Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới năm tuổi vùng dân tộc thiểu số, huyện trạm tấu tỉnh yên bái năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.33 KB, 121 trang )

1

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân trọng cảm ơn Ban giám hiệu; Phòng Đào tạo sau đại học;
Phòng Công tác học sinh và sinh viên; Các thầy cô trong các Bộ môn toàn trường
đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện, tu dưỡng tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Viện Đào tạo Y học Dự
phòng và Y tế Công cộng, Bộ môn dinh dưỡng và An toàn thực phẩm đã giúp
đỡ để em hoàn tất luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất đến PGS.TS. Lê Thị Hương,
người đã hướng dẫn em kể từ lúc bắt đầu cho tới khi hoàn thành luận văn. Em
vô cùng cảm ơn cô trong suốt quá trình nghiên cứu đã hướng dẫn tận tình và
chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của cô mà nhờ đó em rút ra những bài
học nghiên cứu cho mình.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bố, mẹ, chị gái, những
người thân yêu của em đã luôn ở bên hỗ trợ, động viên và tạo mọi điều kiện
cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn tất luận văn này.
Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 2014
Người thực hiện
Học viên

Nguyễn Thị Hoài Thương
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


2

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

----***---LỜI CAM ĐOAN


Kính gửi:
-

Phòng đào tạo sau đại học Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế
Công cộng, Trường Đại Học Y Hà Nội

-

Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực phẩm Viện Y học Dự phòng
và Y tế Công cộng, Trường Đại Học Y Hà Nội

-

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Tên em là: Nguyễn Thị Hoài Thương – học viên cao học khóa XXI

chuyên ngành Y tế Công cộng,Viện Y học Dự phòng và Y tế Công cộng,
Trường Đại Học Y Hà Nội.
Em xin cam đoan các số liệu trong luận văn này là có thật và kết quả hoàn
toàn trung thực, chính xác, chưa có ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này
Hà Nội, ngày 2 tháng 9 năm 2014.
Học viên

Nguyễn Thị Hoài Thương


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BSMHT

Bú sữa mẹ hoàn toàn

CC/T

Chiều cao theo tuổi

CNSS

Cân nặng sơ sinh

CN/CC

Cân nặng theo chiều cao

CN/T

Cân nặng theo tuổi

HAZ

Chiều cao/Tuổi (Height Age Z-Score)

KT

Kiến thức

SD


Độ lệch chuẩn

SDD

Suy dinh dưỡng

TH

Thực hành

TLN

Thảo luận nhóm

TTDD

Tình trạng dinh dưỡng

UNICEF

Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

WAZ

Cân nặng/Tuổi (Weight Age Z-Score)

WHZ

Cân nặng/Chiều cao (Weight Height Z-Score)


WHO

Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)

MỤC LỤC


4

Tên bảng

Trang


5

Tên biểu đồ

Trang


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển thì việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngày càng nhận được
sự quan tâm nhiều hơn của gia đình và toàn xã hội. Trẻ em được chăm sóc,
nuôi dưỡng và được học tập một cách bình đẳng, không phụ thuộc vào hoàn
cảnh riêng về gia đình, dân tộc, địa phương không những là mục tiêu của
Đảng và Nhà nước mà còn là mong ước thiết tha của những người làm cha,

làm mẹ. Song, để có một thời thơ ấu an toàn, khỏe mạnh và hạnh phúc thì mỗi
gia đình và toàn cộng đồng, xã hội phải tạo điều kiện, tạo cơ hội để trẻ phát
triển hết các khả năng từ lứa tuổi còn thơ ấu, đặc biệt ở giai đoạn từ 0 đến 5
tuổi. Đó là “Giai đoạn vàng”, “Cửa sổ của cơ hội”. Sự phát triển những năm
đầu đời là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của một con người, là nền tảng
cho sự phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần, cũng như văn hóa và nhận thức
trong tương lai của cả cuộc đời. Do vậy, việc cung cấp đầy đủ các chất dinh
dưỡng cho trẻ em đặc biệt với trẻ dưới 5 tuổi là hết sức cần thiết cho sự tăng
trưởng và phát triển của trẻ [1].
Trẻ em là đối tượng đầu tiên chịu tác động của tình trạng đói nghèo và
môi trường sống kém chất lượng mà hậu quả của nó là suy dinh duỡng (SDD)
và bệnh tật [1]. Hiện nay, SDD Protein-năng lượng vẫn là vấn đề có ý nghĩa
sức khoẻ cộng đồng ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu và giám sát dinh dưỡng trong những thập kỷ qua cho thấy tình
trạng dinh dưỡng (TTDD) của người dân nói chung đã được cải thiện đáng kể
[2]. SDD trẻ em đặc biệt là SDD nặng và thể thiếu cân đã giảm nhanh và
giảm một cách bền vững. Đến cuối năm 2008, tỷ lệ SDD thể thiếu cân đã
giảm xuống dưới 20%, vượt kế hoạch trước 2 năm so với mục tiêu của Chiến
lược quốc gia dinh dưỡng 2001-2010. Tuy nhiên, SDD ở trẻ em vẫn còn ở
mức cao so với phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và còn có sự


