Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.9 KB, 96 trang )

1
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIÊT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên

: Phạm Thị Hoa

Lớp

: NHTMB - K13

Khóa

: 2010 - 2014

Khoa

: Ngân hàng

Hà Nội, tháng 5 năm 2014



2
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIÊT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên
Lớp
Khóa
Khoa
Giáo viên hướng dẫn

: Phạm Thị Hoa
: NHTMB - K13
: 2010 - 2014
: Ngân hàng
: ThS. Đào Thanh Tú

Hà Nội, tháng 5 năm 2014


3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả nội dung được đề cập trong khóa luận này do chính tôi
thực hiện nghiên cứu. Nguồn số liệu trong khóa luận được trích dẫn đầy đủ trong danh
mục tài liệu tham khảo và hoàn toàn trung thực. Các kết quả, phân tích, kết luận trong
khóa luận này (ngoài các phần trích dẫn) đều là kết quả làm việc của cá nhân tôi.

Sinh viên

Phạm Thị Hoa


4

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất
cả các cá nhân và cơ quan đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài.
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến toàn thể các thầy, cô
giáo và các cán bộ công chức của Trường Học Viện Ngân Hàng đã trực tiếp hoặc gián
tiếp giúp đỡ tôi về mọi mặt trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin cảm ơn Cô giáo ThS. Đào Thanh Tú - người đã trực tiếp hướng
dẫn, giúp đỡ tôi tận tình trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành bản
khoá luận này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè đã
chia sẻ cùng tôi những khó khăn, động viên và tạo mọi điều kiện cho tôi học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, ngày 26 tháng 05 năm 2014

Sinh viên

Phạm Thi Hoa


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATM
BCTC
BIDV
CNXH
CTCP
ĐHĐCĐ
DNVVN
DPRR
GDKH
HA.GL
HĐQT
KD
KH
KHKD
NHTM
NQ

QHKH
SXKD
TCTD
TMCP
TSĐB

TT
VAMC
VPĐD

Automatic Teller Machine – Máy giao dịch tự động
Báo cáo tài chính
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chủ nghĩa xã hội
Công ty cổ phần
Đại hội đồng cổ đông
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Dự phòng rủi ro
Giao dịch khách hàng
Hoàng Anh Gia Lai
Hội đồng quản trị
Kinh doanh
Khách hàng
Kế hoạch kinh doanh
Ngân hàng thương mại
Nghị quyết
Quyết định
Quan hệ khách hàng
Sản xuất kinh doanh
Tổ chức tín dụng
Thương mại cổ phần
Tài sản đăm bảo
Thông tư
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam
Văn phòng đại diện



6

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


7

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ


8
MỤC LỤC


9

PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn 20 năm đổi mới, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội đất
nước. Đặc biệt trong những năm qua, ngành ngân hàng còn là công cụ đắc lực hỗ trợ
Nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định đồng tiền, giá cả hàng hoá.
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại, tín dụng là hoạt động chủ yếu và
quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của các ngân hàng. Tín dụng
là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu và cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Rủi ro
tín dụng là một trong những loại rủi ro lâu đời và quan trọng nhất mà ngân hàng thương
mại cũng như các tổ chức tài chính trung gian khác phải đối mặt. Hậu quả của rủi ro
trong hoạt động tín dụng luôn có tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống

ngân hàng nói riêng và cả nền kinh tế xã hội nói chung. Do đó, bất cứ lúc nào rủi ro tín
dụng cũng luôn mang tính thời sự và việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế đến
mức thấp nhất rủi ro tín dụng là vấn đề sống còn được quan tâm hàng đầu của các ngân
hàng thương mại.
Với truyền thống hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, trong những năm qua
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng phấn đấu vươn lên,
khẳng định được vị thế là ngân hàng thương mại dẫn đầu trong khối các NHTM. Để
thực hiện mục tiêu phát triển an toàn - bền vững, trong hoạt động của mình Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng luôn quan tâm đến việc nâng cao chất
lượng, hạn chế rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hoạt
động tín dụng của Ngân hàng vẫn còn một vài hạn chế cần sớm được khắc phục, điều
chỉnh để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro.
Từ nhận thức được yêu cầu của thực tiễn, em chọn đề tài nghiên cứu:
“Chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Chất lượng tín dụng có quan hệ mật thiết đến rủi ro trong hoạt động tín dụng, nó
ảnh hưởng quyết định tới tài sản có của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng cũng
là góp phần quan trọng làm giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
và tăng khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.
Do đó, mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là tìm hiểu cơ sở lý luận cơ bản và thực
trạng về chất lượng tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam và


