Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh và vai trò của cộng hưởng từ cột sống thắt lưng trong chẩn đoán đau thần kinh tọa, đối chiếu với lâm sàng tại Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 114 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đau thần kinh toạ là một bệnh rất thường gặp nhiều ở Việt nam cũng
như trên thế giới,chủ yếu xảy ra ở lứa tuổi 20 đến 60 nên đã gây nhiều hậu
quả ảnh hưởng lớn đến sức lao động và chất lượng cuộc sống [2], [24], [33].
Ở Mỹ, theo A. Toufexia mỗi năm có 2 triệu người phải nghỉ việc vì đau thắt
lưng. Theo Trần Ngọc Ân [1], đau thần kinh tọa chiếm 11,42% số bệnh nhân
điều trị nội trú tại khoa Cơ - Xương - Khớp bệnh viện Bạch Mai (1991 2000), đứng thứ hai sau bệnh viêm khớp dạng thấp. Có nhiều nguyên nhân
đau thần kinh tọa, nhưng chủ yếu do những tổn thương ở cột sống thắt lưng.
Biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu vì vậy việc chẩn đoán nguyên nhân đau
thần kinh tọa là vô cùng quan trọng, giúp cho thầy thuốc lâm sàng lựa chọn
các phương pháp điều trị đúng đắn và hiệu quả cao.
Những năm gần đây hiểu biết về bệnh sinh, đặc điểm lâm sàng, chẩn
đoán và điều trị bệnh thần kinh tọa đã đạt nhiều tiến bộ to lớn. Các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh ngày càng có nhiều tiến bộ, được áp dụng nhằm tìm
hiểu nguyên nhân đau thần kinh toạ. Chụp Xquang quy ước cột sống thắt lưng
cùng giúp chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác như: viêm khớp cùng chậu,
viêm xương, lao cột sống, ung thư cột sống, các dị tật bẩm sinh gai đôi,trượt
thân đốt sống, cùng hóa đốt sống thắt lưng. Chụp bao rễ thần kinh cho phép
đánh giá hình ảnh gián tiếp của thoát vị đĩa đệm, hình ảnh ống sống rộng hay
hẹp, nhưng kỹ thuật này hiện nay không dùng nữa [5], [6], [24]. Chụp cắt lớp
vi tính là phương pháp có thể chẩn đoán được thoát vị đĩa đệm, tuy nhiên cắt
lớp vi tính chỉ chụp được theo trục axial nên độ nhậy còn thấp, nhiễm xạ [3],
[12], [33], [65].
Chụp cộng hưởng từ là phương pháp hiện đại và ưu việt cho thấy hình
ảnh trực tiếp với độ phân giải cao không gian ba chiều, đây là phương pháp


2


không phải dùng thủ thuật can thiệp và không gây nhiểm xạ cho thầy thuốc và
bệnh nhân [3], [21], [24], [64].
Các nghiên cứu trên thế giới trong thế kỉ 20 đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về phương pháp chẩn đoán hình ảnh: Chụp cản quang đĩa đệm cột
sống của Junghans (1931), Lindblom (1948). Chụp tĩnh mạch thắt lưng bằng
đường xuyên mỏm gai của Fischgold (1952). Chụp bao rễ thần kinh của
Hemburger (1967). Từ khi có máy cộng hưởng từ ra đời, lần lượt các tác giả
Albeck, Danneskiold (1995), Komori và cộng sự, Taira và cộng sự (1998) đã
khẳng định cộng hưởng từ là phương pháp tốt nhất để chẩn đoán và tiên
lượng thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng.
Ở Việt Nam, từ tháng 12/1996 phương pháp chụp cộng hưởng từ bắt
đầu được triển khai và đã thay đổi khả năng chẩn đoán bệnh, cung cấp những
thông tin chính xác cho các nhà lâm sàng chẩn đoán sớm để lựa chọn các giải
pháp chữa trị đúng đắn hiệu quả cao [21]. Tuy nhiên, ở Hà Tĩnh chưa có đề
tài nghiên cứu nào về vai trò và tính ưu việt của chụp cộng hưởng từ cột sống
thắt lưng trong chẩn đoán nguyên nhân đau thần kinh tọa, vì vậy, việc tiến
hành nghiên cứu đề tài là rất cần thiết.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc
điểm hình ảnh và vai trò của cộng hưởng từ cột sống thắt lưng trong chẩn
đoán đau thần kinh tọa, đối chiếu với lâm sàng tại Bệnh viện Đa khoa Hà
Tĩnh” nhằm mục đích sau:
1. Mô tả đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ cột sống thắt lưng ở
bệnh nhân đau thần kinh tọa.
2. Đối chiếu lâm sàng và cộng hưởng từ các thể lâm sàng của đau
thần kinh tọa.


3

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU CHỨC NĂNG CỘT SỐNG THẮT LƯNG

Cột sống thắt lưng (CSTL) gồm 5 đốt sống (ĐS), đánh số từ L1 đến L5.
Các ĐS có hình dạng tương tự nhau, mỗi ĐS gồm hai phần chính: thân ĐS và
cung ĐS. Đường cong ở thắt lưng là đường cong lồi ra trước vì xuất hiện sau
khi sinh nên còn gọi là đường cong thứ cấp [2].
1.1.1. Đặc điểm giải phẫu các đốt sống thắt lưng
Hai phần chính của ĐS: khối xương ở phía trước gọi là thân ĐS và
vành xương ở phía sau gọi là cung ĐS.
Thân ĐS là một khối xương hình trụ dẹt, có hai mặt trên và dưới, gọi là
mặt gian ĐS. Mặt gian ĐS hơi lõm hình lòng chảo, được viền bởi một gờ
xương đặc hình nhẫn, gọi là mỏm nhẫn. Các mặt gian ĐS tiếp khớp với các
ĐS kề liền trên và dưới qua đĩa gian ĐS hay đĩa đệm. Mặt trước thân ĐS lồi
ra trước, có một vài lỗ nhỏ để các tiểu tĩnh mạch đi qua. Mặt sau thân ĐS hơi
lõm, tạo nên thành trước của ống sống Ở mặt này có các lỗ để các tĩnh mạch
và động mạch nuôi xương đi qua. Thân ĐS có chiều ngang lớn hơn chiều
trước sau. Thân ĐS thắt lưng L5 to nhất, phía trước dày hơn phía sau [46].
Cung ĐS ở phía sau thân đốt, gồm một đôi cuống, 2 mảnh và bảy mỏm.
- Cuống ĐS là hai mỏm xương dày từ hai rìa bên trên mặt sau thân
chạy ra sau, giới hạn nên thành bên ống sống. Bờ trên cuống cung ĐS có một
khuyết lõm hướng lên trên gọi là khuyết sống trên, còn bờ dưới có một khuyết
lõm xuống dưới. Khi hai ĐS khớp với nhau, khuyết sống dưới của ĐS trên
hợp với khuyết sống trên của ĐS dưới tạo nên lỗ tiếp hợp để các thần kinh
(TK) sống và mạch máu đi qua.


