Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của việt nam, so với các nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.14 KB, 29 trang )

Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………2
CHƯƠNG I………………………………………………………………………3

LÝ THUYẾT, LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN.…3
I. LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN…………………..3
1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển……………………3
2. Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”…..3
3. Quan điểm của K.Marx về tăng trưởng kinh tế…………………………….4
4. Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế……………………………...4
5. Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế……………………………..5
CHƯƠNG II……………………………………………………………………..7
THỰC TRẠNG VỀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ..7
I. TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1995 – 2005………………………...7
1. Nguồn lực và tăng trưởng của Việt Nam……………………………………7
2.Phân phối thu nhập của Việt Nam…………………………………………...9
3.Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á… .10
II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2010……13
1.Quy mô, năng lực đầu tư sản xuất…………………………………………...13
2.Chính sách kinh tế tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế………………13
3.Tăng trưởng GDP……………………………………………………………..15
III. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ SỐ PHÁT
TRIỂN…………………………………………………………………………...18
1.Tốc độ tăng trưởng GDP/người của Việt Nam……………………………..18
2.Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam so với tốc độ tăng trưởng thế giới…19
3.Tác động tích cực của quá trình hội nhập đến phát triển kinh tế Việt Nam21
CHƯƠNG III……………………………………………………………………26
GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM……………………26
Trang



1


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc
biệt là từ sau năm 1986. Sau khi kết thúc thời kỳ bao cấp, Việt Nam đã thực hiện
chính sách đổi mới Đảng và Nhà Nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng
đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công
nghiệp.
Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư,
nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu
tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh
mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích
tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như
lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất cho
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành viên
chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 11/01/2007. Đây vừa là cơ hội,
vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng
kiểm soát các luồng vốn đầu tư (trong nước và từ bên ngoài vào) con hạn chế. Nếu
không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng
vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ như
hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
là rất lớn nên tìm hiểu rõ hơn về những tác động của đầu tư với tăng trưởng kinh tế là
việc làm rất cần thiết và quan trọng với mỗi sinh viên nói chung và sinh viên chuyên
ngành kinh tế nói riêng.

Để làm sáng tỏ điều đó, chúng ta hãy cùng nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, so với các nước trên Thế giới”.

Trang

2


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

CHƯƠNG I

LÝ THUYẾT, LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
I. LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển
Lý thuyết cổ điển về tăng trưởng kinh tế do các nhà kinh tế học cổ điển nêu ra
mà các đại diện tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo. Adam Smith là người
sáng lập ra kinh tế học và là người đầu tiên nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế
một cách có hệ thống. Trong tác phẩm “Của cải của câc quốc gia”, ông đã nghiên cứu
về tính chất, nguyên nhân tăng trưởng kinh tế và làm thế nào để tạo điều kiện cho
kinh tế tăng trưởng. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là Học thuyết về “Giá trị lao
động”, ông cho rằng lao động là nguồn gốc cơ bản để tạo ra của cải cho đất nước. Học
thuyết về “Bàn tay vô hình”, theo ông nếu không bị chính phủ kiểm soát, người lao
động sẽ được thuận lợi thúc đẩy để sản xuất ra dịch vụ và hàng hóa cần thiết và thông
qua thị trường tự do này, lợi ích cá nhân sẽ gắn liền với lợi ích xã hội. Từ đó ông cho
rằng Chính phủ không có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc “Ai có gì được nấy”
Theo nguyên tắc này, tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì
thu được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công. Theo Adam
Smith, chính lao động được sử dụng trong những công việc có ích bà hiệu quả là

nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội. Số công nhân “hữu ích và hiệu quả” cũng như
năng suất của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích lũy. Adam Smith coi sự gia tăng tư
bản là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế.
Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo
(1772-1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Những quan điểm cơ bản của
David Ricardo về tăng trưởng kinh tế được thể hiện như sau:
-

Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, các yếu tố cơ bản của tăng

trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn, trong từng ngành và phù hợp với một trình
độ lỹ thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không
Trang