10
đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng và phòng ngừa rủi ro phát sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển

Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chọn địa điểm nghiên cứu tại TMCP Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Về mặt thời gian đề tài sẽ phân tích đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động
tín dụng tại Ngân hàng trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2013.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở các tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng một số phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp so sánh để phân tích tình hình hoạt động tín dụng, các cơ
cấu tín dụng của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ đó rút ra nhận
xét về chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
5. KẾT CẤU KHÓA LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo kết cấu
khóa luận có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân
hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


11

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm về tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ra đời là một tất yếu, khách

quan của nền kinh tế xã hội.
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa
thống nhất khi định nghĩa về tín dụng.
Theo Các Mác thì: “ Tín dụng dưới hình thái biểu hiện của nó là sự tín nhiệm ít
nhiều có căn cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó
dưới hình thái hàng hoá hoặc được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số tiền này
bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời gian đã được ấn định” 1
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì: “Tín dụng là một phạm trù kinh tế
thể hiện mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Trong quan hệ này người
cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền hoặc hàng hoá cho vay cho
người đi vay trong một thời gian nhất định. Đến kỳ hạn trả nợ người đi vay có trách
nhiệm hoàn trả toàn bộ số tiền hoặc hàng hoá đã vay, có kèm hoặc không kèm một
khoản lãi” 2
Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu kinh tế, tín dụng được coi là quan hệ lẫn
nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau
một thời gian nhất định. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế phản
ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng
(chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức
khác với những ràng buộc nhất định về: số tiền hoàn trả (gốc và lãi), thời gian hoàn
trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi…
Còn “Tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng chấp thuận để khách hàng sử dụng
một lượng tài sản (bằng tiền, tài sản thực hay uy tín) trên cơ sở lòng tin khách hàng có

1 C.Mác (1962), Tư bản, Quyển 3, Tập 2, Nhà xuất bản Sự Thật.
2 . />
TuKhoa=t%C3%ADn%20d%E1%BB%A5ng&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=7903


12
khả năng hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn” 3. Khác với tín dụng thương mại, tín dụng

ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới hình thức hàng hoá.
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010“Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức,
cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”4
Như vậy, tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là
quan hệ tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các TCTD với
các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.1.2. Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có phạm vi hoạt động rộng và
đa dạng, việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Trên cơ sở các căn cứ phân loại
khác nhau ta có các hình thức tín dụng khác nhau.
1.1.2.1 Dựa vào mục đích cho vay thì gồm các loại: cho vay bất động sản, cho vay
công và thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay các chế định tài chính, cho vay cá
nhân và cho thuê.

- Cho vay bất động sản: là việc cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất

-

động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại hình cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu

-

động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: là loại hình cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân

-


bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu….
Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm những

-

vật dụng đắt tiền và trang trải các phí thông thường của đời sống thông qua việc cấp
tín dụng hoặc phát hành thẻ tín dụng cho cá nhân….
Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, các công ty

-

tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế
tài chính khác…
Cho thuê bao gồm hai loại cho thuê: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính, tài sản cho
thuê bao gồm bất động sản và động sản trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị.
3 GS.TS.Nguyễn

Văn Tiến–Quản trị ngân hàng thương mại- NXB Thống Kê,2013- Trang

260, 261

4 Quốc Hội - Luật số 47/2010/QH12- Luật Các Tổ Chức Tín Dụng – Điều 4, Mục 14


13
1.1.2.2 Dựa theo thời hạn cho vay gồm các loại sau: cho vay ngắn hạn, cho vay trung
hạn và cho vay dài hạn.

- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp


-

sự thiếu hụt vốn lưu động và dự trữ hàng tồn kho của doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm và được sử

-

dụng để đầu tư cho tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, mở rộng sản xuất
kinh doanh. Trong nông nghiệp chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào đối tượng
sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê,
điều….Cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của
các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và có thời hạn đối đa lên đến
20 – 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm và được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô
lớn, chu kỳ sống dài, xây dựng các xí nghiệp mới.
1.1.2.3 Dựa vào mức độ tín nhiệm với khách hàng: cho vay không có đảm bảo và cho
vay có đảm bảo.

- Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản cầm cố thế chấp, cho vay

-

dựa vào mức độ tín nhiệm của các đối tượng. Hình thức cho vay này thường được sử
dụng cho các tổ chức có uy tín cao.
Cho vay có đảm bảo: là hình thức cho vay dùng tài sản, các giấy từ có giá để cầm cố
thế chấp cho khoản vay, hoặc chính các tài sản được hình thành từ khoản vay trên.
Hiện nay hình thức cho vay này là phổ biến. Các tài sản đảm bảo được coi là nguồn trả

nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất không thực hiện được.
1.1.2.4 Dựa theo phương thức hoàn trả:

- Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp

-

đồng, cho vay có thời hạn bao gồm: Cho vay chỉ có một kỳ trả nợ, cho vay có nhiều kỳ
trả nợ ( cho vay trả góp) và cho vay hoàn trả nhiều lần nhưng không có thời hạn trả cụ
thể.
Cho vay không có thời hạn trả cụ thể: đối với loại cho vay này thì ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc người đi vay có thể tự nguyện trả nợ bất kỳ lúc nào nhưng phải báo trước
một thời gian hợp lý, thời gian này có thể thoả thuận trong hợp đồng. Hình thức cho
vay này còn ít vì tính an toàn của khoản vay là không cao.
1.1.2.5 Dựa theo xuất xứ tín dụng: cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp.

- Cho vay trực tiếp: nghĩa là ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.


14
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Hoạt động tín
dụng có chất lượng sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn
định trong lưu thông tiền tệ. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của tín
dụng ngân hàng cũng ngày một tăng lên, thể hiện:
Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế các doanh nghiệp hoạt động SXKD dựa trên nguồn vốn tự có và vốn

tài trợ từ bên ngoài như: ngân hàng, doanh nghiệp khác. Trong đó vốn tín dụng ngân
hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả, bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về số lượng
và thời hạn, đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thường thấp hơn chi phí
sử dụng các nguồn vốn khác.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn giữa người thừa
vốn và người thiếu vốn. Vì ngân hàng luôn thu hút tập trung mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi của tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng
trưởng kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt
động đó, ngân hàng thu được lợi tức từ hoạt động cho vay để duy trì phát triển hoạt
động của chính bản thân mình. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường hiện nay, huy động và
cho vay bao nhiêu, có đáp ứng được hay không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế,
thu hồi vốn có đúng hạn hay không là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Do đó, mỗi ngân hàng cần phải có nghệ thuật trong kinh doanh,
phải tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút tối đa nguồn vốn với chi phí thấp nhất để
cho vay. Có thể nói, tín dụng ngân hàng góp phần quan trọng vào quá trình vận động
liên tục của nguồn vốn, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tiền tệ trong xã hội.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Trong mọi
lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ để tái sản xuất, mở rộng hoạt động, mọi chu
kỳ đều phải bắt đầu bằng tiền và kết thúc bằng tiền. Do đó, để tăng nhanh vòng quay
vốn, mỗi chủ thể kinh doanh phải tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp như cải tiến
kỹ thuật, tìm kiếm thị trường mới...Tất cả những công việc trên đòi hỏi phải có nhiều
vốn mà tín dụng ngân hàng là nguồn cung ứng vốn cho các nhu cầu đó một cách đầy
đủ và kịp thời nhất. Mặt khác, vốn ngân hàng cung ứng cho các nhà kinh doanh bằng
việc cho vay với đều kiện phải hoàn trả cả gốc và lãi theo thời hạn quy định. Vì vậy,
các nhà quản trị doanh nghiệp phải tìm nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả,


15
tăng nhanh vòng quay của vốn, trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Chính quá trình này đã góp

phần tạo cho nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ
giao lưu kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một
nước phải luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Trong đó, đầu tư vốn
ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác thông
dụng và phổ biến giữa các nước.Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện
quá trình này. Nhưng trên thực tế không phải một tổ chức kinh tế nào, một nhà kinh
doanh nào cũng đủ vốn để hoạt động. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh
doanh tiền tệ, thông qua hoạt động tín dụng sẽ là “nhà tài trợ” đắc lực về vốn cho các
nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ
lưu thông trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào kênh lưu thông qua kênh tín dụng. Bởi
vì, ngân hàng là một chủ thể quan trọng tham gia vào quá trình tạo tiền thông qua hoạt
động tín dụng và thanh toán. Khi ngân hàng mở rộng hoặc thắt chặt tín dụng sẽ tác
động đến lượng tiền trong lưu thông. Do đó, khi Nhà nước muốn tăng khối lượng tiền
trong lưu thông thì NHNN có thể tăng hạn mức tín dụng của các NHTM đối với nền
kinh tế và ngược lại.
Thứ sáu, tín dụng ngân hàng góp phần thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu
tư của nền kinh tế. Qua việc cung ứng vốn sẽ góp phần mở rộng đầu tư bằng việc cấp
vốn cho các doanh nghiệp đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch
toán kinh tế, tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh.
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, nó giải quyết mâu thuẫn nội tại của nền kinh tế, thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được hết
vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng, các cơ quan chức năng phải tạo ra một
hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người
vay và người đi vay trong nền kinh tế.
1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Chất lượng của sản phẩm, dịch vụ được hiểu là toàn bộ tính năng của sản phẩm,

dịch vụ phù hợp với điều kiện quy định nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu xã hội. Nâng
cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của
các doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp muốn