4

Hình 1.1. Cột sống thắt lưng [46].

- Mảnh ĐS: Có hai mảnh đi từ đầu cuối của hai cuống hướng ra sau,
vào trong, hợp với nhau trên đường giữa nơi bắt đầu của mỏm gai sau. Mảnh
ĐS là một tấm xương dẹt, giới hạn sau của ống sống [46].
- Các mỏm: gồm 7 mỏm; Hai mỏm ngang đi sang hai bên từ chỗ tiếp
nối giữa cuống và mảnh ĐS, là nơi bám của các cơ và dây chằng giúp cho các


5

động tác quay và nghiêng sang hai bên của cột sống; Hai mỏm khớp trên chạy
lên trên, có mặt khớp quay ra sau; Hai mỏm khớp dưới chạy xuống dưới, có
mặt khớp quay ra trước; Mặt khớp của mỏm khớp trên hơi lõm và hướng vào
trong, ra sau. Mỏm khớp dưới có mặt khớp hơi lồi, hướng ra ngoài và ra
trước. Một mỏm gai sau, chạy ra sau và xuống dưới. Tùy theo mỗi đoạn cột
sống, mỏm gai sau thay đổi về hình dạng, kích thước và hướng nằm, giúp cho
việc giới hạn các cử động của cột sống. ĐS thắt lưng L1 có mỏm ngang kém
phát triển so với mỏm ngang của các ĐS thắt lưng khác. ĐS thắt lưng L5 có
mỏm ngang to nhất và dính vào toàn bộ mặt ngoài của cuống tạo thành một
khối [46].
1.1.2. Đặc điểm của đĩa đệm thắt lưng
Đoạn CSTL có bốn đĩa đệm và hai đĩa đệm chuyển đoạn (thắt lưngngực và thắt lưng-cùng). Các đĩa đệm thắt lưng chiếm 33,3% chiều dài đĩa
đệm cột sống, kích thước của các đĩa đệm càng ở dưới càng to. Chiều cao đĩa
đệm thắt lưng cùng chỉ bằng 2/3 chiều cao đĩa đệm L4- L5. Do độ ưỡn của
CSTL nên chiều cao đĩa đệm ở phía trước lớn hơn phía sau. Ở khoang gian
đốt thắt lưng – cùng sự chênh lệch chiều cao giữa phía trước và phía sau là
lớn nhất nên đĩa đệm này có hình thang ở bình diện đứng dọc [2].
Đĩa đệm có hình thấu kính lồi hai mặt, gồm nhân nhầy, vòng sợi và
mâm sụn.
1.1.2.1. Nhân nhầy
Có hình cầu hoặc hình bầu dục nằm trong vòng sợi ở khoảng nối 1/3

giữa với 1/3 sau của đĩa đệm chiếm khoảng 40% bề mặt cắt ngang của đĩa
đệm. Đây là yếu tố thuận lợi để TVĐĐ hay xảy ra ở phía sau. Khi cột sống
vận động nhân nhầy sẽ chuyển động dồn về phía đối diện đồng thời vòng sụn
cũng bị giãn ra.


6

Nhân nhầy được cấu tạo bởi một màng liên kết hình thành những
khoang mắt lưới chứa chất cơ bản nhầy lỏng (thời kỳ bào thai khoảng tuần
thứ 24) và sau này chứa tổ chức keo nhầy Mucoprotein với người trẻ tế bào
này liên kết với nhau rất chặt chẽ, còn ở người già tế bào của tổ chức nhân
nhầy trở nên lỏng lẻo, dễ tách khỏi nhau, để lại những khoang rỗng. Nhờ khả
năng dịch chuyển sinh lý vốn có của nhân nhầy và tính đàn hồi của vòng sợi,
mà đĩa đệm thực hiện được chức năng làm hệ thống đệm sinh học dễ thích
nghi, có sức chịu đựng đối với các loại tải trọng tĩnh và động của cột sống.
Khi đĩa đệm bị thoái hoá vòng sợi bị rạn nứt, mất tính đàn hồi thì nhân nhầy
dễ dàng thoát ra khỏi giới hạn sinh lý và lúc đó tuỳ theo mức độ mà đĩa đệm
trở thành đối tượng dễ tổn thương nhất [46].
1.1.2.2. Vòng sợi đĩa đệm
Được cấu tạo bởi những sợi sụn rất chắc và đàn hồi, đan xen vào nhau
kiểu xoắn ốc, giữa các lớp có vách ngăn được gọi là yếu tố đàn hồi, tạo thành
nhiều vòng sợi chạy nối liền từ mặt trên thân đốt dưới đến mặt dưới thân đốt
kế tiếp ở trên. Bên cạnh đó nó còn được tăng cường thêm độ chắc bởi một dải
sợi móc chặt vào viền xương ở vùng riềm của vòng sợi, gọi là sợi Sharpey.
Tuy vậy, đoạn CSTL phía sau và phía sau bên của vòng sợi chỉ được cấu trúc
bằng một số ít những bó sợi tương đối mảnh nên đây là “điểm yếu nhất của
vòng sợi”. Vì vậy, nó tạo điều kiện cho TVĐĐ xảy ra [2].
Mạch máu nuôi dưỡng đĩa đệm rất nghèo nàn, chỉ có một số nhánh nhỏ
ở xung quanh vòng sợi, nhân nhầy được nuôi dưỡng chủ yếu bằng phương

thức thẩm thấu khuyếch tán. Các chất dinh dưỡng được vận chuyển từ khoang
tuỷ của ĐS thông qua những lỗ sàng của bề mặt thân ĐS và líp canxi dưới
mâm sụn. Việc nuôi dưỡng này có thể bị ảnh hưởng khi khả năng thẩm thấu
của đĩa đệm yếu đi và bị tắc ở tuổi 20 – 30 [46].


7

1.1.2.3. Mâm sụn
Mâm sụn bao phủ phần trung tâm của mặt trên và mặt dưới thân ĐS,
phía trước và hai bên được vành xương ngoại vi vây quanh, phía sau trải ra
đến mép của thân ĐS.