7

khác biệt khá lớn giữa các vùng/miền, đặc biệt là SDD thấp còi - ảnh hưởng đến
chiều cao, tầm vóc của Người Việt Nam [3]. Theo kết quả giám sát thường niên
của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ SDD còn rất cao ở các tỉnh miền núi, đây là nơi tập
trung đông đồng bào dân tộc thiểu số với tỷ lệ nhẹ cân trong khoảng từ 25-32%
và thấp còi từ 37-47% [4].
Trạm Tấu là một huyện miền núi vùng cao, cách thị xã Nghĩa Lộ 31km

và cách thành phố Yên Bái 110 km về hướng Tây Tây Nam. Huyện Trạm Tấu
có diện tích 742km² và 26,704 người (tổng điều tra dân số 2009) là vùng chủ
yếu có người các dân tộc thiểu số sinh sống. Đây là khu vực có tỷ lệ SDD cao
của tỉnh Yên Bái. Theo số liệu báo cáo của Sở Y tế Yên Bái thì tỷ lệ SDD trẻ
em là 30,1%. Các nghiên cứu về TTDD của trẻ em và kiến thức (KT), thực
hành (TH) dinh dưỡng của các bà mẹ dân tộc thiểu số còn ít, vì vậy, chúng tôi
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu như sau:
Mục tiêu chung: Mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên
quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới năm tuổi tuổi vùng dân tộc
thiểu số, huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái năm 2014.
Mục tiêu cụ thể:
1.

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới năm tuổi vùng dân tộc
thiểu số, huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái năm 2014.

2.

Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới
năm tuổi vùng dân tộc thiểu số, huyện Trạm Tấu tỉnh Yên Bái năm 2014.


8

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.
1.1. Một số khái niệm.
-

Dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể được cung cấp đầy đủ, cân đối các
thành phần dinh dưỡng, đảm bảo cho sự phát triển toàn vẹn, tăng

trưởng của cơ thể để đảm bảo chức năng sinh lý và tham gia tích cực
vào các hoạt động xã hội [5].

-

Suy dinh dưỡng: Là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các
vi chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở
nhiều mức độ khác nhau, nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển
thể chất, tinh thần và vận động của trẻ [2].

-

Bú sữa mẹ hoàn toàn (BSMHT): Là trẻ chỉ được ăn sữa mẹ qua bú
trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vắt sữa mẹ hoặc bú trực tiếp người
khác, ngoài ra không ăn bất cứ loại thức ăn, đồ uống nào khác. Các thứ
khác ngoại lệ được chấp nhận là các dạng giọt dung dịch có chứa
vitamin, khoáng chất hoặc thuốc [2].

-

Cho trẻ ăn bổ sung (ABS): Để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ từ
sáu tháng tuổi trở lên, cần cho trẻ ăn bổ sung trong khi trẻ tiếp tục được
bú mẹ. Các thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung có thể được chuẩn bị riêng
hoặc từ chính bữa ăn gia đình. Theo WHO, không nên cho trẻ giảm bú
khi bắt đầu cho ăn bổ sung; Thức ăn bổ sung nên được cho ăn bằng thìa
hay cốc, không nên cho vào bình sữa; Thực phẩm phải sạch, an toàn và
sẵn có ở địa phương; cần nhiều thời gian để trẻ nhỏ học cách ăn thức ăn
đặc; Thức ăn bổ sung phải đa dạng, theo ô vuông thức ăn bổ sung với 4
nhóm thực phẩm với trung tâm là sữa mẹ [2].


-

Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị: Mức tiêu thụ năng lượng và các
thành phần dinh dưỡng mà trên cơ sở kiến thức khoa học hiện nay,
được coi là đầy đủ để duy trì sức khỏe và sự sống của mọi cá thể bình
thường trong một quần thể dân cư [6].


9

Thức ăn cơ bản

Thức ăn giàu protid

Ngũ cốc

Thịt, cá, thuỷ sản

Khoai củ

Trứng, sữa
Đậu đỗ...
Sữa mẹ

Thức ăn giàu vitamin Thức ăn giàu năng
và khoáng chất

lượng

Rau xanh


Dầu mỡ, bơ

Hoa quả

Đường, mật…

1.2. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi.
1.2.1. Nhu cầu về năng lượng.
Nhu cầu năng lượng của trẻ ở thời kỳ này là rất cao. Theo bảng khuyến
nghị của Việt Nam, nhu cầu năng lượng trẻ từ 1-3 tuổi là 1180kcal/ngày, trẻ từ
4-6 tuổi là 1470kcal/ngày [7].
1.2.2. Nhu cầu về glucid.
Nhu cầu glucid của trẻ bú mẹ hoàn toàn được cung cấp từ nguồn sữa mẹ,
trong đó 8% trong sữa mẹ là lactose, cứ 100ml sữa mẹ cung cấp 7g glucid.
Trong 6 tháng đầu đời, trẻ sơ sinh tiêu thụ sữa khoảng 780ml/ngày hoặc 60g
glucid, chiếm 37% tổng năng lượng trong lượng sữa đưa vào của trẻ. Trẻ từ 7
đến 12 tháng, nhu cầu glucid là 91g/ngày, trong đó từ sữa mẹ khoảng
600ml/ngày, tương đương với glucid là 44g/ngày, cộng thêm từ nguồn thức ăn
bổ sung là 51g/ngày. Đối với trẻ từ 1 đến 3 tuổi thì nhu cầu glucid là khoảng
100g/ngày, trẻ từ 4-6 tuổi là khoảng hơn 200g/ngày [7], [8], [9].


