Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

CÔNG NGHIỆP HÓA GẮN LIỀN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.48 KB, 4 trang )

CÔNG NGHIỆP HÓA GẮN LIỂN VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KT BIỂN

Vai trò của kinh tế biển đối với phát triển công nghiệp
Vai trò của phát triển kinh tế biển trong phát triển công nghiệp thể hiện rõ
nhất là phát triển giao thông vận tảI, dầu khí, điện lực và khai thác khoảng
sản.
Phát triển giao thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận tải thấp
nhất nhưng lại có thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất.
Vì vậy, chính vận tải biển phát triển đã thúc đẩy thương mại các quốc gia,
ngày càng trở lên có hiệu quả. Phát triển vận tải biển thúc đẩy quá trình xuất
nhập khẩu hàng hoá, là động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Trong sản xuất công nghiệp, chi phí cho vận tải nguyên vật liệu, hàng hoá
chiếm tỷ trọng lớn, nhất là khi phải vận chuyển xa từ quốc gia này đến quốc
gia khác, thậm chí từ châu lục này tới châu lục khác. Vận tải bằng đường biển
hầu như không phải làm đường mà chỉ xây dựng cảng và mua sắm phương tiện
vận tải.
Như đã nêu ở trên, với hơn 3.200 km bờ biển, Việt Nam có một tiềm năng về
cảng biển hết sức to lớn. Hệ thống cảng biển bao gồm trên 80 cảng biển lớn
nhỏ, trong đó có một số cảng đã và đang được nâng cấp và mở rộng như Hải
Phòng, Cái Lân, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ. Khối lượng
hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam tăng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng
bình quân là 17%/năm. Các cảng lớn như Hải Phòng, Sài Gòn đạt một mức kỷ
lục. Nhưng, nhìn chung các cảng biển vẫn đang ở trong tình trạng kém hiệu
quả, thiếu sức cạnh tranh bởi các lý do: quy mô cảng nhỏ bé, thiết bị xếp dỡ
lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng tàu container, những cảng tổng hợp quan
trọng đều nằm sâu trong đất liền như Hải Phòng (30 km), Sài Gòn (90km)
luồng lạch hẹp lại bị sa bồi lớn không cho phép các tàu lớn ra vào cảng, mặt
bằng chật hẹp, thiếu hệ thống đường bộ, đường sắt nối vào mạng lưới giao
thông quốc gia.
Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các công nghệ
vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Do vậy, việc xây dựng các


cảng nước sâu với trang thiết bị hiện đại, công nghệ quản lý điều hành tiên tiến
là yêu cầu bức xúc.
Nhận rõ vai trò quan trọng của hệ thống cảng biển đối với phát triển kinh tế
nói chung và phát triển công nghệ nói riêng nên trong 10 năm qua Nhà nước
đã tập trung vốn đầu tư cho một số cảng trọng điểm như:
- Cảng Hải Phòng hoàn thành giai đoạn I với công suất 6,2 triệu tấn/năm, cho
tàu 10.000 DWT ra vào và dự kiến sẽ hoàn thành giai đoạn II trong kế hoạch
2000 - 2010 với công suất 8 - 8,5 triệu tấn/năm, cho tàu 10.000 tấn ra vào.


