TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
---------------Q----------------
NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
TÌM HIẺU THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG • •
•
CHO HỌC SINH LỚP 3 THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN Tự NHIÊN
VÀ XÃ HỘI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TIỀU HỌC • • • • THUỘC
HUYỆN YÊN LẠC - TỈNH VĨNH PHÚC • • •
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục học
Người hướng dẫn khoa học Thạc sĩ Trịnh Thị Xinh
Hà Nội, 2015
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin được tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy (cô) trong Khoa Giáo dục Tiểu học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kiến thức
cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn tới
Xinh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong
cô giáo - Thạc sĩ Trịnh
suốt quátrình nghiên
Thị
cún và
thực hiện đề tài khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, do thòi gian có hạn và bước đầu làm quen với phương
pháp nghiên cứu khoa học nên không tránh khỏi những thiếu xót, rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy (cô) trong Khoa Giáo dục Tiểu học để đề tài của tôi được hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 7 tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thị Phượng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu căn cứ kết
quả có trong khóa luận là trung thực. Đe tài của tôi chưa được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Hà Nội ngày 7 thảng 05 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thị Phượng
MỤC LỤC
2.3.1.
2.3.2.
Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp dạy học trong giảo dục
CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN CỦA THựC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 3 THÔNG
QUA DẠY HỌC MÔN Tự NHIÊN VÀ XÃ HỘI Ở MỘT SỐ TRƯỜNG TIỂU HỌC
THUỘC HUYỆN YÊN LẠC - TỈNH VĨNH PHÚC............................................................53
2.2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHU LƯC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẤT
HS: học sinh GV: giáo viên KNS: kỹ năng sống NXB: nhà xuất bản
Phần I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luật giáo dục 2005 đã ghi rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học
sinh phát triển toàn diện về đạo dức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuấn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [Điều 27].
Đẻ đạt được mục tiêu này, các nhà trường tiểu học không chỉ quan tâm dạy chữ
mà còn phải dạy cho các em cách sống, cách làm người, hay nói cách khác là giáo dục
kĩ năng sống cho trẻ.
Vậy KNS là gì? KNS là năng lực cá nhân đế thực hiện đầy đủ các chức năng và
tham gia vào cuộc sống hàng ngày, giúp các em thích ứng được với sự thay đổi của xã
hội để có thể sống một cách an toàn và khỏe mạnh. KNS có vai trò vô cùng quan trọng
trong sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh, nó giúp các em chuyển tri thức,
tình cảm, niềm tin thành hành động thực tế mang tính tích cực xã hội, tính xây dựng,
đồng thời giúp các em có được những thành công trong học tập, lao động và rèn
luyện.
Giáo dục KNS chính là chúng ta hướng trẻ đến cuộc sống tích cực trong xã hội
hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen
tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng thích
hợp.
Đặc biệt trong xu thế hội nhập với một xã hội không ngừng biến đổi mạnh mẽ
và sâu sắc về mọi mặt của đời sống như hiện nay đòi hỏi con người phải thường xuyên
ứng phó với những thay đổi hàng ngày của cuộc sống, phải luôn vững vàng trước
những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù
họp, thì việc giáo dục KNS cho học sinh là việc làm cần thiết.
Học sinh tiếu học là những học sinh ở lứa tuối nhi đồng, các em mới đang hình
thành các giá trị nhân cách, các em giàu ước mơ, thích khám phá, tìm tòi, song còn
thiếu hiểu biết, chưa có kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động....Đẻ giúp các em
có được những kĩ năng cơ bản, sống một cách an toàn và khỏe mạnh thì việc giáo dục
KNS cho trẻ là vô cùng cần thiết. Từ đó tạo nền tảng vững chắc để các em hoàn thiện
nhân cách sau này.
Nội dung giáo dục KNS đã được tích họp trong một số môn học trong nhà
trường tiểu học và Tự nhiên và Xã hội là môn học có ưu thế. Cùng với kiến thức cơ
bản về con người, về tự nhiên xã hội, việc giáo dục KNS thông qua môn Tự nhiên và
xã hội sẽ góp phần không chỉ khắc sâu thêm các kiến thức của môn học mà còn hình
thành thái độ và hành vi tích cực, phù hợp, cần thiết giúp HS có thể ứng xử có hiệu
quả các tình huống thực tế trong cuộc sống.
Tuy nhiên không phải lúc nào việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông
qua môn học này cũng được quan tâm thực hiện theo đúng mục tiêu đã đặt ra. Nhận
thấy tầm quan trọng của giáo dục kĩ năng sống và tính cấp thiết của vấn đề nên tôi
quyết định chọn đề tài “Tìm hiểu thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
lóp 3 thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở một số trường Tiểu học
thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Kĩ năng sống và vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho con người đã xuất hiện và
được nhiều người quan tâm từ xa xưa như học ăn, học nói, học gói, học mở, học dăm
ba chữ để làm người, học để đối nhân xử thế, học để đối
phó với thiên nhiên. Đó là những kĩ năng đơn giản nhất mang tính chất kinh nghiệm, phù
họp với đời sống và giai cấp xã hội ở những điểm khác nhau. Nghiên cứu kĩ năng ở mức
độ khái quát, đại diện cho hướng nghiên cứu này có P.Ia.Galperin, V.A.Crutexki,
P.V.Petropxki,... P.Ia.Galperin trong công trình nghiên cứu của mình chủ yếu đi sâu vấn
đề hình thành tri thức và kĩ năng theo lí thuyết hình thành hành động trí tuệ theo giai
đoạn. Nghiên cứu kĩ năng ở mức độ cụ thể, các nhà nghiên cứu kĩ năng ở các lĩnh vực
hoạt động khác nhau như kĩ năng lao động gắn với những tên tuối các nhà tâm lí
-
giáo dục như V.V.Tseburseva, Trần Trọng Thủy; kĩ năng học tập gắn với G.X.Cochiuc,
N.A.Menchinxcaia, Hà Thị Đức; kĩ năng hoạt động sư phạm gắn với tên tuổi
X.I.Kixegops, Nguyễn Như An, Nguyễn Văn Hộ.
