn áp, dân chúng càng nghi

kị, có nơi gần như bãi thị. Tiền phát cho quan lại, họ miễn cưỡng nhận, mang về giao cho
vợ con, vợ con đem ra chợ tiêu không được, tình hình muốn nghiêm trọng, chính phủ
phải chịu thua, thu tiền sắt về.

Diễn thuyết

Chú thích
1. ↑ Đông Kinh là tên cũ của Hà Nội thời Hậu Lê và Nghĩa Thục là trường học dạy không
2.
3.
4.
5.
6.
7.

lấy tiền
↑ Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê
↑ Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê
↑ thường gọi là ông Bố Vĩnh Lại vì ông làm Bố chánh và quê làng Vĩnh Lại - Hưng Hóa
↑ Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê
↑ Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê
↑ Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê

------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Trường Dục Thanh

Trường Dục Thanh Phan Thiết
Dục Thanh Học hiệu (viết tắt của: Giáo Dục Thanh Thiếu Niên) là một ngôi trường do

các sĩ phu yêu nước ở Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận sáng lập vào năm 1907 để hưởng ứng
phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi
xướng tại Trung Kỳ.
Đây cũng là ngôi trường mà Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) đã dừng chân
dạy học một thời gian trước khi vào Sài Gòn.

Thành lập và hoạt động

Sáu sáng lập viên của trường Dục Thanh: Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý
Anh (hàng trên), Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng (hàng dưới).


Đầu thế kỷ XX, Bình Thuận là nơi hội tụ nhiều sĩ phu yêu nước, ban đầu do phong trào tị
địa ở miền Nam[1], sau đó do sự sách nhiễu của các quan lại phong kiến ở các tỉnh miền
Trung, nên vào năm 1905, khi Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp ghé
qua Bình Thuận trong một chuyến Nam du, thì hạt giống Duy Tân mọc rễ ở đây[2].
Với sự giới thiệu của Trương Gia Mô[3], ba cụ đã gặp các ông Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn
Quý Anh (là hai con trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông), Hồ Tá Bang và truyền bá tư
tưởng Duy Tân của mình. Với sự góp mặt thêm của các ông Ngô Văn Nhượng, Nguyễn
Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, sáu ông đứng ra sáng lập ra 3 tổ chức với các nhiệm vụ chính trị
- văn hoá - kinh tế gắn liền nhau, tương ứng với cương lĩnh hành động 3 điểm "Khai dân
trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh" của phong trào Duy Tân hồi bấy giờ:




Dục Thanh Học Hiệu: mở trường dạy cho con em người yêu nước và lao động
nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, được thành lập năm 1907.
Liên Thành Thư Xã: truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước, được thành lập
năm 1905.

Liên Thành Thương Quán: làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn
việc làm cho nhân dân, được thành lập năm 1906.

Liên Thành Thương Quán hoạt động có hiệu quả, bí mật đóng góp một phần tài chính
cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu[4] và các phong trào giải phóng dân tộc về
sau. Liên Thành thư xã do Nguyễn Hiệt Chi phụ trách mời nhiều diễn giả đến diễn thuyết,
trong đó có Phan Châu Trinh, gây được tiếng vang sôi nổi. Đặc biệt Dục Thanh học hiệu
đã đào tạo được một lớp trẻ học tập theo sách vở và tinh thần mới.
Trường Dục Thanh được xây dựng năm 1907 (cùng năm xây dựng với trường Đông Kinh
Nghĩa Thục) ngay trên đất nhà thờ họ Nguyễn ở làng Thành Đức (ngày nay là nhà số 39
phố Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa, Phan Thiết). Cấu trúc chính của trường gồm 2 nhà
lớn bằng gỗ dùng làm phòng học, một ngôi nhà lầu nhỏ - Ngoạ Du Sào - là nơi bàn việc,
tiếp khách quý, luận đàm văn thơ và nhà Ngự làm nơi ở chung của các thầy và trò xa nhà.
Kinh phí hoạt động của trường nhờ vào 2 nguồn: huê lợi từ 10 mẫu nhất đẳng điền do
ông Huỳnh Văn Ðẩu - một phú gia có lòng ái quốc ở địa phương - hiến cho [5] và tài trợ
của Liên Thành Thương Quán. Nhờ đó học sinh ăn học không phải trả tiền, thầy giáo chỉ
nhận trợ cấp mà không hưởng lương[6].
Trường do ông Nguyễn Quý Anh làm Giám Hiệu, với hai giảng viên chính là Nguyễn
Hiệt Chi và Trần Đình Phiên [7]. Trường có 4 lớp học, số học sinh lúc cao nhất vào khoảng
100 học sinh, từ Sài Gòn ra, từ Đà Nẵng, Hội An vào, và nhiều nơi khác ở Nam Trung Bộ
và miền Đông Nam Bộ, do nhiều bà con của các thân sỹ gửi gắm trọ học [6]. Chương trình
dạy của trường do Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội biên khảo, chú giải, được gửi vào
Phan Thiết qua ông Đình nguyên hoàng giáp Đào Nguyên Phổ, bạn thân giao của Trần
Lệ Chất[6].
Trường có nội quy rất nghiêm cho tất cả học sinh. Buổi sáng hàng ngày từ lúc 6 giờ sáng,
chiều lúc 17 giờ, sau khi tập thể dục xong, học sinh xếp hàng thật ngay ngắn đi vào lớp.