Hình 1.2. Cấu trúc của đĩa đệm [46].
1.1.2.4. Đặc điểm vi cấu trúc và sinh hoá của đĩa đệm
- Trong tổ chức đĩa đệm có: nguyên bào, tế bào sụn và những tế bào
nguyên sống.
- Nước: chiếm 80 – 85% nhân nhầy chứa nhiều nước nhất.
- Các mucopolysaccarid dưới dạng trung tính và dạng acid có khả năng
giữ nước tạo nên tính căng phồng, tính co giãn và độ nhầy của chất cơ bản.
- Các glucoprotein và polysaccarid: là chất cơ bản của đĩa đệm.
- Chất tạo keo: chiếm 44 – 51% trọng lượng khô của đĩa đệm.
- Các nguyên tố vi lượng: canxi, phốtpho, mangan, đồng, sắt…
1.1.2.5. Đặc điểm chức năng của đĩa đệm
Cột sống là cột trụ của cơ thể vừa vững chắc và linh động, gánh chịu
sức nặng của phần trên cơ thể, là nơi tựa cho hệ xương, cơ của thân, đai vai,
đai chậu và tạo nên ống sống bao bọc tuỷ sống. Chức năng linh động của cột
sống là nhờ hệ thống đĩa đệm.



8

Đĩa đệm ngoài chức năng tạo hình dáng cột sống còn có khả năng hấp
thụ, phân tán và dẫn truyền làm giảm nhẹ các chấn động tải trọng dọc trục cột
sống.Chức năng này được thực hiện chủ yếu nhờ áp lực thuỷ tĩnh (áp lực
trọng tải) và áp lực keo giữa khoang trong và ngoài đĩa đệm [46].
Đĩa đệm của người còn phải đảm bảo chức năng của cột sống trong
điều kiện tĩnh.Trên cơ sở của sức đàn hồi lớn, các đĩa đệm có khả năng “giảm
xóc” làm giảm nhẹ chấn thương.
Trên cơ sở chuyển dịch sinh lý của nhân nhầy, nhân nhầy có chức năng
như hòn bi trượt, đàn hồi và căng phồng nên có khả năng linh động rất
cao.Chức năng chủ yếu của nhân nhầy là hấp thụ và phân tán áp lực tải trọng
lên vòng sợi và mâm sụn, đồng thời còn là điểm dùa linh hoạt giữa hai thân ĐS
trong trạng thái tĩnh và chuyển động [2].
1.1.3. Đặc điểm của lỗ liên đốt
Các lỗ liên đốt (lỗ tiếp hợp) đoạn CSTL được giới hạn ở phía trước bởi
một phần của hai thân ĐS kế cận và đĩa đệm.Các cuống cung của hai ĐS kế
tiếp tạo thành cạnh trên và cạnh dưới của lỗ.
Giới hạn ở phía sau của lỗ liên đốt là các diện khớp của các khớp nhỏ
ĐS, cho nên những thay đổi tư thế diện khớp và các khớp ĐS có thể làm hẹp lỗ
liên đốt từ phía sau. Bình thường đường kính của lỗ liên đốt to gấp 5 – 6 lần
đường kính của đoạn rễ TK xuyên qua lỗ. Riêng lỗ liên ĐS thắt lưng - cùng là
đặc biệt nhỏ do tư thế của khe khớp ĐS ở đây lại nằm ở mặt phẳng đứng ngang
chứ không ở mặt phẳng đứng dọc như ở đoạn từ LI–LIV. Do đó những biến
đổi ở diện khớp và tư thế của khớp ĐS có thể gây hẹp lỗ tiếp hợp, đó là lý do
giải thích vì sao tỷ lệ đau rễ L5 cao nhất ở vùng CSTL – cùng [2], [7], [46].


9


Lỗ tiếp hợp

Hình 1.3. Hình ảnh giải phẫu của lỗ tiếp hợp trên ảnh mô phỏng và CHT
[Trích dẫn 18]
1.1.4. Các dây chằng cột sống thắt lưng
* Dây chằng dọc trước
Là một dải sợi rộng, phủ mặt trước thân ĐS và phần bụng của vòng sợi
đĩa đệm từ nền xương chẩm tới củ trước đốt đội, từ đó chạy xuống bám vào
mặt trước các ĐS cho tới phần trên mặt trước xương cùng.
Những sợi trong cùng hoà lẫn với vòng sợi trải từ thân ĐS này qua đĩa
đệm đến thân ĐS kế cận. Các sợi này cố định đĩa đệm vào bờ trước thân ĐS,
còn các sợi mỏng trải trên các thân đốt và cố định các thân đốt với nhau [9].
* Dây chằng dọc sau
Dây chằng dọc sau là một dải sợi nhẵn, mềm nằm trong ống sống mặt
sau các thân ĐS từ cổ thứ hai đến xương cùng.Dây chằng này dính chặt vào
vòng sợi nên khó bóc tách và dính chặt vào bờ thân xương, khi tới thân ĐS
thắt lưng dây chằng này chỉ còn là một dải mỏng, không hoàn toàn phủ kín
giới hạn sau của đĩa đệm. Như vậy, phần sau bên của đĩa đệm được tự do nên
TVĐĐ thường xảy ra nhiều nhất ở đây, đó là lý do giải thích vì sao TVĐĐ
lệch bên có tỷ lệ cao hơn TVĐĐ trung tâm. Phần bên của dây chằng dọc sau


10

bám vào màng xương của các cuống cung, thân đốt khi các sợi này bị căng ra
do đĩa đệm lồi ra sau, có thể xuất hiện triệu chứng đau, nhưng chính là đau từ
màng xương [2].
* Dây chằng vàng:
Được tạo nên bởi các sợi thuộc mô đàn hồi có màu vàng. Dây chằng
vàng mỏng ở vùng cổ và dầy nhất ở vùng thắt lưng, phủ ở phần sau của ống

sống, bám từ cung ĐS trên đến cung ĐS dưới và tạo nên một bức vách thẳng
ở phía sau ống sống để che chở cho tuỷ sống và các rễ TK. Dây chằng vàng
có tính đàn hồi cao, khi cột sống cử động nó góp phần kéo cột sống trở về
nguyên vị trí [9], [46].
* Dây chằng trên gai và dây chằng liên gai sống:
- Dây chằng trên gai có chức năng liên kết các mám gai với nhau. Dây
chằng trên gai mỏng chạy qua đỉnh các gai sống góp phần làm vững chắc
phần sau đoạn vận động cột sống khi ưỡn và khi gấp cột sống tối đa.Vì vậy
trong phẫu thuật cần bảo tồn các dây chằng này.
- Dây chằng liên gai là một màng mỏng đi từ rễ tới đỉnh của mỗi mám gai.