10

1.2.3. Nhu cầu về protid.
Trẻ từ 1-3 tuổi, nhu cầu protid khuyến nghị là 35-44g/ngày và trẻ từ 4-6
tuổi là 44-55g/ngày [7].
1.2.4. Nhu cầu về lipid.
Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng và các acid béo

cần thiết và hỗ trợ cho việc hấp thu các vitamin tan trong dầu (A,D,E,K).
Ở trẻ đang bú mẹ, vì 50-60% năng lượng ăn vào là do chất béo của sữa
mẹ cung cấp, nên khi trẻ bắt đầu ăn bổ sung, nhất là khi trẻ cai sữa mẹ cần hết
sức chú ý ngăn ngừa tình trạng giảm chất béo đột ngột do được bú mẹ ít đi
hoặc không còn được bú sữa mẹ nữa. Do đó, nhu cầu khuyến nghị về lipid
cho trẻ em rất cao.
Bảng 1.1. Nhu cầu lipid khuyến nghị cho trẻ dưới 5 tuổi [7].
LỨA TUỔI

NHU CẦU KHUYẾN NGHỊ
(% tổng năng lượng/ngày )

Từ 1-3 tuổi

35-40

Từ 4-6 tuổi

20-25

1.2.5. Nhu cầu về vitamin và chất khoáng.
Vitamin là thành phần không thể thiếu đối với trẻ nhỏ mặc dù trong cơ
thể sự hiện diện của vitamin rất nhỏ nhưng lại rất cần thiết. Phần lớn vitamin
không được tổng hợp bởi cơ thể mà được cung cấp từ thức ăn. Do đòi hỏi về
cường độ phát triển và sự chuyển hoá cao nên nhu cầu vitamin ở trẻ em cao
hơn người lớn. Vì thế, trong sữa mẹ cũng như khẩu phần ăn của trẻ cần cung
cấp nhiều loại vitamin, nhất là vitamin A và C từ các nguồn tự nhiên trong
rau, củ quả, trái cây. Bên cạnh đó, vitamin D cũng rất cần thiết cho sự tái tạo
và phát triển của xương, trong khẩu phần ăn hàng ngày không cung cấp đủ
nhu cầu. Tắm nắng hợp lý mỗi ngày giúp cho quá trình tổng hợp vitamin D

nội sinh tăng lên trong những điều kiện nhất định.


11

Chất khoáng là các muối vô cơ, là các nguyên tố cần thiết để cấu tạo
nên các tổ chức cần thiết của cơ thể và duy trì chức năng sinh lý bình thường.
Các chất khoáng rất cần cho sự tạo xương, tạo rǎng, tạo máu và các hoạt động
chức nǎng sinh lý của cơ thể. Ở lứa tuổi này canxi và photpho cần được chú ý
để cung cấp đủ cho trẻ. Trẻ từ 1 đến 3 tuổi nhu cầu là 500mg/ngày và từ 4-6
tuổi là 600mg/ngày. Cần có một tỷ lệ thích hợp giữa canxi và photpho mới
giúp trẻ hấp thu và sử dụng được hai loại khoáng chất này. Tỷ lệ tốt nhất giữa
canci/photpho là 1-1,5 đặc biệt là đối với trẻ em [7]. Sắt cũng là một khoáng
chất quan trọng, rất cần thiết đối với mọi người, đặc biệt là với trẻ em.Tuy
nhiên ở một số nước đang phát triển, khả năng tiếp cận các nguồn thực phẩm
động vật có lượng sắt giá trị sinh học cao rất thấp và khẩu phần hàng ngày
chủ yếu gồm các thực phẩm nguồn gốc thực vật nên nguy cơ bị thiếu sắt cao.
Với trẻ từ 1-3 tuổi, nhu cầu sắt tính theo giá trị sinh học của khẩu phần (10%)
là 7,7mg/ngày và trẻ từ 4-6 tuổi là 8,4mg/ngày.
1.3. Tình hình suy dinh dưỡng.
1.3.1. Tình hình suy dinh dưỡng trên thế giới.
Báo cáo của Tổ chức cứu trợ trẻ em năm 2012 chỉ ra rằng 1/4 trẻ em
trên toàn thế giới và 1/3 trẻ em ở các nước đang phát triển bị còi cọc. SDD là
một nguyên nhân quan trọng đóng góp vào 1/3 trường hợp tử vong toàn cầu.
Ước tính, mỗi năm có khoảng 300 trẻ em chết vì SDD. Tỷ lệ trẻ có khả năng
bị SDD ở các nước nghèo cao gấp hai lần so với các nước giàu. Trong vòng
15 năm tiếp theo sẽ có khoảng 450 triệu trẻ em bị ảnh hưởng bởi còi cọc và tỷ
lệ trẻ SDD được dự báo tăng ở nhiều quốc gia trên thế giới vào năm 2015.
Tình trạng còi cọc là một vấn đề phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới [10].
Tuy nhiên, tình trạng khẩn cấp “lặng lẽ” này hầu như ít được thế giới quan

tâm. Uganda là quốc gia có tới 33% trẻ em trên toàn quốc bị SDD và mỗi năm
cần tới 310 triệu USD để khắc phục tình trạng này [11].