- Cảng Cái Lân: Công suất 1,8 - 2,8 triệu tấn/năm, cho tàu đến 40.000 tấn ra
vào giai đoạn I (năm 2003) và 16-17 triệu tấn/năm cho tàu 50.000 tấn ra vào
giai đoạn II (đến năm 2010 - 2020).
- Cảng Sài Gòn: Công suất 8,5 - 9,5 triệu tấn/ năm cho tàu 25.000 - 35.000
tấn ra vào (giai đoạn II đến năm 2010) và một số cảng khác sẽ được đầu tư
cải tạo, mở rộng cơ sở vật chất như cảng Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang.
Như vậy, trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ tập trung cho các cảng thuộc
vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, một số cảng chuyên dùng như
bến thứ nhất của cảng tàu Dung Quất (Liên doanh Việt Xô); Cảng Nghi Sơn (xi
măng); cảng Cát Lát (xi măng và container) và một số cảng ở khu công nghiệp
Gò Dầu, Hiệp Phước…
Có thể nói, chính nhờ có hệ thống giao thông biển mà các trung tâm công
nghiệp lớn của đất nước đã hình thành và phát triển như khu vực kinh tế trọng
điểm Nam Bộ, Bắc Bộ gắn liền với cụm cảng Sài Gòn và Hải Phòng. Chính nhờ
có cảng biển nên đã tạo ra lợi thế cạnh tranh hoặc xuất khẩu nông lâm thuỷ
sản chế biến.
Để đáp ứng nhu cầu vận tải biển ngày một tăng cho phát triển kinh tế xã hội
đặc biệt là phát triển công nghiệp trong bối cảnh hội nhập, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam
đến năm 2010 với 114 cảng (chưa kể các cảng tiềm năng). Tất cả các cảng

đều gắn liền với các trung tâm công nghiệp, là đầu mối giao lưu với thế giới
trong xuất, nhập khẩu của đất nước.
Trong những năm sắp tới, nền kinh tế phát triển mạnh theo hướng hội nhập
quốc tế và khu vực, giao lưu hàng hoá quốc tế và trong nước tăng nhanh, đòi
hỏi hệ thống cảng biển cần có những bước tiến mạnh mới đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế - xã hội. Trên cơ sở quy hoạch tổng hợp phát triển hệ thống cảng
biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, cần thực hiện tốt công
tác quản lý quy hoạch hệ thống cảng biển, tiến hành lập và quy hoạch chi tiết
các nhóm cảng quan trọng. Trong đầu tư cảng, cần tạo liên kết cảng với các hệ
thống giao thông mặt đất nhằm tạo thuật lợi nhất cho khách hàng qua phương
thức vận tải đa phương.
Vai trò vận tải ven biển cũng ngày càng tăng đối với hàng rời thông thường và
hàng bách hoá. Đầu tư ngắn hạn cho cảng tại các cảng tổng hợp với mục tiêu
cải tiến nâng cao năng suất cảng, hiện đại hoá những thiết bị dẫn luồng. Nâng
cao chất lượng dịch vụ vận tải trong xếp dỡ có hiệu quả khuyến khích các tàu
lớn, hiện đại vào cảng Việt Nam.
Đối với các cảng địa phương và cảng do các Bộ quản lý cần lựa chọn những
cảng có đủ lượng hàng hoá hoạt động có hiệu quả để nâng cấp nhằm phát huy
hiệu quả đầu tư.
Phát huy lợi thế phát triển ngành dầu khí và điện lực
Ngành Dầu khí ngày nay đã trở thành một trong những ngành chủ lực của Việt


Nam, là ngành xuất khẩu hàng đầu của đất nước (hơn ba tỷ USD hàng năm),
gắn liền với kinh tế biển. Gần như toàn bộ trữ lượng dầu khí của nước ta nằm
trong thềm lục địa. Trên phần diện tích thềm lục địa có chiều sâu nước đến
200m, đã phát hiện trữ lượng dầu khoảng 540 triệu tấn và 610 tỷ m3 khí. Trữ
lượng tiềm năng dự báo khoảng 900 - 1.200 tỷ m3 dầu và 2.100 - 2.800 tỷ m3
khí. Như vậy, trữ lượng tiềm năng tập trung chủ yếu ở vùng nước sâu và các
vùng chồng lấn. Dự báo đến năm 2010, Việt Nam có thể khai thác từ 30 - 32