Vào lớp rồi, tất cả học sinh xếp tay vòng trước ngực hát bài ca ái quốc, dựa theo Bài thơ
Quốc Hồn Ca do Phan Chu Trinh viết vào năm 1907, được chọn làm bài học thuộc lòng

cho mỗi môn sinh[6].

Trường Dục Thanh và Nguyễn Tất Thành
Tháng 10 năm 1910, Nguyễn Tất Thành được ông nghè Trương Gia Mô - vốn là bạn
đồng liêu cũ của cụ Nguyễn Sinh Sắc - giới thiệu với Hồ Tá Bang đến Phan Thiết dạy
học tại ngôi trường này. Một trong những học sinh của trường là Nguyễn Kinh Chi con
cụ Nguyễn Hiệt Chi, về sau là Bác sĩ, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
đại biểu Quốc hội khóa I - IV, là học trò trực tiếp của thầy Nguyễn Tất Thành. Nguyễn
Tất Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy Chữ Quốc ngữ và Hán văn, ngoài ra, còn kiêm
nhiệm dạy môn thể dục[8]. Trong thời gian này, ngoài những nội dung được phân công
giảng dạy, Nguyễn Tất Thành còn truyền bá lòng yêu quê hương đất nước, nòi giống tổ
tiên cho học sinh. Trong những giờ học ngoại khóa hay những lúc rảnh, Nguyễn Tất
Thành còn dẫn học sinh của mình du ngoạn cảnh đẹp ở Phan Thiết như bãi biển Thương
Chánh, động làng Thiềng, Đình làng Đức Nghĩa.
Tháng 3 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh vào Sài Gòn[9] với giấy
thông hành tên Văn Ba do Trần Lệ Chất và Hồ Tá Bang lo giúp[6][10].
Cuối năm 1911, ông Nguyễn Quý Anh chuyển vào Sài Gòn đảm trách Đổng lý phân cuộc
Liên Thành ở Chợ Lớn, không còn ai giám hiệu và vì nhiều lý do khách quan khác nên
trường đóng cửa vào năm 1912. Liên Thành Thư xã cũng đóng cửa ít lâu trước đó, chỉ
còn công ty Liên Thành thì vẫn hoạt động mãi đến hiện tại. Hiện di tích Trường Dục
Thanh thành phố Phan Thiết đã được tỉnh Bình Thuận phục dựng theo mô tả của các học
trò cũ của trường vào thời điểm thầy giáo Nguyễn Tất Thành tham gia giảng dạy, là một
địa điểm văn hóa du lịch của cả nước [11]. Phần di tích cũ còn lại nguyên vẹn gồm có cây
khế mà Nguyễn Tất Thành đã chăm sóc và giếng nước mà Nguyễn Tất Thành mỗi ngày
lấy nước tưới cây.