12

Tỷ lệ trẻ em thiếu cân ở Đông Nam Á, Bangladesh, Ấn Độ và Pakistan
chiếm 1/2 tổng số trẻ thiếu cân trên thế giới. Tại Đông Á và Trung Quốc, số
trẻ em thiếu cân giảm 6,7% mỗi năm, tuy nhiên tình hình này vẫn còn diễn
biến rất chậm ở các nước khác trong khu vực [12]. Năm 2012 tại Ấn Độ,
Mesharam II và cộng sự nghiên cứu trên 14.587 trẻ em từ 0 đến 5 tuổi cho
thấy tỷ lệ SDD theo các thể nhẹ cân, thấp còi và gầy còm lần lượt là 49%;
51% và 22% [13]. Nghiên cứu của J. Alom và cộng sự (2012) tại Bangladesh
cho thấy 25% trẻ SDD thể thấp còi, 28% thể nhẹ cân và 14% thể gầy còm
[14]. Một nghiên cứu ở các vùng nghèo của nước láng giềng Trung Quốc trên
2.201 trẻ em dưới 5 tuổi của H.Zhou và cộng sự (2012) thấy tỷ lệ SDD nhẹ
cân, thấp còi và gầy còm lần lượt là 13,1%; 19,3% và 5,5%.
Đối với khu vực Đông Nam Á, các nước có tỷ lệ SDD cao và không có
khả năng phục hồi đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là giảm tỷ lệ SDD
thể gầy còm: Lào (40%). Campuchia (36%), Myanmar (32%) và Đông Timor
(46%). Các nước đã đạt được tiến bộ trong giảm SDD cấp độ quốc gia song một
bộ phận dân cư vẫn phải đối mặt với điều kiện chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng
kém Indonesia (28%), Philippine (28%) và Việt Nam (21%) [11].
1.3.2. Tình hình suy dinh dưỡng tại Việt Nam.
Suy dinh dưỡng do thiếu protein- nǎng lượng (thường gọi là SDD) là
tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu
hiện của SDD là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu
chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học tập, nǎng suất lao động
kém khi trưởng thành.
Tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể

trong 30 năm qua. Năm 1985 tỷ lệ SDD là 51,5%, nhưng những năm gần đây,
với sự phát triển của nền kinh tế xã hội và sự triển khai có hiệu quả của
chương trình phòng chống SDD trẻ em tỷ lệ SDD đã giảm một cách đáng kể,
xuống còn 19,9% năm 2008 [15]. Tốc độ giảm SDD trẻ em tại Việt Nam


13

trong năm năm qua khoảng 2% một năm và Việt Nam được coi là một quốc
gia duy nhất trong khu vực đạt tốc độ giảm SDD nhanh theo tiến độ của WHO
và UNICEF [16]. Theo kết quả của tổng điều tra dinh dưỡng năm 2009, có
khoảng 1,54 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD nhẹ cân và khoảng 2,59 triệu trẻ
em bị SDD thấp còi. Bên cạnh đó, thừa cân/béo phì đang có xu hướng gia tăng
nhanh chóng ở một số đô thị, thành phố lớn [17].
TTDD của trẻ em đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu
thiên niên kỷ cũng như chỉ số phát triển con người và gần đây thì mức độ
giảm SDD có chiều hướng chậm lại [18].

Biểu đồ 1.1. Diễn biến suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi qua các năm
(2000-2012).
Tỷ lệ trẻ em SDD ở nước ta vẫn còn cao [19]. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi bị thiếu cân đang có xu hướng giảm dần: năm 2000 là 33,8%; năm 2006 là
23,4% và năm 2012 là 16,2%. Dựa vào chỉ tiêu CC/T và phân loại quốc tế: Tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi thấp còi năm 2000 là 36,5%; năm 2006 là 31,9% và năm 2012
là 26,7%. Tình hình SDD theo nhóm tuổi tăng cao, nhất là ở nhóm từ 6-12 tháng
tuổi đến 24 tháng tuổi và tỷ lệ này cao nhất ở trẻ em 2 tuổi [19]. Tỷ lệ trẻ em
SDD có sự khác nhau theo các vùng sinh thái. Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên là những vùng có tỷ lệ SDD cao nhất cả nước vì đây là vùng nghèo, còn
nhiều khó khăn, mùa màng thường xuyên chịu tác động nặng nề bởi thiên tai, lũ
lụt. Thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.