16
tồn tại và phát triển thì trước hết cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để
đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
Chất lượng tín dụng được hiểu một cách khái quát nhất đó là sự đáp ứng nhu cầu của
khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và
đảm bảo sự tồn tại, phát triển của tổ chức tín dụng cung cấp sản phẩm tín dụng đó.
Theo từ điển Weekipedia thì: “Chất lượng tín dụng là một phạm trù phản ánh
mức độ rủi ro trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng. Để phản ánh về
chất lượng tín dụng, có rất nhiều chỉ tiêu nhưng nói chung người ta thường quan tâm
đến: tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tỷ lệ và cơ cấu tài sản đảm bảo”5.
Trong thực tế, xuất phát từ bản chất của tín dụng là mối quan hệ giữa người vay
và người cho vay, liên quan đến nhiều chủ thể kinh tế và có vai trò cực kỳ to lớn trong
nền kinh tế nên chất lượng tín dụng được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Đối với nền kinh tế: Tín dụng có chất lượng nghĩa là phải huy động được tối đa
lượng tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và thực hiện cho vay đầu tư phát triển nền kinh tế theo
định hướng của Nhà nước một cách có hiệu quả nhất. Tức là việc đầu tư tín dụng sẽ
góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao,
giá thành hạ. Đồng thời, thông qua đó sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ kinh tế vĩ
mô của Nhà nước như: hợp lý hoá cơ cấu nền kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, cải thiện cuộc sống người dân, củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại quốc
gia, đặc biệt là góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đối với khách hàng vay vốn: Chất lượng tín dụng chính là chất lượng sản phẩm
tín dụng do ngân hàng cung cấp. Chất lượng tín dụng cao đồng nghĩa với với việc vốn
vay được cung ứng đủ về số lượng, đúng thời hạn và lãi suất hợp lý với thời gian xét
duyệt nhanh chóng, thái độ tận tình, chu đáo. Từ đó, tạo điều kiện cho khách hàng hoạt

động kinh doanh có hiệu quả, có nguồn thu nhập ổn định để trả nợ vay ngân hàng,
giúp khách hàng và ngân hàng phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
- Đối với ngân hàng: Nguyên tắc cơ bản nhất đối với hoạt động tín dụng ngân
hàng đó là vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn. Nên nói đến chất lượng
tín dụng là nói đến khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù
hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của
ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và
phát triển.

5


17
Như vậy, chất lượng tín dụng là mức độ thoả mãn nhu cầu và hiệu quả của nền
kinh tế, của người đi vay và người cho vay trong quan hệ tín dụng.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTM
Quá trình ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa đã làm nẩy sinh quan hệ tín
dụng bắt đầu từ cho vay nặng lãi, tín dụng thương mại và đến tín dụng ngân hàng. Đó
là quy luật mang tính tất yếu và khách quan. Khi tín dụng ngân hàng hoạt động có hiệu
quả sẽ tác động trở lại đối với sản xuất hàng hóa, làm cho lưu thông hàng hóa không bị
ách tắc, chu kỳ sản xuất được rút ngắn, tăng vòng quay vốn, tiết kiệm được vốn và chi
phí, giá cả hàng hóa giảm, hàng hóa được tiêu thụ nhiều hơn và từ đó làm tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại thì huy động vốn và cho
vay là hai hoạt động cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ở các
nước trên thế giới hoạt động tín dụng thường mang lại khoảng trên 50% nguồn thu cho
ngân hàng, trong khi đó ở Việt Nam con số này chiếm khoảng trên 70%. Điều đó cho
thấy nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn là nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn nhất của
các ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng đã trở thành vấn đề sống còn đối