3


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

thay đổi. David Ricardo cho rằng trong nông nghiệp, năng suất cận biên của đất đai,
tư bản, lao động đều giảm dần và bất cứ biện pháp nào có thể thúc đẩy nâng cao năng
suất cận biên đều làm tăng lợi nhuận, từ đó tăng tỷ lệ hình thành tư bản, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
- Tuy xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên cứu tăng trưởng kinh tế,
nhưng ông vẫn đặc biệt nhấn mạnh tích lũy tư bản là nhân tố chủ yếu quyết định sự
tăng trưởng kinh tế còn các chính sách của Chính phủ không có tác động quan trọng
tới hoạt động của nền kinh tế.
3. Quan điểm của K.Marx về tăng trưởng kinh tế
K.Marx (1818 – 1883) không những là một nhà xã hội, chính trị học, lịch sử
học, và triết học xuất chúng mà còn là một nhà kinh tế học xuất sắc. Theo K.Marx các

yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật,
đặc biệt là vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
Theo K.Marx, sức lao động đối với nhà tư bản là một loại hàng hóa đặc biệt, giá
trị sử dụng của hàng hóa sức lao động không giống như giá trị sử dụng của các loại
hàng hóa khác, vì nó có thể tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó, giá trị đó
bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Về vốn kỹ thuật, Marx cho rằng tiến bộ kỹ thuật làm tăng số máy móc, dụng cụ
lao động dành cho người thợ. Do các nhà tư bản cần nhiêù vốn để khai thác tiến bộ kỹ
thuật, để nâng cao năng suất lao động của công nhân nên các nhà tư bản phải chia giá
trị thặng dư thành hai phần: một phần để tiêu dùng cho nhà tư bản, một phần để tích
lũy phát triển sản xuất. Đó là nguyên nhân tích lũy của chủ nghĩa tư bản.
Marx bác bỏ ý kiến về “cung tạo nên cầu”, theo ông khủng hoảng kinh tế là
một giải pháp nhằm khôi phục lại thế thăng bằng đã bị rối loạn. Các chính sách kinh
tế của Nhà Nước có ý nghĩa quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là chính sách
khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có.
4. Quan điểm tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
Trường phái tân cổ điển, đứng đầu là Alfred Marshall (1824 – 1924), tác phẩm
chính của ông là “Các nguyên lý của kinh tế học”, xuất bản năm 1890, do đó thời
Trang

4


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

điểm này được coi như mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển. Nội dung
cơ bản:
- Bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi
hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn, họ cho rằng vốn và lao động có thể thay
thế cho nhau, và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách kết hợp giữa các yếu tố

đầu vào.
- Cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Do chú trọng đến các nhân tố đầu vào của sản xuất, lý thuyết tân cổ điển còn
được gọi là lý thuyết trọng cung. Điểm giống với các nhà kinh tế cổ điển, các nhà
kinh tế tân cổ điển cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh tranh, khi nền kinh tế có
biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh
tế vì vị trí sản lượng tiềm năng với việc sử dụng hết nguồn lao động. Họ cũng cho
rằng Chính phủ không có vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế.
5. Quan điểm của Keynes về tăng trưởng kinh tế
Keynes cho rằng có hai đường tổng cung: đường tổng cung dài hạn AS – LR
phản ánh mức sản lượng tiềm năng, và đường tổng cung ngắn hạn AS – SR phản ánh
khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm
năng, mà thường cân bằng dưới mức sản lượng tiềm năng. Keynes cũng đánh giá cao
vai trò của tiêu dùng trong việc xác định sản lượng. Theo ông, thu nhập của các cá
nhân tăng thì xu hướng tiêu dùng trung bình sẽ giảm, xu hướng tiết kiệm trung bình
tăng. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm. Ông cho rằng đây
chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động kinh
tế. Keynes cũng cho rằng đầu tư đóng vai trò quyết định đến quy mô việc làm, khối
lượng đầu tư phụ thuộc lãi suất cho vay và năng suất cận biên của vốn. Ông cũng cho
rằng Chính phủ có vai trò to lớn trong việc sử dụng những chính sách kinh tế: chính
sách thuế, chính sách tiền tệ, lãi suất... nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nội dung cơ bản:
-

Sự cân bằng kinh tế:

Trang

5



Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

+ Thừa nhận quan điểm của Keynes là điểm cân bằng không nhất thiết ở mức
sản lượng tiềm năng mà thường ở dưới mức sản lượng đó.
+ Trong nền kinh tế hoạt động bình thường vẫn có thể có thất nghiệp và lạm
phát.
-

Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế:
+ Giống với trường phái tân cổ điển về các yếu tố tác động đến sản xuất: K, L,

R, T.
+ Đồng ý với tân cổ điển về quan hệ giữa các yếu tố, nhà sản xuất kinh doanh
có thể lựa chọn kỹ thuật, tỷ lệ kết hợp giữa các yếu tố, vai trò của đầu tư với tăng
trưởng. Nhấn mạnh vốn là cơ sở để sử dụng các yếu tố khác.
+ Các lực lượng dẫn tổng cầu: mức giá, thu nhập, dự kiến về tương lai, các
biến số về chính sách: thuế, chi tiêu chính phủ, cung tiền...
-

Vai trò của Chính phủ: Chính phủ là trung tâm định hướng, phối hợp các

hoạt động của toàn xã hội, ổn định, cân bằng tổng thể, kích thích, tạo nhân tố mới cho
sự phát triển. Vai trò của Chính phủ tăng lên.