Chú thích
1. ^ Sau khi thực dân Pháp chiếm miền Nam, các sĩ phu ở đây chạy ra Bình Thuận,
vẫn còn thuộc đất của Triều đình Huế.
2. ^ Liên Thành Thông Sử - Chương 1: Nguyên do sự tạo lập công ty Liên Thành và

trường Dục Thanh.
3. ^ Có ý kiến cho rằng Trương Gia Mô cũng là người sáng lập, nhưng sau khi bị
bắt ở Khánh Hoà chính ông tự xoá tên để tránh liên luỵ cho các tổ chức này. Tuy
nhiên, theo LTTS của Hồ Tá Khanh thì Trương Gia Mô không có tên trong danh
sách sáng lập viên.
4. ^ TS Thông Thanh Khánh (ngày 2 tháng 6 năm 2006). “Hành trình 100 năm nước
mắm Liên Thành”. báo Sài Gòn Tiếp thị. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
5. ^ Về sau khi trường đóng cửa, các vị sáng lập xin trả lại 10 mẫu ruộng thì ông
Đẩu không chịu nhận lại, viện cớ chờ khi trường mở cửa lại có để dùng. Các vị


sáng lập không dám nhận lời vì không biết ngày mai cơ sự làm sao, khi đó ông
Đẩu mới chịu nhận lại - Hồ Tá Khanh, trg. 34
6. ^ a b c d e Phạm Bá Nhiễu, 23/03/2009.
7. ^ Trần Đình Phiên là con của cụ Đốc học Trần Đình Phong, là bậc "nhân sư" nổi
tiếng có đến 4 trò đỗ đại khoa là Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc
Kháng và Nguyễn Sinh Sắc - LTTS trg 17, Trang Web ĐCS VN.
8. ^ Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp giáo dục, Viện nghiên cứu giáo dục phía
Nam - Bộ Giáo dục, Xí nghiệp in số 7, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1990, trang
57
9. ^ Thời điểm Nguyễn Tất Thành đến và rời trường vẫn đang còn tranh luận, tuy
nhiên theo bài thuyết minh của Bảo tàng HCM Chi nhánh Bình thuận là "Nguyễn
Tất Thành đến Dục Thanh vào khoảng trước Tết Trung thu 1910 và rời trường
sau Tết Nguyên đán 1911".
10. ^ Lúc này Trần Lệ Chất đang là Bí thư của Công sứ Pháp tại Bình Thuận Claude
Leon Lucien Garnier - Trịnh Văn Thảo (5/8/2007). “Công ty Liên Thành (19061975): Từ hội Duy Tân đến doanh nghiệp hiện đại”. Tạp Chí Tia Sáng. Truy cập 2
tháng 4 năm 2010.
11. ^ Trường Dục Thanh hiện tại được phục dựng vào năm 1978, nay là Bảo tàng Hồ
Chí Minh Chi nhánh tỉnh Bình Thuận
------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Công ty Liên Thành

Sáu sáng lập viên của LTTQ: Hồ Tá Bang, Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh (hàng trên), Nguyễn Hiệt
Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng (hàng dưới).

Công ty Liên Thành (Société de Lien Thanh) là tên gọi pháp lý của Liên Thành
Thương Quán, một tổ chức kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập
vào năm 1906 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và
Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ[1]. Tên Liên Thành được lựa chọn với ngụ ý


bảo tồn truyền thống, có ý nghĩa là thành hoa sen, nguyên là tên cũ của tỉnh Bình Thuận,
xuất phát từ một hồ sen nằm ở quận Hoà Ða[2].
Trên phương diện lịch sử, Công ty Liên Thành đánh dấu sự hình thành của chủ nghĩa tư
sản dân tộc ở Việt Nam, khởi nguồn từ tinh thần dân tộc rồi sau đó chuyển đổi sang tinh
thần thực nghiệp Tây phương[3].

Lịch sử ra đời và phát triển
Liên Thành Thương Quán ban đầu được Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh (là hai con
trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông), Ngô Văn Nhượng, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi,
Trần Lệ Chất lập nên[4], nguyên đặt trụ sở Tổng cuộc ở làng Thành Ðức, nay là di tích số
306 Trần Hưng Ðạo, thành phố Phan Thiết, Bình Thuận.
Tương ứng với cương lĩnh hành động 3 điểm "Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân
sinh" của phong trào Duy Tân hồi bấy giờ, Liên Thành Thương Quán là một trong 3 tổ
chức có các chức năng văn hoá - chính trị - kinh tế gắn liền nhau[3]:





Dục Thanh Học hiệu: được thành lập năm 1907, dạy cho con em người yêu nước
và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ.
Liên Thành Thư xã: được thành lập năm 1905 để truyền bá các sách báo có nội
dung yêu nước.
Liên Thành Thương quán: được thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1906 để làm kinh
tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân.