với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Sự yếu kém về chất lượng tín dụng luôn trở
thành nguy cơ gây nên sự phá sản của ngân hàng, thậm chí gây cản trở cả hệ thống
ngân hàng do hiệu ứng dây chuyền.
Chính vì vậy trong hoạt động của mình, các NHTM luôn lấy chất lượng tín dụng làm
tiêu thức quan tâm hàng đầu sau đó mới đến các tiêu chí khác. Sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng tín dụng thể hiện qua một số điểm sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho các ngân hàng đảm bảo
an toàn vốn, tài sản của mình cũng như của khách hàng gửi tiền. Có như vậy thì ngân
hàng mới bảo toàn và phát triển được nguồn vốn, đồng thời có đảm bảo được an toàn
thì ngân hàng mới thu hút được khách hàng gửi tiền, từ đó mới có đủ vốn để phát triển
tín dụng.
Thứ hai, nâng cao chất lượng tín dụng thì mới nâng cao được hiệu quả hoạt động
kinh doanh ngân hàng. Nếu không nâng cao chất lượng tín dụng sẽ dẫn đến phát sinh
các khoản nợ quá hạn hoặc các khoản nợ không thu hồi được và ngân hàng phải lấy từ
nguồn dự phòng rủi ro để bù đắp cho các khoản tín dụng này. Chất lượng tín dụng
càng thấp thì ngân hàng càng phải trích và sử dụng nhiều dự phòng rủi ro do đó mà lợi
nhuận giảm, dẫn đến hiệu quả kinh doanh sẽ giảm.
Thứ ba, nâng cao chất lượng tín dụng là để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho nền
kinh tế và thực hiện đầy đủ chức năng, vai trò của ngân hàng thương mại. Nếu việc


18
nâng cao chất lượng tín dụng không được coi trọng, xuất hiện rủi ro thì sẽ dẫn đến việc
luân chuyển vốn trong nền kinh tế trì trệ, từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng của NHTM
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng, các cơ quan quản lý, các nhà quản
lý ngân hàng khi đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng đã sử dụng rất nhiều các chỉ
tiêu khác nhau. Nhìn chung, khi đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường dùng
các chỉ tiêu định tính và định lượng.

1.2.3.1. Chỉ tiêu định tính
Là những chỉ tiêu mang tính tương đối, rất khó xác định thường được dùng để
đánh giá chất lượng tín dụng một cách khái quát. Các chỉ tiêu định tính thường bao gồm:
Thứ nhất, đó là việc đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc cho vay nhằm hạn chế
đến mức tối đa rủi ro cho ngân hàng và thực hiện tốt các chính sách của Nhà nước trong
từng thời kỳ.
Thứ hai, đó là uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, sự hài lòng của khách
hàng đối với các sản phẩm tín dụng mà ngân hàng cung cấp về quy mô, lãi suất, phí,
thời gian phục vụ…
Thứ ba, là trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, khả năng ứng
dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong quá trình cung cấp tín dụng nhằm rút ngắn thời
gian phục vụ nhưng vẫn đảm bảo thu thập, lưu trữ đầy đủ thông tin để giúp ngân hàng
có thể khai thác, phát hiện và ngăn ngừa rủi ro.
Thứ tư, là việc phối hợp tốt với các cơ quan chức năng như: công chứng, trung tâm
giao dịch đảm bảo, các tổ chức, đoàn thể để làm tốt công tác cho vay.
Các chỉ tiêu định tính rất khó xác định và chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của cán bộ
tín dụng và người quản lý cũng như các mối quan hệ của họ với khách hàng vì vậy trên
thực tế khi nói đến chất lượng tín dụng thường người ta chú ý nhiều đến các chỉ tiêu
mang tính định lượng.
1.2.3.2. Chỉ tiêu định lượng
a) Nợ quá hạn và Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
Theo Điều 6 quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 quy định các tổ
chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau:

 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:


19
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi

đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều này.

 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.

 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.

 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.

 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn
đã được cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và
Khoản 4 Điều này.

Quyết định 493 cũng quy định về việc phân loại nợ đối với các tổ chức tín dụng
thực hiện theo điều 7 (các tổ chức tín dụng đã có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ)
như sau:

 Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
 Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách
hàng suy giảm khả năng trả nợ.