Trang

6



Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 1995 - 2005
Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc nhóm nước
có tốc độ tăng tưởng cao nhất thế giới. Vào năm 2000, trong khi đa số các nền kinh tế
chuyển đổi ở Đông Âu vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng và chưa khôi phục được
mức GDP trên đầu người so với thời kỳ trước cải cách thì kể từ khi bắt đầu Đổi Mới,
Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7%/năm - tức là qua mỗi
một thập kỷ, quy mô nền kinh tế của chúng ta được nhân lên gấp đôi. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam không chỉ được coi là “thần kỳ” trong số những nền kinh
tế chuyển đổi, mà nó còn là một trong những “tấm gương” mà Ngân hàng Thế giới
hay Quỹ tiền tệ Quốc tế lấy làm điển hình cho các quốc gia đang phát triển khác. Nền
kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh là một hiện thực, không chỉ dưới con mắt
người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế vĩ mô, mà sự tăng trưởng
này còn có thể được cảm nhận ở đại bộ phận hộ gia đình và các tế bào của nền kinh
tế. Thế thì tại sao lại phải lo lắng và hoài nghi về triển vọng tăng trưởng? Vấn đề là ở
chỗ, liệu chúng ta đã phát huy hết tiềm năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa? Chất
lượng, hiệu quả tăng trưởng của chúng ta ra sao? Chúng ta có thể tiếp tục duy trì tốc
độ tăng trưởng cao trong những năm tới hay không?
1. Nguồn lực và tăng trưởng của Việt Nam
Một cách đánh giá xem liệu nền kinh tế của chúng ta đã sử dụng các nguồn
lực một cách hiệu quả để đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất hay chưa là so sánh với các
nền kinh tế khác, chứ không phải là tự so sánh với mình như cách chúng ta hay làm
xưa nay. Trong bảng dưới đây, để có một cái nhìn đối chiếu, chúng tôi cung cấp số
liệu của ba nước Việt Nam, Ấn Độ, và Trung Quốc trong năm 2003 (là năm gần nhất
có số liệu đầy đủ của cả ba nước). Trừ những số liệu về tăng trưởng, các số liệu còn
lại đều được tính trên đầu người.


Trang

7


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Bảng 1: Một số chỉ tiêu về nguồn lực và tăng trưởng của Việt Nam, Ấn Độ, Trung
Quốc (2003)
Nguồn lực

Việt Nam

Ấn Độ

Trung Quốc

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

19$

4$

41$

Viện trợ phát triển chính thức

22$

1$


1$

Kiều hối

28$ – 50$

22$

14$

Dầu lửa (2003 là 30$/thùng)

1,5 thùng

0,2 thùng

1 thùng

114$ -136$

33$

86$

483$

565$

$1.100


0,24 – 0,28

0,05

0,08

7 – 7,5%

7 – 8%

9%

Tổng nguồn lực/đầu người
GDP/đầu người
Hệ số nguồn lực/GDP đầu người
Tăng trưởng GDP

Nguồn: World Development Indicators 2005 và Tài liệu tư vấn của IMF.
Ghi chú:
i) Có hai số liệu về kiều hối của Việt Nam: số liệu chính thức của IMF (28$/đầu
người) và số liệu ước tính phi chính thức (50$/đầu người).
ii) Số liệu về giá dầu lửa lấy ở mức 30$/thùng của năm 2003.
Những số liệu này cho thấy, về mặt tuyệt đối, nguồn lực trên đầu người có
được từ nguồn ngoại sinh (bên ngoài nền kinh tế) hay từ nguồn có sẵn của Việt Nam
vào khoảng 114-136$, cao gấp 3-4 lần của Ấn Độ (33$) và gấp rưỡi Trung Quốc
(86$). Còn về mặt tương đối hệ số nguồn lực sẵn có so với GDP đầu người của ta là
0,24-0,28, gấp khoảng 5 lần so với Ấn Độ (0,05) và bằng 3 đến 3,5 lần của Trung
Quốc (0,08). Thuận lợi của nước ta còn lớn hơn trong hơn 1 năm trở lại đây khi giá
dầu lửa đã tăng đến mức kỷ lục kể từ lần khủng hoảng dầu lửa trước. Thế nhưng về