Kĩ năng sống có chủ yếu trong các chương trình hành động của UNESCO (Tổ
chức văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên Hợp Quốc), WHO (Tổ chức Y tế thế giới),
UNICEF (Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc) cũng như các chương trình hành động của các
tổ chức xã hội trong và ngoài nước... Ớ hướng nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu xây
dựng hệ thống kĩ năng của từng loại hoạt động, mô tả chân dung các kĩ năng cụ thể và
các điều kiện, quy trình hình thành và phát triển hệ thống các kĩ năng đó.. .Trong chương
trình này chỉ giới thiệu những kĩ năng cơ bản như: Kĩ năng nhận thức, kĩ năng giao tiếp,
kĩ năng xác định giá trị và kĩ năng ra quyết định.
Năm 1996, thuật ngữ kĩ năng sống được biết đến thông qua cách tiếp cận 4 trụ cột
trong giáo dục thế kỉ XXI: “Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để tự
khẳng định mình”. Sau đó, thuật ngữ này được đề cập đến trong chương trình của
UNICEF tại Việt Nam: “Giáo dục kĩ năng sống đế bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài trường”.
Khái niệm “Kĩ năng sống” thực sự được hiểu với nội hàm đa dạng sau hội thảo
“Chất lượng giáo dục và kĩ năng sống” do UNICEF, Viện chiến lược và chương trình
giáo dục tổ chức từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 10 năm 2003 tại Hà Nội. Từ đó người làm
công tác giáo dục ở Việt Nam đã hiếu đầy đủ hơn về kĩ năng sống.
Từ năm học 2002 - 2003 ở Việt Nam đã thực hiện đổi mới giáo dục phổ thông
(Tiểu học và Trung học cơ sở) trong cả nước. Trong chương trình Tiếu học đối mới đã
hướng đến giáo dục kĩ năng sống thông qua lồng ghép một số môn học có tiềm năng như:
Đạo đức, Tự nhiên-Xã hội (ở lớp 1-3) và môn Khoa học (ở lóp 4-5). Kĩ năng sống được
giáo dục thông qua một số chủ đề : “Con người và sức khỏe”, “Xã hội”. Đề tài cấp bộ của
Ts. Nguyễn Thanh Bình nghiên cứu về thực trạng kĩ năng sống cho học sinh và đề xuất
một số giải pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Năm 2005, nhóm các tác giả của Viện Chiến lược và chương trình giáo dục đã có
công trình nghiên cứu đầu tiên: “Giảo dục kĩ năng song ở Việt Nam”. Nội dung chương
trình đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản như: Các quan niệm về kĩ năng sống; cơ sở
pháp lý của giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam; giáo dục kĩ năng sống ở các bậc học; cách
thức giáo dục kĩ năng sống; đánh giá về giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam; những thách
thức và định hướng giáo dục kĩ năng sống trong tương lai. Đây là công trình nghiên cứu
quan trọng, làm cơ sở, nền tảng cho các công trình nghiên cứu tiếp theo về kĩ năng sống ở
Việt Nam.
Như vậy vấn đề giáo dục kĩ năng sống ở bậc tiểu học cũng đã được quan tâm
nhưng chủ yếu là tích hợp thông qua các môn học trong nhà trường, hay thông qua các
hoạt động ngoài giờ lên lớp. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh nói chung, cho học sinh tiểu học nói riêng. Ví dụ như một số
công trình sau:
1. Nguyễn Thanh Bình: Giáo trình chuyên để giảo dục kĩ năng song. NXB Đại Học Sư
Phạm, 2009.
2. Các báo cáo tại Hội thảo về giáo dục kĩ năng sống ở khu vực Châu Á Thái Bình
Dương tổ chức vào tháng 10 năm 2003 tại BangKok - Thái Lan.
3. UNESCO: Kĩ năng song - cầu noi tới khả năng con ngưòi. Tiếu ban giáo dục.
UNESCO - 2003.
4. Nguyễn Đức Thạc: Rèn luyện lã năng sổng cho học sinh - một cách tiếp cận về chất
lượng, hiệu quả giảo dục. Tạp chí giáo dục số 226 (kì 2- 11/2009), tr. 52.
5. Nguyễn Thị Thu Hằng: Một sổ vấn để về giáo dục kĩ năng sổng cho học sinh tiểu
học. Tạp chí giáo dục số 204 (kì 2 - 12/2008), tr. 15.
6. Phan Thanh Vân: Giảo dục kĩ năng song - Điều cần cho trẻ. Tạp chí giáo dục số 225
(kì 1 - 11/2009). Tr.23.