20
 Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
 Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là có khả năng tổn thất cao.
 Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín
dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tất cả các khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 được xếp vào Nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM
ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM.
Tỷ lệ nợ quá hạn thấp biểu hiện chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng có độ an
toàn cao tức là mức độ rủi ro thấp. Tuy vậy, trên thực tế để đánh giá chính xác hơn
chất lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng thì người ta chia tỷ lệ nợ quá hạn
thành hai loại: tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi và tỷ lệ nợ quá hạn không có khả
năng thu hồi. Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhưng trong đó bao nhiêu phần trăm
là nợ có khả năng thu hồi và bao nhiêu phần trăm là nợ không có khả năng thu hồi,

khi đó ta mới có thể đánh giá chính xác được chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Có nhiều cách để phân loại nợ quá hạn:

 Nếu chia theo khả năng thu hồi thì gồm:
• Nợ quá hạn thông thường: Đảm bảo đòi đủ 100%
• Nợ quá hạn khó đòi : Khả năng thu hồi không đủ và phải kéo dài.
• Nợ quá hạn mất trắng.
 Nếu chia theo nguyên nhân:
• Nợ quá hạn do mất khả kháng như do thiên tai, do thay đổi cơ chế chính sách, do
khủng hoảng. Nguyên nhân không thuộc lỗi của bên cho vay và người đi vay.
• Nợ quá hạn do lỗi của người đi vay: yếu kém về trình độ quản lý, khả năng cạnh
tranh hoặc cố tình không trả nợ…
• Nợ quá hạn do lỗi của người cho vay: thường bao giờ cũng gắn với lỗi của người
cho vay do có sự thông đồng, đồng tình.

 Nếu chia theo thời gian:
• Nợ quá hạn dưới 180 ngày.
• Nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên đến 360 ngày
• Nợ quá hạn trên 360 ngày.
 Nếu chia theo biện pháp bảo đảm tiền vay.
• Nợ quá hạn có bảo lãnh của người hay bên thứ 3.


21
• Nợ quá hạn còn vật tư, hàng hóa tồn kho chờ bán và có tài sản hình thành từ vốn vay.
• Nợ quá hạn có tín chấp.
• Nợ quá hạn có xác nhận của cấp chủ quản.
• Nợ quá hạn có người thừa kế hợp pháp theo luật phải trả thay.
 Nếu chia theo khả năng thu hồi vốn:
• Nợ quá hạn bình thường: Là nợ quá hạn do định kỳ cho vay sai thực tế, là nợ quá

hạn có thời gian dưới 6 tháng kể từ ngày đến hạn trả nợ.
• Nợ khê đọng: Là nợ quá hạn có thời gian quá hạn từ 6 tháng đến 12 tháng kể từ
ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa thu hồi được vốn vì đã tiềm ẩn những rủi ro.
• Nợ khó đòi: Là nợ quá hạn trên 12 tháng kể từ ngày đến hạn trả nợ mà vẫn chưa
thu hồi được vốn vì đã nảy sinh những rủi ro không khắc phục được.
• Nợ mất khả năng thu hồi vốn: Là nợ quá hạn không có khả năng thu hồi vốn sau
khi đã phân tích các khả năng thu hồi vốn.
Như vậy nợ quá hạn nói chung mới chỉ thể hiện được một phần về chất lượng tín
dụng mà không nói rõ đến khả năng mất vốn của ngân hàng, chỉ có loại nợ quá hạn
mất khả năng thu hồi vốn mới chỉ rõ phạm vi mất vốn của ngân hàng. Loại nợ quá hạn
bình thường tức là loại nợ quá hạn dưới 6 tháng là có thể chấp nhận được trong điều
kiện tình hình kinh doanh nước ta hiện nay. Đó là những yếu tố khách quan do thị
trường gây ra. Khi nền kinh tế thị trường dần dần được hình thành rõ nét và ổn định
mới có thể khống chế và giảm được các nợ quá hạn này. Các loại nợ quá hạn từ 6 đến
12 tháng và trên 12 tháng là những loại nợ tiềm ẩn những rủi ro với ngân hàng. Loại
nợ quá hạn sau cùng mới là loại nợ mất khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
b) Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín
dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thì: “ Trong thời hạn tối đa 3 năm kể từ ngày quy định này có hiệu lực, tổ chức tín dụng
phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản
lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của tổ chức tín
dụng”6

6 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.