Bảng 1.2. Tình hình suy dinh dưỡng trẻ em theo các vùng sinh thái năm 2012.
Vùng sinh thái
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
Tây Nguyên

SDD
CN/T (%) CC/T (%)
11,8
20,9
19,5
25,0

21,9
31,9
31,2
36,8

CN/CC (%)
5,5
7,4
7,5
8,1


14

Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

Toàn quốc

11,3
14,8
16,2

20,7
26,0
26,7

5,4
6,8
6,7

Ngoài ra, tỷ lệ SDD còn thay đổi tùy theo từng vùng. Ở vùng núi, nơi có
người dân tộc thiểu số sinh sống, thì tỷ lệ này vẫn còn khá cao khi so sánh chung
với khu vực thành thị. Nếu như tỷ lệ SDD chung ở thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội năm 2009 đã xuống tới mức lần lượt là 7,8% và 9,1% và vào năm 2010
là 6,8% và 10,8% [20] thì nhiều khu vực miền núi như Bắc Kạn vẫn là 25,4%,
Quảng Bình 23,6%, Kon Tum 28,3% và Đắc Nông 26,9% [20], [21]. Sự chênh
lệch thấy rõ này cho thấy mức độ cần thiết để có những can thiệp kịp thời nhằm
cải thiện TTDD của trẻ ở khu vực này.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Anh Vũ và Lê Thị Hương tại
Huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên cho thấy tỷ lệ trẻ SDD là khá cao: thể thiếu
cân là 18,5%, thấp còi là 31,8% cao hơn so với tỷ lệ năm 2010 chung của toàn
quốc (29,3%), gầy còm là 9,8% cũng cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn
quốc là 7,1% [22], [23].
1.4. Nguyên nhân và một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng
của trẻ.
1.4.1. Nguyên nhân của suy dinh dưỡng.

Mô hình nguyên nhân của UNICEF cho thấy nguyên nhân của SDD là
đa dạng, có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề y tế, lương thực-thực phẩm và
thực hành chăm sóc trẻ tại hộ gia đình [24], [25], [26], [27].
Nguyên nhân trực tiếp phải kể đến là thiếu ăn về số lượng hoặc chất
lượng (tình trạng nghèo đói) và mắc các bệnh nhiễm khuẩn [24], [28]. Trẻ em
lứa tuổi từ 0 – 5 tuổi là đối tượng bị SDD cao nhất [24], [29] bởi vì cơ thể ở
giai đoạn này phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng rất cao và không được ăn
bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng.
Người ta thường cho rằng những vùng ăn chủ yếu các loại ngũ cốc, củ
thường hay dẫn đến thiếu protein, nhưng nhiều nghiên cứu gần đây lại cho


15

thấy khẩu phần ăn của trẻ thiếu năng lượng trầm trọng, ngay cả khi mức thiếu
protein mới ở mức đe doạ [24], [30].
Sữa mẹ và thức ăn bổ sung đóng vai trò quan trọng đối với thời gian bị
SDD và thể loại SDD [24], [27], [31]. Các quan niệm dinh dưỡng sai lầm của
người mẹ hoặc gia đình trong vấn đề chăm sóc thai sản, nuôi con bằng sữa mẹ
và thức ăn bổ sung là những nguyên nhân quan trọng, trực tiếp làm cho trẻ dễ
bị SDD. Trẻ không được bú sữa mẹ, hoặc bú chai nhưng số lượng sữa không
đủ, dụng cụ bú sữa không đảm bảo vệ sinh đều có thể dẫn đến SDD. Khi cho
ăn bổ sung muộn, như ở một số nước châu Phi, các trường hợp SDD nặng
thường xảy ra vào năm thứ 2 [32]. Cho ăn bổ sung quá sớm, hoặc cho trẻ ăn
thức ăn đặc quá muộn, số lượng không đủ và năng lượng, protein trong khẩu
phần ăn thấp cũng dễ dẫn tới SDD.


16


Hậu quả tức thời: tử vong, tàn tật
Hậu quả lâu dài: phát triển thể lực và trí tuệ ở lứa tuổi trưởng thành, năng lực sản xuất, khả năng
sinh sản, các bệnh mạn tính
Hậu quả
Nguyên nhân trực tiếp
Nguyên nhân

tiềm tàng

Nguyên nhân gốc rễ
Bệnh tật
An ninh thực phẩm hộ gia đình
Chăm sóc bà mẹ và trẻ em
Môi trường sức khoẻ
Nguồn lực cho an ninh lương thực
- Sản xuất thực phẩm
- Thu nhập
- Quà
Nguồn lực cho chăm sóc
- Kiểm soát nguồn lực và tự quyết của người chăm sóc trẻ.
-Tình trạng sức khoẻ thể chất và tinh thần của người chăm sóc trẻ
- Kiến thức và niềm tin của người chăm sóc trẻ.
Nguồn lực cho y tế
- Cung cấp nước sạch
- Vệ sinh đầy đủ
- Có chăm sóc y tế
-An toàn môi trường
ĐÓI NGHÈO

- Cấu trúc chính trị - xã hội – kinh tế

- Môi trường văn hoá - xã hội
- Các nguồn tiềm năng (Môi trường, công nghệ, con người)

Tình trạng SDD trẻ em
Khẩu phần ăn của trẻ em


17

Hình 1: Mô hình nguyên nhân - hậu quả SDD của UNICEF [2].