Hình 1.4. Các dây chằng cột sống thắt lưng [Trích dẫn từ 18].


11

1.1.5. Đặc điểm ống sống thắt lưng
Ống sống thắt lưng được giới hạn ở phía trước bởi thân ĐS và các đĩa
đệm, phía sau bởi dây chằng vàng và các cung ĐS, bên cạnh là các cuống
vòng cung và lỗ tiếp hợp. Trong ống sống thắt lưng có bao màng cứng, rễ TK
và tổ chức quanh màng cứng (động mạch, tĩnh mạch, tổ chức mỡ). Vì vậy,
các rễ TK không bị chèn ép bởi các thành xương của ống sống, kể cả khi vận
động CSTL tới biên độ cực lớn.
Bình thường ống sống ở đoạn thắt lưng L1–L2 có hình ba cạnh và khá
cao 14 – 22mm, ở L3 – L5 hình 5 cạnh 13 – 20mm.
Đường kính ngang của ống sống trung bình là 21mm, đường kính trước
sau trung bình là 19mm đo trên phim chụp CT Scanner.
Dù thay đổi độ rộng của ống sống thắt lưng có ý nghĩa lớn trong cơ chế
bệnh sinh chứng đau thắt lưng - cùng, đau TK hông do bệnh lý hẹp ống sống
thắt lưng.

1.1.6. Liên quan giữa rễ thần kinh với đĩa đệm trong ống sống thắt lưng
Dây TK tủy sống là một dây hỗn hợp bao gồm nhánh vận động, cảm
giác và giao cảm.Sau khi chui ra khỏi lỗ gian đốt nó chia thành nhánh trước
và nhánh sau. Nhánh trước phân bố vào phần trước cơ thể và tứ chi. Nhánh
sau phân bố cho các vùng da tương ứng, các cơ vùng lưng và có những nhánh
tận cùng đi tới bao khớp và diện khớp ngoài của khớp liên cuống ĐS, qua các
cân cơ để chi phối cho vùng da tương ứng. Đĩa đệm của người không có các
sợi TK mà chỉ phát hiện được những nhánh tận cùng của rễ TK giao cảm nằm
ở những lớp ngoài cùng của vòng sợi sau dây chằng dọc sau [2].
Hình dạng và thể tích của ống sống có thể thay đổi theo tư thế và vận
động của cột sống. Đây là một khoang quan trọng vì bên trong có chứa tuỷ
sống, rễ TK và dịch não tuỷ, đặc biệt về giải phẫu thì tuỷ sống dừng lại ở
ngang ĐS LII gọi là nón cùng, song các rễ TK lại tiếp tục chạy xuống dưới


12

một đoạn dài trong khoang dưới nhện và ra ngoài qua các lỗ tiếp hợp tương ứng.
Toàn bộ các dây TK tuỷ sống phía dưới và dây cùng chạy tới đốt thứ hai của
xương cụt được gọi là đuôi ngựa. Hướng đi của các rễ TK sau khi ra khỏi bao
màng cứng tuỳ thuộc vào chiều cao của đoạn tuỷ tương ứng. Do đó ở đoạn
CSTL rễ TK và đĩa đệm có liên quan định khu không tương ứng như sau [46]:

Hình 1.5. Liên quan giữa đĩa đệm và rễ thần kinh [46].
- Rễ L5 thoát ra ở bờ dưới thân đốt L4 tạo góc 450 với phương thẳng đứng.
- Rễ S1 thoát ra ở bờ dưới thân đốt L5 tạo một góc 300.
- Đặc điểm của rễ TK bị chèn ép:
Đau thần kinh tọa (ĐTKT) do TVĐĐ chủ yếu là đau rễ L5 và rễ S1
bệnh nhân có thể chỉ đau một rễ hoặc đau cả hai rễ. Trường hợp TVĐĐ L4–
L5 trước hết sẽ chèn ép vào rễ L5, còn rễ L4 chỉ bị chèn ép khi khối thoát vị

rất lớn và đẩy ra hai bên vì rễ L4 đi qua lỗ tiếp hợp ở phía trên ngoài của đĩa
đệm này. Trường hợp TVĐĐ L5-S1 thì chỉ cần thoát vị sau bên dù nhỏ, cả hai


13

rễ L5 và S1 đều đồng thời bị chèn ép vì rễ S1 thoát ra khỏi bao màng cứng
mức này, còn rễ L5 đi qua lỗ tiếp hợp L5-S1 thì nằm ngay trên vòng sợi phía
sau là đĩa đệm. Rễ L5 lớn nhất nhưng khoảng rỗng tự do dành cho rễ L5 hoạt
động ở lỗ tiếp hợp đốt L5-S1 lại rất nhỏ. Ảnh hưởng của TVĐĐ lên các rễ TK
còn liên quan trực tiếp đến độ rộng của ống sống.
Theo Mark S. Greenberg và Scott D. Hodges đã phân vùng tổn thương
tương ứng với rễ TK như sau:
+ Rễ L1, L2: rối loạn cảm giác vùng bẹn và mặt trong đùi, rối loạn vận
động cơ thắt lưng chậu, cơ may, rối loạn phản xạ vùng đùi bìu.
+ Rễ L3, L4: rối loạn cảm giác mặt trước đùi và trước trong cẳng chân,
rối loạn vận động cơ tứ đầu đùi, các cơ khép, rối loạn phản xạ bánh chè.
+ Rễ L5: rối loạn cảm giác mặt sau ngoài đùi, mặt trước ngoài cẳng
chân, mu chân và ngón chân, chi phối các cơ trước ngoài cẳng chân, ngón cái
(kiểm tra bằng cách cho bệnh nhân đứng, đi bằng gót chân). Do rễ L5 liên
quan với hai đĩa đệm L4–L5 và L5-S1 nên có thể bị chèn ép ở một trong hai
đĩa này, nhưng thường gặp là đĩa L4–L5.
+ Rễ S1: rối loạn cảm giác mặt sau ngoài đùi, sau ngoài cẳng chân, bờ
ngoài bàn chân và ngón út, rối loạn vận động cơ sau cẳng chân (không thể đi
kiễng chân), rối loạn phản xạ gót. Rễ S1 đau thường do TVĐĐ L5–S1 chèn ép.
+ Rễ S2: rối loạn cảm giác mặt sau trong đùi, cẳng và gan chân, rối loạn
vận động các cơ khép, dạng, gấp các ngón chân, rối loạn phản xạ da gan chân.
+ Rễ S3, S4, S5: rối loạn cảm giác vùng đáy chậu, rối loạn cơ thắt hậu
môn và bàng quang, rối loạn phản xạ hậu môn.