7. Nguyễn Quang uấn: Khải niệm kĩ năng sống xét theo góc độ tâm lí học. Tạp chí tâm
lí học, số 6 (111), 6 - 2008.
8. Nguyễn Thị Hường: Giảo dục song khỏe mạnh và kĩ năng sổng trong dạy học Tự
nhiên - Xã hội ở Tiếu học. Tài liệu đào tạo giáo viên tiếu học trình độ đại học,
2007.
Nhìn chung giáo dục KNS cho con người nói chung, cho học sinh nói riêng đã được
nhiều tác giả quan tâm khai thác và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Song chưa
có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3
thông qua môn Tự nhiên và Xã hội
ở một số trường Tiểu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc, nên tôi quyết định
chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiếu thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội ở một số trường tiểu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh
Vĩnh Phúc, đồng thời tìm ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
4. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3.
5. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trong phạm vi 3 trường tiểu học Trung Kiên, Trung Hà và Hồng
Phương, thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Giả thuyết khoa học
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đã được chú trọng thực hiện tuy nhiên
hiệu quả của nó chưa cao. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên đó là: do nhận
thức của giáo viên, do phương tiện dạy học chưa đảm bảo, do sử dụng phương pháp
chưa hợp lí, hình thức tố chức các hoạt động dạy học chưa phù hợp...
Nhưng nếu chúng ta tìm ra được nguyên nhân và tìm ra cách khắc phục những
nguyên nhân đó, từ đây ta có thể đề xuất ra những biện pháp phù hợp đế nâng cao
hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và Xã hội nói riêng, giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh lớp 3 nói chung.
8. Nhiệm yụ nghiên cứu của đề tài
-
Tìm hiểu cơ sở lí luận về giáo dục kĩ năng sống.
-
Tìm hiểu thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy học môn
Tự nhiên và Xã hội ở một số trường Tiếu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
-
Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh lóp 3 thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở một số
trường Tiểu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
9. Phương pháp nghiên cứu
-
Phương pháp nghiên cứu lí luận.
-
Phương pháp quan sát.
-
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi.
-
Phương pháp phỏng vấn.
-
Phương pháp thống kê toán học.
10. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, phần Ket luận và Tài liệu tham khảo nội dung chính của
khóa luận bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội ở một số trường tiểu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh
Vĩnh Phúc.
Chương 3: Nguyên nhân của thực trạng và một số biện pháp
nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
lớp 3 thông qua dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở một số
trường Tiểu học thuộc huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
Phần II: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN
1.1.Một số khái niệm cơ bản trong việc giáo dục KNS cho học sinh tiểu học
1.1.1.
Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng là năng lực thực hiện một hành động hay một hoạt động nào đó
bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, cách thức hành động đúng đắn để đạt được
mục đích đề ra.
1.1.2.
Khái niệm kĩ năng sắng
Khi nói về kĩ năng sống có rất nhiều quan niệm khác nhau, một số tổ chức
quốc tế đã định nghĩa khái niệm kĩ năng sống như sau:
- Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên họp quốc (UNESCO) quan niệm: Kĩ
năng sống là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc
sống hàng ngày - đó là những kĩ năng cơ bản như: kĩ năng đọc, viết, làm tính...
(UNESCO: Kĩ năng sổng - cầu nổi tới khả năng con người. Tiếu ban giáo
dục UNESCO 2003).
-Tổ chức Y tế thế giới (WHO) quan niệm: Kĩ năng sống là những kĩ năng thiết thực mà con
người cần để có cuộc sống an toàn, khỏe mạnh. Đó là những kĩ năng mang tính tâm lí xã
hội và kĩ năng giao tiếp được vận dụng trong những tình huống hàng ngày để tương tác một
cách hiệu quả với người khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống
của cuộc sống hàng ngày.
(Chu Shiu Kee - Understanding Life Swkijlls, Báo cáo tại hội thảo “Chất
lượng giáo dục kĩ năng sống ”, Hà Nội 23-25/10/2003).
- Thuyết hành vi quan niệm: Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến
những tri thức, những giá trị và những thái độ - là những hành vi làm cho các cá nhân có thể
thích nghi và giải quyết có hiệu quả các yêu cầu và thách thức của cuộc sống.
(Lục Thị Nga: Tích hợp dạy kĩ năng sổng cho học sinh tiếu học qua môn
Khoa học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. NXB Giáo Dục Việt Nam, 2009, tr.10).
-
Các quan niệm khác: Tương đồng với quan niệm của Tổ Chức Y tế thế giới (WHO), còn có
quan niệm kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội liên quan đến những tri thức, những
giá trị và thái độ, cuối cùng được thế hiện ra bằng những hành vi giúp cá nhân giải quyết có
hiệu quả các yêu cầu, các thách thức đặt ra của cuộc sống và thích nghi với cuộc sống.
(Nguyễn Thanh Bình. Giảo trình chuyên để giảo dục lã năng sổng. NXB
Đại Học Sư Phạm, 2009)
1.1.3.
Khái niệm học sinh tiếu học
Học sinh tiểu học là trẻ ở độ tuổi từ 6 - 11 tuổi, đang theo học chương trình
tiểu học từ lớp 1 - lớp 5 tại các trường tiểu học trong hệ thống giáo dục Việt Nam.
1.1.4.
Quan niệm giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục kĩ năng sống là hình thành cách sống tích cực trong xã hội hiện
đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đối những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, thái độ, kĩ năng thích hợp.