18

1.4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
1.4.2.1. Chăm sóc dinh dưỡng bà mẹ khi có thai và cho con bú.
Khi mang thai, dinh dưỡng, thói quen dinh dưỡng tốt sẽ cung cấp đầy
đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho thời kì mang thai, cho sự phát triển và
lớn lên của thai nhi .
Các yếu tố nguy cơ dẫn dến cân nặng sơ sinh (CNSS) của trẻ thấp trước
tiên là tình trạng chăm sóc dinh dưỡng bà mẹ trước và trong khi có thai.
TTDD kém, chế độ ăn uống không cân đối, không đủ năng lượng và các chất
dinh dưỡng cần thiết cho bà mẹ khi mang thai có thể dẫn đến SDD bào thai và
gây ra những hậu quả cho đứa trẻ về sau .
Tình trạng thiếu năng lượng trường diễn, thiếu vi chất dinh dưỡng diễn ra
phổ biến ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Năm 1999, tỷ lệ thiếu năng lượng trường
diễn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 32,8%. Điều này có thể làm tăng các rủi ro
về thai sản, tăng tỷ lệ tử vong chu sinh, SDD bào thai và thiếu sữa [33].
Việc theo dõi tình trạng thai nhi và chăm sóc bà mẹ khi mang thai như
số lần khám thai, thời điểm khám thai, số cân nặng tăng khi mang thai, bổ

sung viên sắt và tiêm phòng uốn ván trong quá trình mang thai có ảnh hưởng
lớn đến tình trạng SDD của trẻ. Đây là chiến lược phòng chống SDD sớm khi
trẻ còn nằm trong bụng mẹ, nhằm làm giảm nguy cơ trẻ bị SDD và tạo điều
kiện cho trẻ tăng trưởng và phát triển tốt .
Những bà mẹ trong khi mang thai lao động nặng nhọc, không được nghỉ
ngơi đầy đủ cũng là những yếu tố ảnh hưởng tới cân nặng sơ sinh.
1.4.2.2. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ.
Theo khuyến cáo của WHO, sau khi sinh đứa trẻ cần được cho bú mẹ
càng sớm càng tốt thậm chí ngay trong 1 giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn
cho tới tận 6 tháng [34], vì bú sớm có lợi ích cho cả mẹ và con:


19

-

Bú sớm giúp trẻ tận dụng được sữa non, là loại sữa tốt, hoàn hảo về dinh
dưỡng và các chất sinh học thích ứng với cơ thể non nớt của trẻ.

-

Bú sớm sẽ kích thích sữa mẹ tiết sớm hơn và nhiều hơn qua cung phản xạ
prolactin.

-

Bú sớm cũng giúp cho sự co hồi tử cung tốt hơn ngay sau đẻ, hạn chế mất
máu.

-


Bú sớm ngay sau đẻ tạo sự bền chặt tình cảm mẹ con trong suốt cuộc đời
sau này [34], [35], [36].

-

Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu mà không ăn thêm thức ăn gì
khác kể cả nước uống vì bản thân người mẹ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu
dinh dưỡng mà đứa trẻ cần, mọi thức ăn thêm khác trong giai đoạn này đều
có thể mang đến cho trẻ các rủi ro về sức khỏe [34], [37], [38].

-

Trẻ dưới 1 tuổi, sữa mẹ là thức ăn qúi giá nhất mà không một thức ăn nhân
tạo nào có thể so sánh. Trẻ cần được bú mẹ thường xuyên, bú kéo dài tới
18-24 tháng hoặc lâu hơn [34], [35], [36].

1.4.2.3. Thực hành cho trẻ ăn bổ sung.
Ăn bổ sung (ABS) hay còn gọi là ăn sam, ăn thêm ở miền Bắc hay ăm
dặm ở miền Nam [39]. Theo khuyến cáo của WHO, cần cho trẻ bú mẹ hoàn
toàn trong 6 tháng đầu tiên của cuộc đời [40]. Trẻ cần được ABS đúng độ tuổi
( khi trẻ tròn 6 tháng tuổi) [40].
Kết quả nghiên cứu của WHO tại 9 nước đang phát triển chỉ ra rằng sữa
mẹ chỉ có xu hướng thỏa mãn nhu cầu của trẻ trong vòng 6 tháng đầu [41].
Do vậy để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng lên của trẻ về thể chất, đến một
giai đoạn nhất định trẻ cần được ăn thêm các thức ăn khác ngoài sữa mẹ để
đảm bảo nhu cầu [42].
Theo WHO và UNICEF thì ABS là quá trình nuôi trẻ, tập cho trẻ thích
ứng với sự chuyển đổi chế độ ăn từ một khẩu phần hoàn toàn dựa vào sữa mẹ



20

(hay chế độ sữa đơn thuần với bà mẹ mất sữa) sang chế độ ăn sử dụng đều
đặn các thực phẩm sẵn có trong bữa ăn gia đình [34], [35], [40]. Còn Viện
Dinh dưỡng thì cho rằng, ABS là cho trẻ ăn các loại thức ăn khác ngoài sữa
mẹ như: bột, cháo, cơm, rau, hoa quả, sữa đậu nành, sữa bò…[43].
Các thực phẩm sử dụng với mục đích bổ sung sữa mẹ để thỏa mãn nhu
cầu dinh dưỡng của trẻ gọi là thực phẩm bổ sung. Các thực phẩm này được
xếp vào 4 nhóm chính:
+ Nhóm giàu Glucid: Các loại ngũ cốc như: gạo, ngô, lúa mì...
+ Nhóm giàu Protid: Thịt gia súc, gia cầm, cá và các loại thủy sản...
+ Nhóm giàu Lipid: Mỡ động vật, dầu thực vật...
+ Nhóm cung cấp Vitamin và muối khoáng: rau, quả ...
Trong đó một bữa ABS hợp lý cho trẻ phải có sự phối trộn đầy đủ giữa 4
nhóm thực phẩm đã nêu trên [2].
Số bữa ăn cần bổ sung trong ngày: Với trẻ từ 7 - 9 tháng tuổi ngoài sữa
mẹ cần ABS 2-3 bữa bột đặc(10-15%) + nước hoa quả nghiền; Trẻ 10 - 12
tháng ngoài sữa mẹ cần thêm 3 bữa bột đặc (20%) + hoa quả nghiền; Trẻ 13 - 24
tháng ngoài sữa mẹ cần 3 bữa cháo + hoa quả.Trên 24 tháng tuổi: ăn 3 bữa
cùng gia đình với ưu tiên các thức ăn giàu chất dinh dưỡng, như 1 bát cơm
với thịt, cá, rau xanh với 2 - 3 bữa phụ (sữa, sữa chua, bánh, cháo, bột) [39].
1.4.2.4. Một số yếu tố khác.
-