22
Trong đó các khoản nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 được xem là các khoản nợ xấu. Nợ xấu
về bản chất là khái niệm dùng để chỉ các khoản nợ cho vay khách hàng đang đối diện
với rủi ro cao trong việc thu hồi nợ gốc và lãi vay do khách hàng gặp khó khăn.
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân hàng, bao
nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ xấu trên 100 đồng cho vay.Tỷ lệ này cao so với
trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang
gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay. Ngược lại, tỷ lệ này
thấp so với các năm trước cho thấy chất lượng các khoản tín dụng được cải thiện.
Hoặc cũng có thể ngân hàng có chính sách xóa các khoản nợ xấu hay thay đổi các
phân loại nợ.
Thông tư 02-2013-TT-NHNN, ban hành ngày 21/01/2013 của Ngân hàng Nhà
Nước Việt Nam, Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập
dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực từ ngày 1/6/2014 về cơ bản thì
các nguyên tắc phân loại được áp dụng không thay đổi, tòan bộ số dư nợ và giá trị cam
kết ngoại bảng của một khách hàng tại một TCTD phải được phân loại vào cùng một
nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất. Ngoài ra, so với QĐ 493 và 18, Thông tư 02 còn
mở rộng các quy định đối với các hoạt động khác như cho vay hợp vốn, ủy thác cấp tín
dụng mà bên nhận ủy thác chưa giải ngân, các khoản nợ đã bán nhưng chưa thu được
tiền, các khoản nợ được mua…theo phạm vi điều chỉnh đã thay đổi.
Trước đây, các TCTD tự phân nhóm đối với các khoản nợ tín dụng, bao gồm cả
tiêu chí định lượng và định tính tuy nhiên, các tiêu chí định lượng chưa đóng vai trò
quyết định, do đó có mức độ chủ quan trong đánh giá là cao khiến rủi ro đạo đức tăng
cao. Về bản chất, Thông tư 02 không có gì thay đổi nhiều về phương pháp phân loại
nợ trích lập dự phòng rủi ro hay mang tính đột phá mà chỉ yêu cầu các TCTD cần phân
tích chất lượng tín dụng theo phương pháp định lượng (kể cả khi thực hiện phân loại
theo phương pháp định tính vẫn phải tiến hành phân loại song song với phương pháp

định lượng trong thời gian tối thiểu 05 năm và phải báo cáo NHNN và được NHNN
chấp thuận), để đảm bảo nguyên tắc thận trọng trong trích lập dự phòng rủi ro cho
ngân hàng thông qua kết quả phân loại thống nhất từ trung tâm CIC. Bên cạnh đó,
Thông tư 02 có một số tiêu chí chặt chẽ trong việc phân loại nợ:
- Các khoản nợ bị gia hạn nợ lần đầu sẽ được đưa vào nợ nhóm 3 thuộc nhóm nợ
xấu, thay vì nếu gia hạn nợ trong thời hạn vẫn được xếp vào nhóm 2 theo Quyết định 493.


23
- Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng cũng được đưa vào nhóm nợ xấu.
- Ngoài các tiêu chí để phân loại nợ từ đặc tính khả năng trả nợ của khách hàng,
điểm mới được đánh giá khá khắc nghiệt là xem xét hoạt động cấp tín dụng cho những
đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng hoặc cấp tín dụng có điều kiện theo Luật Các TCTD
sửa đổi 2010. Chẳng hạn, nếu như trước đây trong hoạt động cấp tín dụng của các
NHTM, việc cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng bị hạn chế tín
dụng diễn ra rất thường xuyên thì nay được đưa vào nhóm 3, “nợ dưới tiêu chuẩn”
trong nhóm chỉ tiêu nợ xấu.
- Hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu của các TCTD hoặc các công ty con của
TCTD này để góp vốn vào TCTD khác trong hệ thống các NHTM cũng là những
khoản cho vay được liệt kê vào nhóm nợ xấu. Quy định này xếp các khoản tín dụng
theo kiểu đầu tư chéo lẫn nhau sẽ bị hạn chế khi liệt kê vào nhóm nợ xấu mà quy định
trước đây không đề cập đến.
- Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết mà TCTD đang nắm quyền kiểm
soát không vượt quá tỷ lệ quy định.
Như vậy, những quy định chi tiết từ Thông tư 02 đã đưa việc phân loại nợ xấu
cao hơn so với quy định trước đây, không chỉ là thời gian chậm thanh toán mà là mối
quan hệ cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng và tài sản cấp tín dụng được đảm bảo
bởi cổ phiếu của TCTD.
Gần đây nhất, NHNN đã ban hành Thông tư 09/2014/TT-NHNN, về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 quy
định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc
sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Thông tư này có hiệu lực kể từ 20/03/2014. Thông tư 09 cho phép
tiếp tục giãn việc phân loại nợ mới theo Thông tư 02 đến hết ngày 31/12/2014 thay vì
đến 30/6/2014 như quy định trước đây. Quy định cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ
nguyên nhóm nợ với điều kiện chặt chẽ hơn và chỉ được thực hiện một lần. Thông tư
bổ sung, sửa đổi quy định đối với các khoản nợ vi phạm pháp luật và các khoản nợ
phải thu hồi theo kết luận thanh tra. Theo đó, các khoản nợ này được phân loại tối
thiểu vào nhóm 3.