1.2.Phân loại kĩ năng sống
1.2.1.
Các nhóm kĩ năng sống từ góc độ xã hội
-
Kĩ năng nhận thức bao gồm các kĩ năng cụ thể như tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, ra quyết định, xác định mục tiêu, định hướng giá trị...
-
Kĩ năng đương đầu với cảm xúc bao gồm: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế căng
thẳng, kiểm soát được cảm xúc, kĩ năng tự điều chỉnh....
- Kĩ năng xã hội hay kĩ năng tương tác như: giao tiếp thương thuyết, từ chối, hợp tác,
chia sẻ, khả năng nhận thấy sự chia sẻ của người khác.
1.2.2.
Các nhóm kĩ năng sống từ góc độ giáo dục giá trị (UNESCO)
-
Các vấn đề về vệ sinh, vệ sinh thực phẩm, sức khỏe, dinh dưỡng.
-
Các vấn đề về phòng chống HIV/AIDS, chống ma túy, rượu, thuốc lá...
-
Các vấn đề về giới, giới tính, sức khỏe sinh sản.
-
Các vấn đề về thiên nhiên, môi trường, rủi ro, bạo lực...
-
Các vấn đề về gia đình, cộng đồng...
-
Hòa bình và giải quyết xung đột.
-
Giáo dục công dân.
-
Bảo vệ thiên nhiên và môi trường.
-
Phòng tránh buôn bán trẻ em và phụ nữ.
1.2.3.
Các nhóm kĩ năng sống từ góc độ giáo dục hành vi xã hội (UNICEF)
- Các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình (kĩ năng tự nhận thức, kĩ
năng tự trọng, kĩ năng kiên định, kĩ năng ứng xử với cảm xúc, kĩ năng đương đầu với căng
thẳng).
- Những kĩ năng nhận biết và sống với người khác (kĩ năng quan hệ/tương tác liên
nhân cách, kĩ năng cảm thông, kĩ năng đứng vững trước áp lực một cách nhanh chóng nhất,
kĩ năng thương lượng).
- Các kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả (tư duy phê phán, tư duy sáng tạo,
giải quyết vấn đề, ra quyết định...).
1.2.4.
Các nhóm kĩ năng sống theo những quan điếm khác nhau
- Kĩ năng giao tiếp liên nhân cách như: giao tiếp bằng lời nói, giao tiếp không
lời, kĩ năng biếu hiện cảm xúc, kĩ năng lắng nghe và kĩ năng xin lỗi.
- Kĩ năng thương lượng và từ chối bao gồm: kĩ năng thương lượng và kiềm chế xung
đột, kĩ năng từ chối, kĩ năng họp tác và làm việc theo nhóm...
-
Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề gồm: kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng phân
tích, kĩ năng thực hành để đạt được kết quả.
-
Các kĩ năng tư duy tích cực: kĩ năng nhận biết thông tin và lĩnh hội nguồn thông tin thích
ứng.
-
Các kĩ năng phát triển và kiểm soát nội tâm gồm: kĩ năng xây dựng tự tin và lòng tự trọng,
các kĩ năng tự nhận thức bản thân bao gồm: nhận thức về quyền lợi, nghĩa vụ, điểm mạnh,
điểm yếu của bản thân, các kĩ năng ấn định mục tiêu.
-
Các kĩ năng kiềm chế cảm xúc: sự kiềm chế tức giận, xử lí trạng thái bồn chồn, kĩ năng xử
lí với trạng thái mệt mỏi, các kĩ năng kiềm chế trạng thái căng thẳng như: tư duy tích cực,
lạc quan và các phương pháp thư giãn.
Việc phân loại kĩ năng sống chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc vào khía cạnh xem
xét và đặc thù của từng quốc gia. Mặt khác bởi vì các kĩ năng này có mối liên hệ mật thiết
với nhau, đan xen và bổ sung cho nhau. Nhờ đó con người có thể ứng phó linh hoạt và hiệu
quả đối với những nguy cơ và vấn đề khó khăn trong cuộc sống hàng ngày.
1.3.Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học
Mục tiêu 3 của Chương trình Hành động Dakar về Giáo dục cho mọi người đã yêu
cầu các nước phải đảm bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng
sống phù hợp. Bởi vì, có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo 50% sự thành công,
50% còn lại là những kĩ năng sống.
Giáo dục kĩ năng sống là cầu nối giúp con người biến kiến thức thành những hành
động cụ thể, những thói quen lành mạnh. Người có kĩ năng sống là những người luôn vững
vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và
phù họp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống
của chính mình.
Đối với trẻ việc giáo dục kĩ năng sống có tầm quan trọng đặc biệt và vô cùng cần thiết
bởi lẽ:
- Các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết
định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Neu không có kĩ năng sống, các em sẽ
không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
- Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành về nhân cách, tâm sinh lý của trẻ phát
triển rất nhanh chóng. Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về thể chất, thì óc tò mò, xu thế
thích những cái mới lạ, thích được tự khẳng định mình, thích làm người lớn, dễ hành động
bột phát, nhu cầu giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi... cũng phát triển. Do thiếu kinh nghiệm
sống và suy nghĩ còn nông cạn, cảm tính nên các em có thể ứng phó không lành mạnh trước
những áp lực trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là áp lực tiêu cực từ bạn bè và người xấu
như: sa vào các tệ nạn xã hội, phạm pháp, tự vẫn, hoặc có những hành vi bạo lực với người
khác.