Vào lúc đó, do các ngành nghề chính trong nền công nghiệp và nền thương mãi của Đông
Dương đều do tư bản Pháp và Hoa kiều lũng đoạn, nên Liên Thành Thương Quán lựa
chọn sản xuất và kinh doanh nước mắm - là ngành nghề kinh doanh nhỏ, chưa nằm trong
tay tư bản nước ngoài. Ngoài nước mắm, Liên Thành Thương Quán còn kinh doanh trong
lĩnh vực dịch vụ khách sạn, buôn bán thuốc bắc, vải vóc ở thời gian trước năm 1922.
Trong thời gian ban đầu mới thành lập, nhờ có sự ủng hộ của những người có cảm tình
với phong trào Duy Tân, cũng như viên công sứ Pháp tại Bình Thuận là Claude Leon
Lucien Garnier có tư tưởng Dân quyền, nên Liên Thành có điều kiện phát triển trong vài
năm đầu tiên[3]. Năm 1909, Liên Thành Thương Quán thuê ngôi nhà số 1/2/3 Quai Testard
và mở phân cuộc kinh doanh ở Sài Gòn. Năm 1911, Nguyễn Trọng Lợi qua đời, Hồ Tá
Bang thay thế ở chức vụ Tổng lý - tức Giám đốc. Ông đã khéo léo xoay xở để đưa công
ty vượt qua quãng thời gian khó khăn, lúc phong trào Duy Tân bị đàn áp và Liên Thành
bị liên tục gây khó dễ.
Năm 1917, Nguyễn Quý Anh được bầu làm Tổng lý, còn Hồ Tá Bang đảm nhiệm Nghị
trưởng (Chủ tịch Hội đồng Quản trị) và chính thức dời Tổng cuộc vào Chợ Lớn, lại mua
thêm một lô đất ở Khánh Hội xây vựa chứa nước mắm. Lúc này, vốn của Công ty đã lên
đến 93'200 đồng bạc Ðông Dương. Ðến năm 1919, Nguyễn Quý Anh giao lại trách nhiệm
Tổng lý cho Trần Lệ Chất, và Trần Lệ Chất đã tiếp tục đưa Liên Thành sang một thời kỳ
phát triển rực rỡ.


Năm 1922, công ty xây dựng trụ sở ở Khánh Hội và dời Tổng cuộc từ Chợ Lớn về đây[5][6].
Trong cùng năm, nước mắm Liên Thành tham gia đấu xảo ở Marseille, Pháp và tạo ra

tiếng vang lớn. Từ sau đó, công ty Liên Thành dần mở rộng mạng lưới gồm các phân
cuộc ở tỉnh lỵ Phan Thiết, Phú Hài (Phan Thiết), Mũi Né, Hưng Long (Phan Thiết), Phan
Rí, Hội An, với địa bàn phân phối nước mắm ở nhiều tỉnh miền Trung và miền Nam, phủ
qua cả Căm pu chia và cả ở châu Âu.
Năm 1960, Liên Thành xây dựng một nhà máy sản xuất phân bón không mùi từ xác cá tại
Phú Hài, Phan Thiết. Trong ngành sản xuất nước mắm, đây là một phát kiến quan trọng
để tận thu phế phẩm. Sản phẩm phân bón Phú Hài nhanh chóng được các nhà vườn Đà
Lạt chấp nhận tiêu thụ.
Sau khi Trần Lệ Chất mất năm 1969, ông Huỳnh Văn Dậu [7] giữ trách nhiệm Chủ tịch Hội
đồng Quản trị cho đến khi ông đồng ý hiến công ty cho Nhà nước vào năm 1979 với điều
kiện là giữ lại tên Liên Thành cùng với bàn thờ 6 cụ tổ sáng lập[8].
Sau khi được quốc hữu hoá, các phân cuộc của Liên Thành ở các tỉnh được chuyển đổi
thành các cơ sở nước mắm quốc doanh ở địa phương, nhà máy phân bón Phú Hài chuyển
thành Xí Nghiệp Quốc doanh Phân bón Phú Hài, còn cơ sở chính của Liên Thành ở Sài
Gòn được gộp chung với 9 doanh nghiệp sản xuất nước mắm tư nhân trên địa bàn thành
Xí nghiệp Quốc doanh nước mắm Liên Thành, đến năm 1990 thì đổi thành Xí nghiệp
Chế biến Thuỷ hải sản Liên Thành. Năm 2001, theo chủ trương của Nhà nước, Xí nghiệp
Chế biến Thuỷ hải sản Liên Thành được cổ phần hoá và sau đó đổi tên thành Công ty Cổ
phần Chế biến Thuỷ hải sản Liên Thành cho đến ngày nay.
Trong thời gian từ khi sáng lập đến năm 1975, Công ty Liên Thành được ghi nhận đã có
nhiều đóng góp tài chính cho phong trào Duy Tân, phong trào Ðông Du [9][10], Mặt trận Việt
Nam Ðộc lập Ðồng minh (Việt Minh) [11] và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam[12].