14

1.2. GIẢI PHẪU CHỨC NĂNG CỦA THẦN KINH TỌA

Dây TK tọa (còn gọi là dây TK hông to, dây TK ngồi) là một dây TK to
nhất trong cơ thể. Nó được tạo ra bởi thân thắt lưng cùng do một phần ngành
trước rễ L4, toàn bộ nhành trước rễ L5 và ngành trước của các rễ S1, S2, S3
hợp thành. TK tọa có thiết diện cắt ngang hình oval, kích thước 16-20 mm ở
người trưởng thành. Khi các rễ L5-S1 hợp nhau lại thành TK tọa để đi ra
ngoài ống sống phải qua một khe hẹp là khe gian đốt- đĩa đệm – dây chằng.
Khe này có cấu tạo phía trước là thân ĐS, đĩa đệm, phía bên là cuống giới hạn
lỗ tiếp hợp, phía sau là dây chằng. Các thành phần trên bị tổn thương đều có
thể gây ĐTKT do chèn ép hoặc dày dính. Trong vùng chậu hông, TK tọa chui
qua lỗ mẻ hông to đi vào vùng mông. Tiếp đó TK tọa đi qua khoảng giữa mấu
chuyển lớn của xương đùi và ụ ngồi, chạy dọc xuống khoeo chân và phân chia
thành hai nhánh hông khoeo trong (TK chày) và hông khoeo ngoài (TK mác
chung) ở trên đỉnh của khoeo chân. Phần lớn các sợi hông khoeo trong thuộc
rễ S1, còn các sợi hông khoeo ngoài thuộc rễ L5 [9].
TK tọa chi phối vận động các cơ mông, cơ ở phần sau của đùi, cơ cẳng
chân và các cơ ở bàn chân.
Rễ L5 (nhánh hông khoeo ngoài) chi phối vận động các cơ ở cẳng chân
trước ngoài, thực hiện các động tác như gấp bàn chân, duỗi các ngón chân, đi
trên gót chân và chi phối cảm giác một phần mặt sau đùi mặt trước ngoài cẳng
chân, ngón chân cái và các ngón lân cận [9], [46].
Rễ S1 (nhánh hông khoeo trong) chi phối vận đông các cơ cẳng chân
sau (thực hiện các động tác duỗi bàn chân, gấp các ngón chân, đi trên đầu
ngón chân) và chi phối cảm giác mặt sau đùi, mặt sau cẳng chân, bờ ngoài
chân và 2/3 gan chân [9], [46].



15

Hình 1.6. Dây thần kinh tọa [46].
1.3. NGUYÊN NHÂN ĐAU THẦN KINH TỌA

1.3.1. Bệnh lý đĩa đệm
1.3.1.1. Thoát vị đĩa đệm
Trong thời gian gần đây, nhiều nghiên cứu về bệnh lý đĩa đệm đã thống
nhất nhận định: thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ) CSTL đóng vai trò hàng đầu, là cơ
chế phổ biến nhất gây ĐTKT.
TVĐĐ được định nghĩa bởi sự chuyển chỗ của nhân nhầy vượt quá giới
hạn sinh lý của vòng xơ. Phần trước của vòng này dày và chắc hơn phần sau,
do đó hầu như các TVĐĐ thường về phía sau [70], [71].


16

Tất cả các TVĐĐ sau bên nhân nhầy ở vùng L4-L5 hoặc L5-S1 đều
dẫn đến sự chèn ép của một trong hai rễ của TK tọa. Để hiểu rõ vị trí bị chèn
ép, phải hiểu mối tương quan giữa TVĐĐ của đĩa tầng trên và rễ TK thuộc
ĐS kề sát dưới. Chú ý rằng phình đĩa đệm ở dưới vị trí L4 song lại chèn ép rễ
L5 ở vị trí cùng bên [9], [47], [48].
Nói chung, ĐTKT biểu hiện chèn ép rễ L5 là do TVĐĐ L4- L5 và L5S1. Hầu như tất cả các ĐTKT do TVĐĐ thường một bên, song cũng có
trường hợp chính thoát vị chèn ép một cách tự phát hoặc từng lúc các rễ phải
và trái (ĐTKT hai bên hoặc dao động). Một số thoát vị lớn, thể di trú, có thề
chèn ép nhiều rễ thắt lưng cùng (hội chứng đuôi ngựa) [45], [49], [50].
1.3.1.2. Bệnh lý đĩa đệm không thoát vị
- Thoái hóa đĩa đệm: đĩa đệm thoái hóa là do quá trình thoái hóa sinh
học theo tuổi và thoái hóa của bệnh lý. Khi đĩa đệm bị thoái hóa sẽ trở nên

cứng chắc mất khả năng di chuyển linh động, uyển chuyển, tạo điều kiện cho
thoái hóa cột sống. Những gai xương tạo nên do thoái hóa cột sống có thể
xuất hiện ở trong lỗ tiếp hợp và gây chèn ép rễ TK gây ĐTKT [9].
- Viêm đĩa đệm: do vi khuẩn đặc hiệu hoặc không đặc hiệu. Có 2 thể [51]:
+ Viêm đĩa đệm đơn độc: Có thể do vi khuẩn xâm nhập trực tiếp vào
đĩa đệm, thường xuất hiện sau các can thiệp như mổ đĩa đệm, tiêm thuốc vào
đĩa đệm. Có thể viêm nhiễm qua đường mạch máu do các mạch máu đĩa đệm
còn tồn tại ở trẻ em hoặc tái xuất hiện ở người già.
+ Viêm đĩa đệm – ĐS: thường xuất phát từ các viêm kế cận do lao. Gần
đây còn gặp viêm đĩa đệm ĐS ở bệnh nhân tiêm chích ma túy có HIV dương
tính [51].
- Các nguyên nhân khác:
+ U đĩa đệm: thường do di căn từ những khối u ổ bụng hoặc từ trung
thất, chưa thấy u đĩa đệm nguyên phát.