triệu tấn dầu quy đổi, trong đó dầu thô khai thác khoảng 16 -18 triệu tấn, khí
khoảng 11 - 13 tỷ m3. Nhờ có nguồn dầu khí khai thác, chúng ta có thể phát
triển công nghiệp điện lực, hoá chất (phân bón và hóa dầu) với quy mô lớn.
Các cơ sở công nghiệp này đều gắn liền với các vùng ven biển như khu khí điện
đạm Phú Mỹ, Cà Mau; khu lọc hoá dầu Dung Quất, Nghi Sơn. Đặc biệt, nhờ có
khai thác công mà các ngành công nghiệp và dịch vụ tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
đã phát triển nhanh trong thời gian vừa qua.
Trong tương lai, khi các nguồn điện sơ cấp cạn kiện thì việc phát triển phong
điện và điện nguyên tử dọc bờ biển sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
công nghiệp.
Biển cung cấp ngày càng nhiều và đa dạng các loại nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến như: cá, tôm, cua, sò, mực, rong, ngọc trai… dưới dạng đánh
bắt tự nhiên và nuôi trồng.
Ngành thuỷ sản (chủ yếu là hải sản) trong những năm gần đây đã có tốc độ
tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong cơ cấu sản xuất nông
nghiệp nước ta. Năm 2002, giá trị sản xuất ngành thủy sản chiếm 17,76%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt ngành thuỷ sản có giá trị xuất khẩu
cao, ước đạt 2.024 triệu USD năm 2002, đứng thứ 3 về xuất khẩu của cả nước
sau dầu thô và dệt may. Năm 2002, ngành thuỷ sản đã đánh bắt và trồng
được 2,57 triệu tấn, trong đó cung cấp cho công nghiệp chế biến khoảng 600
ngàn tấn. Dự báo, đến năm 2010 ngành thuỷ sản có thể khai thác và nuôi
trồng được khoảng 3,5 - 4 triệu tấn, trong đó cung cấp khoảng 1 triệu tấn
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và có thể đại giá trị xuất khẩu từ 4,5 - 5
tỷ USD.
Như vậy, phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản ở nước ta ngày càng giữ vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước nói chung và công nghiệp
nói riêng. Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản đã trở thành ngành mũi nhọn
đem lại hiệu quả kinh tế cao của ven biển nước ta.
Phát triển kinh tế biển gắn với khai thác khoáng sản khác
Dọc dải bờ biển nước ta có nhiều sa khoáng kim loại, đáng kể nhất là các sa

khoáng ilmenit tập trung các vùng biển Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định,
Phú Yên, Ninh Thuận với tổng trữ lượng khoảng 10 triệu tấn. Các khoáng vật đi
kèm ilmenit là zircon, monaxit có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, công
tác khai thác đã được phát triển mạnh ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định


và Bình Thuận với sản lượng khai thác khoảng 100 ngàn tấn/năm phục vụ cho
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Dự báo đến năm 2010 có thể khai thác từ
250 - 300 ngàn tấn tinh quặng ilmenit. Đây là nguồn nguyên liệu khá lớn có
thể phục vụ cho công nghiệp sản xuất bột TiO2.
Ngoài ilmenit, dọc bờ biển nước ta có nhiều mỏ cát thuỷ tinh với chất lượng tốt,
là nguyên liệu cho sản xuất thuỷ tinh, tập trung ở Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng
Trị, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận… với tổng trữ lượng đã thăm
dò trên 300 triệu tấn. Trữ lượng dự báo khoảng trên 700 triệu tấn. Hiện nay
nhiều địa phương đang khai thác phục vụ cho các nhà máy sản xuất kính và
thuỷ tinh trong nước và xuất khẩu.
Tiềm năng các mỏ quặng ở thềm lục địa nước ta còn khá lớn nhưng do kinh phí
và trình độ của chúng ta còn hạn chế chưa có điều kiện tìm kiếm thăm dò vùng
ngập nước nên chưa khẳng định được.
Có thể nói, kinh tế biển ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế
biển đã trở thành động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp vì biển là cửa ngõ
giao lưu với thế giới, tạo điều kiện cho công tác xuất nhập khẩu hàng hoá
thuận lợi với chi phí thấp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
như hiện nay thì biển ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo năng
lực cạnh tranh của quốc gia và của ngành công nghiệp. Ngoài ra, biển còn là
nơi cung cấp nguyên liệu phong phú, đa dạng cho công nghiệp chế biến.




×