24
c) Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Trích lập dự phòng được hiểu là việc ghi nhận vào chi phí các chênh lệch nhỏ
hơn của giá trị tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm lập Báo cáo tài chính và giá trị
của các tài sản này tại thời điểm mua; hoặc ghi nhận một khoản dự phòng tương ứng
với các khoản nợ phải trả, vì nó là các nghĩa vụ về nợ phải trả hiện tại và chắc chắn sẽ
làm giảm sút các lợi ích kinh tế để thanh toán các khoản nợ đó.
Dự phòng là một khoản nợ phải trả không chắc chắn về giá trị hoặc thời gian.
Bản chất của các khoản trích lập dự phòng là được xây dựng trên cơ sở ước tính,
nhưng không làm mất đi độ tin cậy của các số liệu trên Báo cáo tài chính nếu doanh
nghiệp đưa ra được các căn cứ tin cậy cho việc ước tính các khoản dự phòng được
trích lập. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc với doanh nghiệp khi trình bày các khoản trích
lập dự phòng trên Báo cáo tài chính.
Trong trường hợp thiếu các cơ sở tin cậy để ước tính nghĩa vụ nợ cho việc trích
lập dự phòng, doanh nghiệp sẽ ghi nhận khoản nợ ước tính này như một khoản “Nợ
tiềm tàng” trên Báo cáo tài chính.
Tỷ lệ trích lập DPRR tín dụng = DPRR tín dụng trích lập/Dư nợ bình quân
Tùy theo mức độ rủi ro mà TCTD phải trích lập DPRR từ 0 đến 100% giá trị của từng

khoản cho vay (sau khi trừ đi giá trị tài sản đảm bảo đã đươc định giá lại). Như
vậy,nếu một ngân hàng có danh mục cho vay càng rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng sẽ
càng cao. Thông thường, tỷ lệ này dao động trong khoảng từ 0 đến 5%.
Theo QĐ 493 và Thông tư 02/2013/TT-NHNN đều quy định mức trích lập dự
phòng như sau:

 Số tiền dự phòng cụ thể phải trích đối với từng khách hàng được tính theo
công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ
C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể


25
 Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau:
a) Nhóm 1: 0%;
b) Nhóm 2: 5%;
c) Nhóm 3: 20%;
d) Nhóm 4: 50%;
đ) Nhóm 5: 100%

 Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75 % tổng
giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Nhìn chung so với QĐ 493, Thông tư 02/2013/TT-NHNN vẫn quy định mức
trích lập dự phòng chung là 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 và
loại trừ một số khoản sau: Tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán) tại tổ chức tín dụng trong
nước, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật và

tiền gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài; Khoản cho vay, mua có kỳ hạn giấy tờ có giá
đối với TCTD, Chi nhánh NH nước ngoài. Tuy nhiên, NHNN vẫn có thể yêu cầu
TCTD phải trích lập đối với những khoản loại trừ trên nếu căn cứ vào kết quả thanh
tra, giám sát và thông tin tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá mức độ rủi ro.
Ngày 18 tháng 3 năm 2014, NHNN đã ban hành Thông tư 09/2014/TT-NHNN
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21
tháng 1 năm 2013. Ngoài việc bổ sung thêm quy định về trích lập dự phòng trong
trường hợp bán nợ xấu cho VAMC, về cơ bản các sửa đổi chính được nêu trong Thông
tư 09 chủ yếu vẫn là lùi thời hạn hiệu lực của một số quy định để tránh gây sốc đối với
thị trường. Cụ thể trích dự phòng đối với trái phiếu VAMC: Ngân hàng bán nợ xuất
toán ra khỏi các khoản mục nội bảng của bảng cân đối kế toán các khoản nợ xấu đã
được bán cho VAMC và ghi nhận trái phiếu đặc biệt VAMC phát hành là một tài sản.
Ngân hàng bán nợ phải trích lập dự phòng rủi ro cho trái phiếu đặc biệt mà VAMC
phát hành. Trái phiếu đặc biệt là tài sản có phải trích dự phòng rủi ro của NHTM.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tại các NHTM
1.2.4.1 Các nhân tố thuộc môi trường hoạt động
Chúng ta biết rằng chất lượng tín dụng có ý nghĩa rất lớn đối với sự tồn tại và phát
triển của NHTM và toàn xã hội. Để nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi phải hiểu rõ
tác động của các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, có thể chia làm 2 nhóm
nhân tố chính đó là nhóm các nhân tố: kinh tế và pháp lý.

a) Nhóm nhân tố kinh tế


×