- Ngày nay sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực xã hội cũng có tác động lớn
đối với trẻ chưa thành niên. Bên cạnh những mặt tích cực, thì những ảnh hưởng tiêu cực của
cơ chế thị trường, của sự bùng nổ thông tin, của sự du nhập lối sống thực dụng... đã tác
động mạnh mẽ đến các em. Neu không được trang bị các kĩ năng sống cần thiết và có bản
lĩnh vững vàng thì các em dễ trở thành nạn nhân của tình trạng lạm dụng hay bạo lực, căng
thẳng, mất lòng tin, mặc cảm. Mất lòng tin, sự mặc cảm làm các em không muốn tìm kiếm
sự giúp đỡ tích cực của bạn bè cùng lứa tuổi hay của người lớn mà hành động theo cảm tính
của mình.
- Những thay đổi nhanh chóng về kinh tế - xã hội cũng ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc
sống gia đình - tế bào của xã hội. Do đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triến của
trẻ em. Một gia đình mải mê với công việc của mình không có điều kiện để quan tâm, chăm
sóc con cái một cách đầy đủ, nhất là về mặt tinh thần, khiến nhiều trẻ rơi vào tình trạng bị
xao nhãng, bị bỏ rơi. Ở một số gia đình thiếu sự hiểu biết, chia sẻ lẫn nhau giữa cha mẹ và
con cái dẫn đến những hiểu lầm, căng thẳng và trẻ tìm đến bạn bè mà chúng cho là có thể
tìm lời khuyên. Một số trẻ em do gia đình khó khăn phải lang thang kiếm sống phụ giúp gia
đình. Tỉ lệ ly hôn gia tăng, bạo lực gia đình, bố mẹ vướng vào các tệ nạ xã hội... đã khiến
nhiều trẻ em bị bỏ rơi, bị khủng hoảng tinh thần một cách nặng nề.
Do đó, việc giáo dục kĩ năng sống là hết sức quan trọng và cần thiết để giúp trẻ rèn
luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và cộng đồng, có khả năng ứng phó
tích cực trước sức ép của cuộc sống và sự lôi kéo thiếu lành mạnh của bạn bè cùng trang
lứa, phòng ngừa những hành vi có hại cho sức khỏe thế chất và tinh thần của các em, giúp
các em biết lựa chọn cách ứng xử phù họp trong các tình huống của cuộc sống, nó giúp tăng
cường khả năng tâm lý xã hội của các em, khả năng thích ứng và giúp các em có cách thức
tích cực để đối phó với những thách thức trong cuộc sống.
Như vậy, giáo dục kĩ năng sống có tầm quan trọng đặc biệt trong công tác giáo dục.
Bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà UNESCO đưa ra thực chất cũng là tiếp cận kĩ năng
sống, nêu lên những vấn đề chủ chốt mà mỗi các nhân cần được trang bị để có một cuộc
sống tốt đẹp cả về vật chất và tinh thần, đó là: “Học để biết, học để làm, học để khẳng định
mình và học để cùng chung sống”. Nhất là trong thời điểm hiện nay ngành giáo dục đang
gấp rút chuẩn bị cho đề án đổi mới toàn diện giáo dục. Chương trình mới được tiếp cận theo
hướng hình thành và phát triển năng lực cho người học, không chạy theo khối lượng tri thức
mà chú ý khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, động cơ...
vào giải quyết các tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Lúc này việc giáo dục kĩ năng
sống cho trẻ được đặt lên hàng đầu để nhằm đáp ứng được mục tiêu giáo dục và nhu cầu xã
hội.
1.4.Nội dung, nguyên tắc, phương pháp, con đường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
tiểu học
1.4.1.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiếu học thông qua môn Tự
nhiên và Xã hội
Môn Tự nhiên và Xã hội là một trong những môn học phù hợp để giáo dục kĩ năng
sống cho các em học sinh. Môn học giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về
con người và sức khỏe, về một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên xã hội; chú
trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập như quan sát, nêu nhận
xét, thắc mắc, đặt câu hỏi và diễn đạt hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn
giản trong tự nhiên và trong xã hội. Đặc biệt môn học giúp học sinh xây dựng các quy tắc
giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng; yêu gia đình, quê hương, trường
học và có thái độ thân thiện với thiên nhiên.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua môn Tự nhiên và
Xã hội gồm các kĩ năng sau:
-
Kĩ năng tự nhận thức: Tự nhìn nhận, đánh giá về bản thân để xác định được mặt mạnh, mặt
yếu của bản thân; biết vị trí của mình trong các mối quan hệ ở nhà, ở trường và ở cộng
đồng.
-
Kĩ năng tự phục vụ và tự bảo vệ'. Biết cách tự phục vụ: rửa mặt, đánh răng, tắm; tự bảo vệ
chăm sóc sức khỏe của bản thân liên quan đến các vấn đề vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường, dinh dưỡng, phòng bệnh và an toàn ở nhà, ở trường, ở nơi công cộng.
-
Kĩ năng ra quyết định’. Nên và không nên làm gì để bảo vệ sức khỏe của bản thân; để ứng
xử phù hợp trong gia đình, nhà trường và cộng đồng; để bảo vệ môi trường.