Liên Thành Thương Quán và Nguyễn Tất Thành
Liên Thành Thương Quán đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình từ Phan Thiết vào Sài Gòn và lên tàu ra nước ngoài. Năm 1911, Nguyễn
Tất Thành được ông Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất giúp đỡ từ Phan Thiết vào Sài Gòn với
giấy thông hành tên Văn Ba[13], đồng thời bố trí cho Nguyễn Tất Thành ở lại ở trụ sở phân
cuộc Chợ Lớn ở 1/2/3 Quai Testard. Ngôi nhà này nay là Di tích Lịch sử Nguyễn Tất
Thành ở số 5 Châu Văn Liêm, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh [14]. Ngoài ra, Liên Thành

Thương Quán còn hỗ trợ tài chính cho Nguyễn Tất Thành trước khi lên tàu sang Pháp [15]
[16]
.

Chú thích
1. ^ Việt Tuấn (22/5/2009). “Bài 1: Phong trào Duy Tân ở Bình Ðịnh đã khai sinh
Liên Thành”. Người Lao Ðộng. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.


2.
3.
4.
5.

^ Hồ Tá Khanh, 1984 - trg 35.
^ a b c Trịnh Văn Thảo, Tạp chí Tia Sáng 5/8/2007.
^ Hồ Tá Khanh, 1984 - trg 36.
^ Ngôi nhà này hiện vẫn còn nguyên vẹn, là trụ sở văn phòng của Công ty cổ
phần Chế biến Thuỷ hải sản Liên Thành, số 243 Bến Vân Ðồn, Quận 4, thành phố
Hồ Chí Minh, hiện đang được kiến nghị công nhận di tích lịch sử văn hoá - Trang
Web HDND Q. 4 TP HCM.
6. ^ “Toạ đàm “Hồ Chí Minh - Hành trình cứu nước và vai trò của Dục Thanh Học
hiệu và Liên Thành Thương quán””. Trang Web của HDND Quận 4 TP HCM.
Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
7. ^ Ông Huỳnh Văn Dậu là cháu của ông Huỳnh Văn Đẩu, một phú gia yêu nước
đã hiến 10 mẫu ruộng nhất đẳng cho trường Dục Thanh - Hồ Tá Khanh, 1984, trg.
90.
8. ^ Hồ Tá Khanh, 1984, trg 100.
9. ^ TS Thông Thanh Khánh (2/6/2006). “Hành trình 100 năm nước mắm Liên
Thành”. Sài Gòn Tiếp thị. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.

10. ^ Quế Hà (17/5/2006). “Thầy Thành ở trường Dục Thanh”. Thanh Niên Online.
Truy cập 2010-05-018.
11. ^ Ông Nguyễn Minh Duệ - Hiệp lý (Phó Giám đốc) công ty Liên Thành bị phục
kích bắn chết trên đường mua vũ khí từ Cam-pu-chia về cho bộ đội - Hồ Tá
Khanh, 1984, trg 101.
12. ^ Theo quyết định của UBND TPHCM, tháng 3 năm 1978, Liên Thành được
công nhận là cơ sở cách mạng - Hồ Tá Khanh, 1984, trg 101.
13. ^ Phạm Bá Nhiễu (23/03/2009). “Trường Dục Thanh xưa - Nơi đây in dấu chân
người...”. Thể Thao Văn Hoá. Truy cập 30 tháng 4 năm 2010.
14. ^ “Nơi đồng chí Nguyễn Tất Thành ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước”. Lịch
sử Việt Nam. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
15. ^ Việt Tuấn (29/05/2009). “Bài 2: Dục Thanh Học hiệu còn in dấu chân Người”.
Người Lao Ðộng. Truy cập 5 tháng 4 năm 2010.
16. ^ Dương Trung Quốc (19/03/2006). “Trăm năm nhìn lại cuộc Đông Du”. Tuổi
Trẻ. Truy cập 5 tháng 4 năm 2010.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×