Điều kiện kinh tế gia đình, tình trạng thiếu ăn, tình trạng văn hóa của bà
mẹ ảnh hưởng đến TTDD của trẻ.

-


Vấn đề chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước, trong và sau khi sinh còn yếu, tỷ
lệ nạo hút thai cao, một số bệnh máu, bệnh mạn tính của bà mẹ có ảnh
hưởng đến sức khỏe và dinh dưỡng đứa con sau này.


21

-

Môi trường sống không đảm bảo vệ sinh, hố xí không đạt tiêu chuẩn, tập
quán sử dụng phân tươi để tưới rau gây ô nhiễm môi trường, tăng tỷ lệ
mắc bệnh giun sán.

-

Các bệnh được xếp hàng đầu thường gặp ở trẻ em đó là ỉa chảy và nhiễm
khuẩn hô hấp cấp. Số lần mắc trung bình bệnh ỉa chảy và viêm phổi của trẻ
em trong 1 năm là 2,2 lần và 1,6 lần.

1.5. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng.
1.5.1. Các loại phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng.
Hiện nay có bốn phương pháp chính được dùng để đánh giá TTDD của
trẻ em [44] :
-

Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống;

-

Các chỉ tiêu nhân trắc;


-

Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có
liên quan đến ăn uống;

-

Các xét nghiệm hóa sinh.

1.5.2. Phương pháp nhân trắc học
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích đo các biến đổi về kích thước và
cấu trúc cơ thể theo tuổi và TTDD [44], [45], [44, 46]. Thu thập các kích thước
về nhân trắc là bộ phận quan trọng trong cuộc điều tra dinh dưỡng và là các chỉ
số trực tiếp đánh giá TTDD của trẻ em. Theo khuyến cáo của WHO ba chỉ tiêu
nhân trắc thường dùng là cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng
theo chiều cao [45], [47].


22

Cân nặng theo tuổi (CN/T):
Chỉ số này thường được dùng để đánh giá tình trạng SDD chung nhưng
không cho biết cụ thể đó là loại SDD vừa mới xảy ra hay đã tích lũy từ lâu. Vì
việc theo dõi cân nặng tương đối đơn giản hơn chiều cao ở cộng đồng nên tỷ
lệ thiếu cân vẫn được xem như tỷ lệ chung của thiếu dinh dưỡng [48]. Thiếu
cân được định nghĩa cân nặng theo tuổi dưới -2 độ lệch chuẩn so với quần thể
tham chiếu. Chỉ số này cho biết tình trạng thiếu hụt một trong các dưỡng chất
thiết yếu và/hoặc thiếu hụt năng lượng khẩu phần một cách tương đối hay
tuyệt đối [49].Chỉ tiêu này dễ thu thập và hay dùng nhất trong sử dụng biểu

đồ tăng trưởng.
Chiều cao theo tuổi (CC/T):
Chỉ số này đã được khuyến cáo sử dụng của WHO để phát hiện trẻ
"thấp còi" kết hợp với cân nặng theo chiều cao. Chiều cao theo tuổi thấp phản
ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc trong quá khứ làm cho đứa trẻ bị
thấp còi và làm gia tăng khả năng mắc bệnh. Tỷ lệ thấp còi cao nhất là từ 2
đến 3 tuổi [44]. Tỷ lệ hiện mắc SDD thể thấp còi phổ biến hơn tỷ lệ hiện mắc
SDD thiếu cân ở mọi nơi trên thế giới vì có những trẻ bị thấp còi trong giai
đoạn sớm của cuộc đời có thể đạt được cân nặng bình thường sau đó nhưng
vẫn có chiều cao thấp [50].
Cân nặng theo chiều cao (CN/CC):
Khi chỉ số này dưới -2 độ lệch chuẩn so với quần thể tham khảo được
định nghĩa là gầy còm, hay SDD cấp tính. Cân nặng theo chiều cao thấp cho
thấy sự thiếu nguồn thực phẩm xảy ra trong khoảng thời gian gần đây làm cân
nặng của trẻ giảm nhanh.
Các chỉ số nhân trắc còn được WHO sử dụng để đánh giá mức độ trở
thành vấn đề sức khỏe có ý nghĩa cộng đồng khi dựa vào tỷ lệ thiếu cân, thấp
còi và gầy còm của trẻ em trong cộng đồng ấy.