- Kĩ năng kiên định và kĩ nẫng từ chối: Kiên quyết giữ vững lập trường và nói lời
từ chối trước những lời rủ rê của bạn bè và người xấu; không tham gia vào những việc làm,
hành vi mang tính tiêu cực.
- Kĩ năng làm chủ bản thân: Biết đảm nhận trách nhiệm, cam kết thực hiện công
việc và biết ứng phó với căng thẳng trong những tình huống của cuộc sống một cách tích
cực.
- Kĩ nãng giao tiếp: Tự tin khi giao tiếp; lắng nghe tích cực; phản hồi xây dựng; bày
tỏ sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè trong lớp, trường, những người có hoàn cảnh khó
khăn.
- Kĩ năng hợp tác: Khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng
chung sức làm việc có hiệu quả với những thành viên khác, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong
một công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung.
- Kĩ năng tư duy phê phán: biết phê phán, đánh giá các ý kiến, hành động, lời nói,
việc làm, các hiện tượng trong đời sống hàng ngày.
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lỉ thông tin: Biết tìm kiếm và xử lí thông tin đế giải quyết
vấn đề trên cơ sở vận dụng tư duy phê phán và sáng tạo.
1.4.2.
Nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
1.4.2.1. Tương tác
KNS không thể được hình thành chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải
thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng và tự đọc tài liệu chỉ
giúp HS thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Nhiều KNS được hình thành trong quá
trình HS tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh (kĩ năng thương lượng, kĩ
năng giải quyết vấn đề...) thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong nhà
trường. Trong khi tham gia các hoạt động có tính tương tác, học sinh có dịp thể hiện các ý
tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh
nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các
hoạt động có tính chất tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục
KNS hiệu quả.
7.4.2.2. Trải nghiệm
KNS chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế.
HS chỉ có kĩ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói việc đó. Kinh nghiệm có
được khi HS được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và
điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế.
Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho
HS có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống
của chính mình và người khác.
1.4.2.3. Tiến trình
Giáo dục KNS không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có
cả quá trình: nhận thức - hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi
yếu tố có thể là khởi đầu của một chu trình mới. Do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất
kì mắt xích nào trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận
thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
1.4.2.4. Thay đôi hành vi
Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng
tích cực. Giáo dục KNS thúc đấy người học thay đối hay định hướng lại các giá trị, thái độ
và hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở từng con người là một quá
trình khó khăn, không đồng thời. Có thời điểm người học lại quay trở lại những thái độ,
hành vi hoặc giá trị trước. Do đó, các nhà giáo dục cần kiên trì chờ đợi và tố chức các hoạt
động liên tục đế HS duy trì hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho HS điều
chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận
các giá trị, thái độ và hành vi mới. Giáo viên không nhất thiết phải luôn luôn tóm tắt bài
“hộ” HS, mà cần tạo điều kiện cho HS tự tóm tắt những ghi nhận cho bản thân sau mỗi giờ
học/phần học.
1.4.2.5 Thời gian - môi trường giảo dục
Giáo dục KNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối
với trẻ em. Môi trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho HS áp dụng kiến thức và
kĩ năng vào các tình huống “thực” trong cuộc sống.
Giáo dục KNS được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người
tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, là thầy cô, là bạn cùng học hay các thành viên cộng
đồng. Trong nhà trường phổ thông, giáo dục KNS được thực hiện trên các giờ học, trong
các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lóp
và các hoạt động giáo dục khác.
1.4.3.
Một so phương pháp dạy học tích cực
Các phương pháp tạo sự tương tác và vai trò tham gia của người học trong
việc học và thực hành kĩ năng được ghi nhận qua kinh nghiệm của nhiều quốc gia là thiết
thực và có ý nghĩa quyết định trong các chương trình giáo dục KNS. Nó vận dụng nguyên
tắc lấy người học làm trung tâm, dựa vào kinh nghiệm sống và nhu cầu của người học. Đây
là các phương pháp học tập chủ động: động não, thảo luận nhóm, đóng vai, nghiên cứu tình
huống, kể chuyện, trò chơi....
Một số phương pháp dạy học tích cực như:
1.4.3.1.Phương pháp thảo luận nhóm
- Bản chất: về bản chất, phương pháp này là tổ chức cho trẻ bàn bạc, trao đổi trong nhóm
nhỏ về một chủ đề xác định.
-Ưu, nhược điềm:
+ Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi trẻ tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho họ có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến
giải quyết một vấn đề có liên quan đến cuộc sống. Thảo luận nhóm còn rèn cho trẻ kĩ năng
giao tiếp trong học tập, thoải mái, tự tin trong việc trình bày ý kiến của mình, biết lắng
nghe có phê phán ý kiến của các thành viên khác.
+ Tuy nhiên, nếu tổ chức không tốt thì giờ học sẽ ồn ào, một số người sẽ ỷ nại vào
người khác, dễ làm mất thời gian.
-
Cách tiến hành:
Thảo luận nhóm có thể tiến hành theo các bước:
+ Chia nhóm (có thể chia nhóm bằng cách gọi số, dùng biểu tượng hoặc màu
s ắ c . . g i a o nhiệm vụ cho các nhóm, quy định thời gian thảo luận, phân công vị trí ngồi
thảo luận cho các nhóm.