17

+ Vôi hóa và xương hóa đĩa đệm nguyên phát.
+ Chấn thương đĩa đệm.
+ Không có đĩa đệm.
1.3.2. Bệnh lý cột sống
1.3.2.1. Thoái hóa cột sống thắt lưng (lumbar spondylose)
Thoái hóa CSTL xuất hiện sớm hơn các giai đoạn khác của cột sống,
khởi đầu là thoái hóa đĩa đệm (thoái hóa nhân nhầy, nứt rách vòng sợi dẫn
đến xẹp hoặc lồi đĩa đệm rồi xơ hóa, can xi hóa đĩa đệm) và sau đó là thoái
hóa khớp ĐS [9], [45], [70], [71].
1.3.2.2. Dị dạng cột sống thắt lưng
Dị dạng cột sống thắt lưng bao gồm [9], [72], [73]:
- Dị dạng ĐS:

+ Cùng hóa thắt lưng 5: mỏm ngang L5 dính với cánh xương cùng tạo
nên khớp giả. Quá trình xơ hóa ở khớp giả này có thể dẫn đến chèn ép các rễ
L4, L5 đi qua gần đấy. Cùng hóa một bên có thể gây vẹo CSTL, mất cân bằng
động của áp lực đĩa đệm L5-S1 tạo điều kiện thoái hóa đĩa đệm và TVĐĐ.
+ Trượt ĐS: đôi khi có hội chứng rễ hoặc đuôi ngựa.
- Dị dạng ống sống thắt lưng:
+ Hẹp ống sống thắt lưng (hẹp ống tủy): có thể là bẩm sinh hoặc bị các
thành phần khác chèn ép vào khoang ống sống, làm giảm độ lớn của khoang
ống sống, dẫn đến chèn ép các rễ TK liên quan. Đây là một trong những
nguyên nhân gây ĐTKT.
Người ta chia ra hẹp ống sống bẩm sinh và mắc phải. Trên thực tế
thường gặp hẹp bẩm sinh bị các yếu tố mắc phải làm nặng lên (thoái hóa,
thoái hóa kèm theo TVĐĐ, trượt ĐS, sau phẫu thuật, sau chấn thương, phản
ứng xương ở các cạnh và khớp ĐS,…). Tùy theo vị trí hẹp mà chia ra hẹp


18

trung tâm hoặc hẹp bên. Hẹp ống sống ở phía bên biểu hiện bằng các cuống
ĐS bị ngắn lại, khối khớp phì đại và/hoặc một TVĐĐ bên.
+ Rộng ống sống thắt lưng: khi chiều rộng ống sống lớn hơn 50% chiều
rộng thân ĐS. Chứng rộng ống sống thường kết hợp với các thương tổn dị
dạng cục bộ ở xương cùng (gai đôi, cùng hóa) hoặc u mỡ xương cùng, u xơ
TK. Có khoảng 6% ĐTKT không do TVĐĐ là do các bất thường này gây nên
(theo Paletrac – Farrand)
- Dị dạng bao rễ TK.
1.3.2.3. Khối u cột sống
- Ung thư CSTL: Hiếm gặp ung thư nguyên phát ở thân ĐS, hầu hết là
do di căn từ nơi khác như: ung thư phế quản, vú, tuyến tiền liệt, tinh hoàn,
tuyến giáp, thường gặp ở bệnh nhân lớn tuổi.

- Khối u lành tính của cột sống: u xuất phát từ cung sau có thể chèn ép
rễ TK thắt lưng-cùng.
1.4. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG ĐAU THẦN KINH TỌA

Các triệu chứng của ĐTKT được biết đến từ thời Hyppocrat (460- 377
B.C), nhưng đó mới chỉ là mô tả mà chưa có sự hiểu biết rõ đến nguyên nhân
của bệnh. ĐTKT được đặc trưng bởi đau vùng thắt lưng- hông, lan xuống
mông, đùi, cẳng chân và bàn chân, có các đặc tính của đau rễ thần kinh.
Từ nhiều năm qua, có rất nhiều nhà khoa học đã đi sâu tìm hiểu những
triệu chứng liên quan đến CSTL như Lasègue, Schmorl, Neri, Bonet,… Đến
nay, các tác giả đã mô tả, phân tích, giải thích một cách chi tiết và thống nhất
tập hợp thành hai hội chứng chính là: hội chứng CSTL và hội chứng rễ TK
thắt lưng – cùng [9], [10], [41], [45], [62], [63], [64].
1.4.1. Hội chứng cột sống
- Có yếu tố khởi phát: đau vùng thắt lưng hông xuất hiện đột ngột sau
chấn thương hoặc vận động sai lệch của CSTL [10], [15], [25], [68], [69].


19

- Đau vùng thắt lưng hông có tính chất cơ học: tăng lên khi ho, hắt hơi,
rặn, vận động. Đỡ đau khi nằm nghỉ [30], [31].
- Biến dạng CSTL:
+ Mất ưỡn thắt lưng thường kèm theo co cứng phản xạ các cơ cạnh
sống thắt lưng.
+ Vẹo CSTL và tư thế chống đau, bệnh nhân đi nghiêng người về một bên.
+ Dấu hiệu “gập góc”: phản ánh cơ chế chống đau phản xạ của CSTL
khi có đoạn vận động bị thương tổn.
+ Gù có thể gặp gù nhọn hoặc gù trơn, gù nhọn do tổn thương nhiều
đoạn vận động.

- Có điểm đau cột sống và cạnh sống.
- Hạn chế tầm hoạt động của CSTL: hạn chế động tác gấp duỗi,
nghiêng, xoay CSTL. Bình thường tầm họat động của CSTL là: gập 110 độ,
duỗi 31 độ, nghiêng 20 độ, xoay 24 độ.
1.4.2. Hội chứng rễ thần kinh
Hội chứng rễ thần kinh có đặc điểm như sau [15], [25], [59], [60], [61]:
- Đau lan theo đường đi của dây TK tọa:
+ Nếu tổn thương rễ L5: đau CSTL lan xuống mông về phía sau ngoài
đùi, phần trước ngoài cẳng chân, vượt qua trước mắt cá ngoài tới mu chân, tận
hết ở ngón chân cái [28], [29].
+ Nếu tổn thương rễ S1: đau CSTL lan xuống mặt sau của đùi, mặt sau
cẳng chân, lan về phía gân Achille tới mắt cá ngoài, tận hết ở gan chân hoặc
bờ ngoài gan chân, phía các ngón chân út [30], [31].
- Tính chất đau kiểu cơ học (đau tăng khi gắng sức, giảm khi nghỉ ở tư
thế chống đau) nếu do TVĐĐ, đau kiểu viêm (đau âm ỉ, dai dẳng tăng về
đêm, không giảm khi nghỉ ngơi) nếu do viêm đĩa đệm- ĐS [28], [29].
- Có hội chứng chèn ép rễ TK: đau tăng khi gắng sức, khi vận động, khi ho.