23

Bảng 1.3. Các giá trị ngưỡng có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của chỉ số
nhân trắc dinh dưỡng trẻ em.
Chỉ số
Thiếu cân

Giá trị ngưỡng hiện mắc có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng
[51], [52]
< 10% : thấp

10-19% : trung bình
20-29% : cao

Thấp còi

≥ 30% : rất cao
< 20% : thấp
20-29% : trung bình
30-39% : cao

Gầy còm

≥ 40% : rất cao
< 5% : thấp
5-9%

: trung bình

10-14% : cao
≥ 15% : rất cao
1.5.3. Phương pháp điều tra khẩu phần.
Điều tra khẩu phần là bộ phận thiết yếu trong các cuộc điều tra dinh
dưỡng. Thông qua việc thu thập số liệu về tiêu thụ thực phẩm và tập quán ăn
uống, nó cho phép rút ra các kết luận về mối quan hệ giữa ăn uống và tình trạng
sức khoẻ [46], [53], [54].
Điều tra khẩu phần có thể tiến hành cho cá nhân hoặc tập thể. Hiện nay
có một số phương pháp điều tra khẩu phần của cá thể hay dùng như hỏi ghi 24
giờ qua, hỏi ghi tần suất xuất hiện thực phẩm, phương pháp ghi chép. Còn
điều tra khẩu phần ở bếp ăn tập thể hay hộ gia đình thường sử dụng phương
pháp cân đong, phương pháp ghi sổ và kiểm kê [46], [55].



24



Phương pháp điều tra tần xuất của thực phẩm.
Thông qua hỏi trực tiếp hoặc sử dụng các phiếu điều tra trong đó có

nêu các câu hỏi để đối tượng tự trả lời. Mục đích của phương pháp này là tìm
hiểu tính thường xuyên của các loại thực phẩm trong thời gian nghiên cứu,
tìm hiểu số bữa ăn, khoảng cách giữa các bữa ăn, giờ ăn…
Nhờ phương pháp này ta có thể biết:
+ Những thức ăn phổ biến nhất (nhiều người hoặc gia đình dùng nhất)
+ Những thức ăn có số lần sử dụng cao nhất
+ Những dao động theo mùa
Số loại thực phẩm cần hỏi phụ thuộc vào yêu cầu nghiên cứu, nhiều
loại phiếu chỉ tập trung vào tần xuất sử dụng một số loại thực phẩm mà người
ta cần nghiên cứu [56].
1.5.4. Phương pháp điều tra tập quán ăn uống.
Là hệ thống câu hỏi nhằm thu thập các thông tin như các quan niệm,
niềm tin, sở thích đối với thức ăn cũng như cách chế biến, phân bố các thức
ăn trong ngày, cách ăn uống trong các dịp lễ hội… Tìm hiểu tập quán ăn uống
và xác định nguyên nhân của chúng là cần thiết, vừa để tiến hành giáo dục
dinh dưỡng có hiệu quả, vừa đề ra phương hướng sản xuất thích hợp. Sự hình
thành và phát triển tập quán ăn uống chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tâm lý,
kinh tế xã hội, tôn giáo, lịch sử và địa lý.
Thảo luận nhóm (TLN) có trọng tâm là một kỹ thuật để điều tra tập
quán ăn uống của địa phương [56].



25

1.6. Phân loại suy dinh dưỡng trẻ em.
1.6.1. Phân loại theo quần thể NCHS của Hoa Kỳ.
Từ năm 1981, WHO đã khuyến nghị sử dụng các chỉ số cân nặng theo
tuổi, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo chiều cao so với quần thể NCHS
của Hoa Kỳ để đánh giá tình trạng SDD.
− Trên -2SD: Bình thường
− -2SD đến -3SD: SDD độ 1
− Dưới -3SD: SDD độ 2
Sau 2 thập kỷ áp dụng, một số nhược điểm của quần thể NCHS bộc lộ:
được xây dựng trên quần thể trẻ em Hoa Kỳ, đa số trẻ không được nuôi bằng
sữa mẹ mà được nuôi bằng sữa công thức, do vậy cân nặng có phần cao hơn
và chiều cao có phần thấp hơn so với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ [41], [57],
1.6.2. Phân loại theo WHO 2005.
SDD trong cộng đồng được chia thành 3 thể: SDD nhẹ cân, SDD thấp
còi và SDD gày còm [58]. Theo khuyến nghị của WHO, các chỉ tiêu thường
dùng để đánh giá TTDD là cân nặng theo tuổi (CN/T), chiều cao theo tuổi
(CC/T), cân nặng theo chiều cao (CN/CC). Từ năm 2005, thế giới đã có một
quần thể tham khảo chuẩn từ nghiên cứu xây dựng trên cơ sở chọn mẫu từ các
Châu lục và một tiêu chí cốt lõi là trẻ được nuôi bằng sữa mẹ hoàn toàn trong
6 tháng đầu [41]. WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng < 2 độ lệch chuẩn (< -2SD)
so với quần thể WHO 2005 để đánh giá trẻ bị SDD [52].
Chỉ số Z- Score (điểm –Z) được tính theo công thức [47]:
Kích thước đo được – số trung bình của quần thể tham chiếu

Độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu

Z- Score =



×