+ Tiến hành thảo luận nhóm: các nhóm tiến hành thảo luận để hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
+ Đại diện các nhóm báo cáo kết quả làm việc của mình, các nhóm khác lắng nghe, trao
đổi, bổ sung ý kiến.
1.4.3.2.
-
Phương pháp động não
Bản chất: Là phương pháp giúp cho người học trong một khoảng thời gian ngắn nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Phương pháp này có thể dùng
cho cả câu hỏi có phần kết đóng và kết mở.
-
Ưu, nhược điêm:
+ Đây là phương pháp có thể thu thập được nhiều ý kiến nhất, nhiều thông tin từ nhiều
người nhất trong thời gian ngắn nhất.
+ Tuy nhiên, nếu giáo viên không nắm vững cách tiến hành sẽ biến thành phương pháp
thảo luận hoặc hỏi đáp.
-
Cách tiến hành:
+ Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm.
+ Khuyến khích người học đóng góp ý kiến (bằng lời hoặc ghi ra giấy nhỏ) càng nhiều
càng tốt.
+ Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc giấy to, không loại trừ ý kiến nào, trừ trường
hợp trùng lặp.
+ Phân loại các ý kiến của người học.
+ Làm sáng tỏ các ý kiến chưa rõ ràng.
+ Tổng hợp ý kiến của người học, hỏi xem có thắc mắc hay bổ sung gì không.
1.4.3.3. Phương pháp đóng vai
- Bản chất: Là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng
xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương pháp nhằm giúp người học suy
nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một cách ứng xử cụ thể mà họ quan sát
được. Việc “diễn” không phải là phần chính của phương pháp này, mà điều quan trọng hơn
là sự thảo luận phần diễn ấy.
-Ưu, nhược điềm:
+ Người học được rèn luyện, thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong
môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
+ Gây hứng thú, chú ý cho người học.
+ Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của người học theo hướng tích cực.
+ Có thế thấy ngay tác động và hiếu quả của lời nói hoặc việc làm của các diễn viên.
Tuy nhiên phương pháp này cũng có những nhược điếm như:
+ Đòi hỏi người học phải mạnh dạn, sáng tạo.
+ Dễ gây cười cho cả người diễn và người xem và không quan tâm được hết diễn biến,
cách giải quyết tình huống của các nhân vật.
-
Cách tiến hành:
Có thể tiến hành đóng vai theo các bước:
+ Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các tình huống và các đồ dùng cần thiết.
+ Chia nhóm, giao tình huống, giải thích nhiệm vụ của các nhóm, quy định thời gian
thảo luận, thế hiện vai của mỗi nhóm.
+ Các nhóm tiến hành thảo luận: phân công các vai, thảo luận cách thức thể hiện.
+ Các nhóm lên thế hiện đóng vai các tình huống.
+ Cả lớp nhận xét (về vai diễn, cách xử lí tình huống...)
+ Giáo viên đưa ra kết luận chung.
1.4.3.4.
-
Phương pháp trò chơi
Bản chất: Là cách thức tổ chức cho người học tiến hành một trò chơi nào đó để tìm hiểu
một vấn đề hoặc được bày tỏ thái độ hay hành vi,việc làm phù hợp trong một tình huống cụ
thể.
-
Ưu, nhược điểm:
Phương pháp trò chơi có những ưu điểm sau:
+ Qua trò chơi người học có cơ hội thể nghiệm những thái độ, hành vi của mình. Chính
nhờ sự thế nghiệm này mà hình thành ở họ niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo
ra động cơ bên trong cho những hành vi, ứng xử trong cuộc sống.
+ Thông qua trò chơi, người học sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho
mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi.
+ Gây hứng thú học tập cho người học, tạo không khí sôi nổi tự nhiên, giúp người học
tiếp nhận những nội dung giáo dục một cách nhẹ nhàng, sinh động và có hiệu quả cao.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có một số hạn chế như: nếu tổ chức không tốt sẽ dễ
làm mất thời gian, ảnh hưởng đến hoạt dộng tiếp theo của tiết học.
- Cách thức tiến hành:
Trò chơi có thế tiến hành theo các bước sau:
+ Lựa chọn trò chơi: trên cơ sở, mục tiêu, nội dung giáo dục mà giáo viên lựa chọn trò
chơi cho phù hợp. Trên cơ sở đó, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho trò chơi.
+ Giới thiệu và giải thích trò chơi: giới thiệu và giải thích trò chơi phải ngắn gọn, dễ
hiểu để người học hiểu rõ cách chơi, luật chơi.
+ Tiến hành chơi: Có thể tiến hành chơi theo từng cá nhân, đại diện các đội, các nhóm
chơi hoặc cả lớp tùy thuộc vào nội dung chơi. Để tạo không khí sôi nổi cần có sự cổ động
viên, cổ vũ của nhiều người. Giáo viên (hoặc đại diện học sinh) làm trọng tài theo dõi trò
chơi để có những nhận xét, đánh giá khách quan.
+ Ket thúc trò chơi: Cả lớp nhận xét đánh giá kết quả chơi, trên cơ sở có giáo viên nhấn
mạnh những điếm cần lưu ý qua trò chơi.
1.4.4.
Các con đường giáo dục kĩ năng sống
Đe giáo dục KNS cho học sinh tiểu học cần có các con đường giáo dục chủ
yếu:
-Tổ chức dạy học trên lóp theo hướng lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục KNS trong
chương trình dạy học, giáo dục HS với các môn học có ưu thế.
-Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp tích hợp nội dung giáo dục KNS. -Tổ chức
các hoạt động sinh hoạt tập thể thông qua đó giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
Mỗi con đường đều có tác dụng, ưu thế nhất định trong việc giáo dục KNS cho học
sinh tiểu học.
1.4.4.1. Tô chức dạy học trên lớp theo hướng lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục KNS
trong chương trình dạy học, giảo dục HS với các mồn học cỏ ưii thế
Hoạt động giáo dục trên lớp là hoạt động giữ vai trò chủ đạo, quan trọng ở các
trường học hiện nay. Tùy theo nội dung, chương trình của từng môn học, từng loại hình
hoạt động, giáo viên có thể lựa chọn các KNS có thể tích hợp lồng ghép một cách thích
hợp, vừa sức với tuổi HS tiểu học, tránh khiên cưỡng và quá tải trong giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh. Giáo viên có thể lựa chọn hình thức kết hợp giáo dục trong giảng dạy thông
qua các môn học chiếm ưu thế và liên quan trong giáo dục kĩ năng sống như môn: Tự nhiên
và Xã hội, Đạo đức, Tiếng Việt, giáo viên có thể tiến hành giáo dục KNS cho HS. Giáo viên
cần thiết kế chu đáo các bài tập tình huống về KNS để lồng ghép, rèn luyện KNS cho người
học. Thông qua việc giáo dục tích hợp, HS sẽ hứng thú, thoải mái, hưng phấn, nhẹ nhàng,
tự nhiên... trong việc tiếp thu những KNS được tích hợp. Việc tích hợp giáo dục này sẽ làm
tăng chất lượng giảng dạy của môn học và đặc biệt hoạt động giáo dục, sẽ có hiệu quả cao
bởi khả năng chỉ được hình thành thông qua hoạt động và bằng hoạt động, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục và hình thành, phát triển nhân cách học sinh
một cách toàn diện.
Tổ chức dạy học trên lớp theo hướng lồng ghép, tích hợp nội dung giáo dục KNS
trong chương trình dạy học, giáo dục HS thông qua dạy học trên lớp với các môn học có ưu
thế không chỉ thực hiện được các mục tiêu vốn có của bài học gắn với môn học mà còn giúp
học sinh hiếu, trải nghiệm được các KNS gắn với bài học, trên cơ sở đó học sinh tiểu học
hình thành được các kĩ năng của mình. Như vậy, ta thấy hoạt động dạy học trên lớp là điều
kiện và con đường tốt nhất để phát triển KNS cho học sinh tiểu học.
Yêu cầu trong việc lồng ghép, tích hợp giáo dục KNS phải không làm ảnh hưởng tới
việc thực hiện mục tiêu, nội dung, chương trình môn học cũng như nội dung hoạt động giáo
dục cho HS. Giáo viên phải có năng lực, kỹ năng thiết kế bài giảng theo hướng lồng ghép,
tích họp; biết xác lập các mục tiêu của bài giảng và nội dung giáo dục KNS dự kiến đưa
vào; xác định phù họp các nội dung giáo dục KNS tích hợp vào nội dung bài học có ưu thế;
giáo viên phải có kĩ năng, kiến thức sâu và rộng, nghiệp vụ sư phạm vững vàng. Đặc biệt
phải phát huy được tính tích cực của học sinh, học sinh cần có thái độ, hứng thú tích cực đối
với các môn học và những nội dung giáo dục KNS được tích họp trong bài học. Những kiến
thức lồng ghép, tích hợp trong bài học có ưu thế cho học sinh tiếu học cần đơn giản dễ hiểu,
gắn với đặc thù địa phương và thói quen vùng miền phù hợp với học sinh tiểu học.
Khi đánh giá kết quả môn học và kết quả hoạt động giáo dục tích hợp, giáo viên cần
xây dựng tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục lồng ghép KNS và cần phản hồi thông tin tới
người học, tới phụ huynh về KNS của HS.
1.4.4.2.
Tô chức hoạt động giảo dục ngoài giờ lên lớp tích hợp nội dung giảo dục kĩ năng
sổng
Ngoài việc tích hợp giáo dục KNS thông qua việc giảng dạy các môn học có ưu thế,
còn có các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Hoạt động này gắn bó
chặt chẽ với các hình thức giáo dục qua dạy học giúp học sinh không những củng cố, mở
rộng những tri thức mà còn hình thành được thái độ tình cảm, rèn luyện được hành vi, kĩ
năng thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp như thi tìm hiểu, thuyết trình theo
chủ đề, xử lý tình huống, các hoạt động tham quan dã ngoại, xâm nhập thực tế sẽ giúp cho
học sinh tiếp cận với thực tế, đi sâu vào một chủ đề và làm quen với các tình huống thực
tiễn trong đời sống. Những hoạt động này thường thu hút và gây hưng phấn cho HS, tạo
điều kiện để HS thực hành và tăng cường những kĩ năng sống theo những cách thức phù
hợp với từng nhóm đối tượng và từng vùng. Trên cơ sở đó, HS sẽ tiếp thu nhanh, vững
chắc, ấn tượng với kiến thức được giáo dục. Vì vậy, giáo viên cần kết hợp lồng ghép việc
giáo KNS với các hoạt động ngoài giờ lên lớp một cách thích hợp và hiệu quả. Trong các