20

- Các dấu hiệu kích thích rễ: dấu hiệu Lassegue dương tính, dấu hiệu
“bấm chuông”, điểm đau Valleix dương tính,… [45], [74], [75].
+ Dấu hiệu Lassegue: khi nâng từng chân lên cao dần, gối để duỗi
thẳng, bệnh nhân sẽ thấy đau và không thể nâng tiếp. Mức độ dương tính
được đánh giá bằng góc tạo giữa trục chi và mặt giường khi xuất hiện đau.
Dấu hiệu Lassegue bắt chéo còn có giá trị hơn khi nâng chân bên lành gây
đau bên có thoát vị [30], [31].
+ Dấu hiệu “bấm chuông”: Khi ấn điểm đau cạnh CSTL cách cột sống
khoảng 2cm, xuất hiện đau lan dọc theo khu vực phân bố của rễ TK tương ứng.

+ Điểm đau Valleix: dùng ngón tay cái ấn sâu vào các điểm trên đường
đi của dây TK, bệnh nhân thấy đau nhói tại chỗ. Gồm các điểm đau sau: giữa
ụ ngồi – mấu chuyển lớn, giữa nếp lằn mông, giữa mặt sau đùi, giữa nếp
khoeo, giữa cung cơ dép ở cẳng chân [28], [29], [45].
- Các dấu hiệu tổn thương rễ [76], [77] (bảng 1.1):
+ Giảm hoặc mất cảm giác
+ Bại hoặc liệt cơ
+ Giảm hoặc mất phản xạ
+ Rối loạn dinh dưỡng cơ (teo cơ), rối loạn TK thực vật (giảm tiết mồ
hôi, rối loạn dinh dưỡng da…)
+ Rối loạn cơ tròn (thương tổn rễ S3, S4, S5) nhưng hiếm gặp.
+ Giảm trương lực cơ
- Có thể có hội chứng hẹp ống sống:
+ Hội chứng rễ: đau các rễ TK khi đứng lâu hoặc khi đi, nhất là đi
xuông dốc gây nên triệu chứng “đau cách hồi TK” (bệnh nhân đau hai chi
dưới sau khi đi được một đoạn đường ngắn, phải nằm hoặc ngồi nghỉ cho đỡ
hoặc hết đau mới đi tiếp được). Đau bỏng rát, không có dấu hiệu chuột rút, có


21

thể có giảm cảm giác hoặc dị cảm khác, có thể kèm bại hai chân và rối loạn
cơ tròn. Khám mạch chi thấy mạch đập bình thường.
+ Hội chứng cột sống không có biểu hiện gì đặc trưng: có thể thấy bệnh
nhân đứng, đi hơi cúi người về phía trước, giảm độ ưỡn cong sinh lý và giảm
khả năng vận động của CSTL [30], [31].
Bảng 1.1. Triệu chứng định khu tổn thương các rễ thần kinh thắt lưngcùng trên lâm sàng.
Rễ TK bị
tổn thương
L1-L2

L3-L4

L5

Rối loạn cảm giác

Rối loạn vận động

Vùng bẹn và mặt trong Cơ thắt lưng- chậu

Rối loạn phản
xạ
Phản xạ đùi-

đùi
bìu
Mặt trước đùi, trước Cơ tứ đầu đùi, các cơ Phản xạ gối
trong cẳng chân
khép
Mặt ngoài đùi, trước- Các cơ trước ngoài
ngoài cẳng chân, mu cẳng chân (không thể
chân, ngón cái

đi trên gót chân, giảm

sức cơ duỗi ngón cái)
Mặt sau ngoài đùi, sau Các cơ duỗi khu sau Phản xạ gót
S1

ngoài cẳng chân, bờ cẳng chân (không thể

ngoài bàn chân, ngón đi kiễng chân)
út
Mặt sau trong đùi và Các cơ nhỏ ở bàn chân Phản

S2

S3, S4, S5

cẳng chân, gan chân

xạ da

(dạng, khép, gấp các gan chân

ngón)
Vùng “yên ngựa”, đáy Cơ thắt hậu môn và Phản xạ hậu
chậu

bàng quang

môn


22

Hình 1.7. Định khu tổn thương các rễ thần kinh thắt lưng- cùng [46].
1.5. CÁC PHƯƠNG PHÁP CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH

1.5.1. Chụp X quang quy ước cột sống thắt lưng
Với tư thế thẳng, nghiêng và chếch 3/4 là phương pháp đầu tiên, đơn

giản nhưng không thể thiếu đối với các bệnh nhân muốn khám xét cột sống
vùng thắt lưng. Trên phim chụp cột sống thẳng nghiêng có thể đánh giá được
các bất thường, bẩm sinh của cột sống như dị dạng cột sống, thoái hóa CSTL,
dính thân ĐS hay gai đôi [7], [11].
Phát hiện các thoái hóa ĐS như mô xương, gai xương hay vôi hóa dây
chằng dọc trước do thoái hóa cột sống dễ dàng được xác định trên các phim
chụp này. Hẹp lỗ tiếp hợp do thoái hóa được xác định trên các phim chụp


23

chếch 3/4 phải và trái. Phương pháp này có thể phát hiện được các hình ảnh
thoái hóa cột sống hoặc các hình ảnh nghi ngờ TVĐĐ bằng các hình ảnh mất
đường cong sinh lý, giảm chiều cao khoang liên đốt, xơ hóa diện thân đốt sát
đĩa đệm, canxi hóa đĩa đệm [3], [4].
1.5.2. Chụp bao rễ cản quang vùng thắt lưng
Là phương pháp đưa 8 - 10ml thuốc cản quang Omnipaque hay
lopamiron vào ống sống thắt lưng bằng cách chọc kim vào ống sống thắt lưng,
sau đó tiến hành chụp bốn phim (thẳng, nghiêng, chếch 3/4 phải và trái).
Phương pháp này có khả năng đánh giá được hình ảnh gián tiếp của
TVĐĐ bằng hình ảnh chèn ép ống sống.
- Trên phim nghiêng, thấy ranh giới cột cản quang với bờ trước và bờ
sau rõ, tận cùng của màng cứng ở mức S2 có hình chóp hoặc bầu dục. Bờ
trước bao rễ đi sát ngay các thân ĐS và các đĩa đệm. Khoang ngoài màng
cứng ở phía sau đĩa đệm L5-S1 rộng hơn các mức khác tới 2- 3mm.
- Trên phim chụp tư thế thẳng có thể thấy rõ các rễ đuôi ngựa chạy
trong khoang dưới nhện, thấy nơi đi ra khỏi bao rễ. Hướng đi, hình thể và
kích thước các rễ TK hai bên đối xứng nhau. TVĐĐ có thể cắt cụt một rễ TK
làm gián đoạn 1 tới 2 rễ cùng bên, ấn lõm cột cản quang từ một phía hoặc có
khi cả hai bên. Nặng hơn cả là hình ảnh cắt cụt toàn bộ bao rễ. Tuy nhiên,

phương pháp này không cho phép quan sát hình ảnh trực tiếp của đĩa đệm, vì
vậy không phân biệt được hình ảnh chèn ép do thành phần khác nhau như tổ
chức xơ sẹo hay u ống sống [4], [5], [11], [48].
1.5.3. Chụp khoang ngoài màng cứng trước ống sống
Tiêm thuốc vào khoang ngoài màng cứng trước ống sống (AnterioPeridurro- Graphy) được K.D Gaziev áp dụng từ năm 1956. Hiện nay,
phương pháp này ít được áp dụng vì ít có giá trị chẩn đoán định khu, chẩn


24

đoán mức độ tổn thương cũng như chẩn đoán phân biệt tổn thương, không
chính xác bằng phương pháp chụp bao rễ cản quang [3], [4], [6].
1.5.4. Chụp cắt lớp vi tính (CT - Scanner)
Là kỹ thuật chụp khá tốt cho TVĐĐ CSTL, đặc biệt tốt hơn khi áp
dụng sau khi chụp ống sống cản quang [36], [37].
Ưu điểm của phương pháp là đánh giá được các mỏ xương bờ sau thân
ĐS gây hẹp ống sống cũng như mỏ xương hay vôi hóa mảnh sống, khớp liên
mẩu gây hẹp lỗ tiếp hợp do nguyên nhân thoái hóa. Các dải vôi hóa dây chằng
dọc sau, vôi hóa dây chằng vàng có thể bộc lộ được trên các phim chụp cắt
lớp [36], [37].
Hạn chế của phương pháp là không phát hiện được hình ảnh thoái hóa
đĩa đệm giai đoạn chưa có thoát vị điển hình, không có khả năng đánh giá
được tất cả các mức đĩa đệm CSTL từ L1-L2 đến L5-S1, do vậy phải chụp cắt
ngang qua tất cả các đĩa đệm. Việc phân biệt giữa hình ảnh một thoái hóa
phình đĩa đệm với một thoát vị khu trú thể bên là rất khó [7], [11], [13].
1.5.5. Chụp cộng hưởng từ (MRI)
Phương pháp tạo ảnh CHT được Bloch và Purcell phát hiện năm 1945,
đến năm 1976- 1980, Mansfeild, Damadian và Hankes mới ghi được những
hình ảnh đầu tiên trên người.
Chụp CHT hiện nay là phương pháp rất tốt cho chẩn đoán thoát đĩa đệm

vì cho hình ảnh trực tiếp đĩa đệm cũng như rễ TK trong ống sống và rễ ngoại
vi. Ngoài ra CHT còn có khả năng quan sát ống sống hơn hẳn phương pháp
chụp tủy sống thường quy ở chất lượng ảnh ống tủy với độ phân giải cao,
không gian ba chiều, cho phép người thầy thuốc xem ống sống theo nhiều
hướng khác nhau nhờ sử dụng chương trình hình chiếu cường độ tối đa (MIP).
Chụp CHT là phương pháp chụp an toàn vì không có thủ thuật can
thiệp, không gây nhiễm xạ cho thầy thuốc và bệnh nhân. Phương pháp chụp


25

CHT mạch máu thay thế các phương pháp chụp mạch máu cột sống thông
thường cũng được ứng dụng rất có hiệu quả [21].
Thông thường, chụp CHT cột sống trong bệnh TVĐĐ chỉ sử dụng ba loại
xung cơ bản là SE T1W, FSE T2W cắt đứng dọc, FSE T2W cắt ngang. Trong
các thoát vị di trú cần phân biệt với các tổn thương di căn hay các tổn thương
viêm cần khám xét kĩ hơn và có thể tiêm thuốc đối quang từ để đánh giá, tổn
thương di căn sẽ ngấm thuốc còn ổ thoát vị thì không ngấm [14], [42], [43].
1.5.5.1. Giải phẫu hình ảnh cộng hưởng từ cột sống thắt lưng
* Hình ảnh thân ĐS:
Thường chứa hai thành phần chính, vỏ xương của thân đốt là viền
ngoài giảm tín hiệu trên ảnh T1W, phần tủy xương có tín hiệu cao hơn và
đồng nhất do có nhiều phân tử mỡ cả trên ảnh T2W và T1W. Tín hiệu trên
CHT được tạo thành do các bè xương chứa các tổ chức tạo máu và số lượng ít
chất lipid. Các thân ĐS sắp xếp cân đối và mềm mại theo đường cong sinh lý
[42], [43].
* Hình ảnh đĩa đệm:
Đĩa đệm là tổ chức đồng nhất tín hiệu ở giữa các thân ĐS với độ khá
đồng đều, xu hướng tăng dần cân đối từ trên xuống và hơi lồi ở phía trước
hơn phía sau. Đĩa đệm CSTL có chiều cao trung bình khoảng 9mm (L4-L5:

10mm). Đĩa đệm cột sống có 3 phần là bản sụn cuối, vòng xơ và nhân keo.
Bản sụn cuối là mặt tiếp giáp có tác dụng hấp thụ và chuyển lực giữa đĩa đệm
và thân ĐS, cũng như là mặt tiếp giáp giữa vùng có mạch và vùng vô mạch.
Bản sụn cuối gắn sát vào bờ xương của thân ĐS và giảm tín hiệu có màu đen
trên các ảnh sagital trên T1W và T2W [17], [21], [52], [53].
Trên ảnh T1W, đĩa đệm là tổ chức giảm tín hiệu và tăng tín hiệu trên
ảnh T2W do cấu trúc rất giàu phân tử nước. Bình thường các đĩa đệm có ranh


×