tốc độ tăng trưởng, chúng ta không hơn Ấn Độ và rõ ràng là thua Trung Quốc khá xa.
Trên cả ba phương diện văn hóa, chính trị và xã hội, Việt Nam đều có một số
thuận lợi cơ bản so với Ấn Độ. Về mặt văn hóa và xã hội, chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ
rõ ràng là một cản trở to lớn cho phát triển kinh tế của nước này. Về mặt chính trị, sự
Trang

8


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

bất ổn về chính trị và đi kèm với nó là sự thay đổi về đảng cầm quyền, nội các và
chính sách cũng làm môi trường kinh tế - chính trị của Ấn Độ trải qua nhiều biến
động, có khi đột ngột. Thêm vào đó, tình trạng rối loạn ở Kashmir và Assam, tranh
chấp giữa các giáo phái dẫn đến những cuộc đốt phá và giết chóc ở Mumbai - một
trung tâm thương mại của Ấn Độ v.v. Tất cả những bất lợi này của Ấn Độ không hề
xuất hiện ở Việt Nam trong suốt hơn hai chục năm qua.
Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng dưới mức tiềm năng mà lẽ ra nó phải
đạt được. Tăng trưởng kinh tế ở đây được đo lường bằng tốc độ thay đổi tổng lượng
giá trị gia tăng do nền kinh tế tạo ra trong một năm. Chúng ta có nhiều lý do để lo
lắng về khả năng tạo ra giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế của Việt
Nam so với các đối thủ cạnh tranh của mình. Chúng ta phát triển thấp hơn tiềm năng
là vì ngoài mục tiêu tăng trưởng, chúng ta còn có trách nhiệm duy trì sự công bằng về
kinh tế giữa những nhóm người có mức thu nhập khác nhau.
2. Phân phối thu nhập của Việt Nam
Có một sự đánh đổi giữa tăng trưởng và công bằng kinh tế. Đúng là chúng ta
đã cố gắng rất nhiều để cải thiện mức sống cho những nhóm người có mức thu nhập
thấp nhất, và điều này thể hiện trong thành tích xóa đói giảm nghèo đầy ấn tượng của
Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, một lần nữa, không chỉ nên so sánh với bản
thân mình mà cần so sánh với các quốc gia khác. Bảng dưới đây cung cấp những chỉ

số phản ánh mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập của ba nước Việt Nam, Ấn
Độ và Trung Quốc.

Bảng 2: Phân phối thu nhập của Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc năm 2002
% tổng thu nhập Việt Nam

Ấn Độ

Trung Quốc

Trang

9


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

20% hộ có thu

49%

46%

50%

6,1%

8,1%

4,7%


nhập cao nhất
20% hộ có thu
nhập thấp nhất
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002 (Bảng 50), Niên giám thống kê
2004 (Bảng 308).
Như vậy, phần trăm trong tổng thu nhập của 20% hộ giàu nhất ở Việt Nam cao
hơn của Ấn Độ và thấp hơn của Trung Quốc một chút; đồng thời phần trăm trong
tổng thu nhập của 20% hộ nghèo nhất ở Việt Nam lại thấp hơn của Ấn Độ và cao hơn
của Trung Quốc. Điều này có nghĩa là, về tính bình đẳng trong phân phối thu nhập thì
Việt Nam tuy hơn Trung Quốc nhưng lại không bằng Ấn Độ. Nếu kết hợp với số liệu
trong Bảng 1 thì có thể rút ra nhận xét rằng về mặt tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt
Nam xấp xỉ với Ấn Độ nhưng lại thấp hơn Trung Quốc. Còn vềphương diện phân
phối thu nhập, Việt Nam khá giống Trung Quốc - là nước có phân phối bất bình đẳng
nhất trong ba nước. Từ những đối chiếu này, chúng ta thấy Việt Nam có thể vừa tăng
trưởng cao hơn (như Trung Quốc), đồng thời vẫn có thể tạo ra một sự phân phối bình
đẳng hơn (như Ấn Độ).
3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và một số nước Đông Nam Á
Thực tế là Việt Nam hiện đang tăng trưởng dưới tiềm năng, chúng ta còn có
cơ sở để lo ngại về khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng trong những năm tới.
Thứ nhất là tình trạng lãng phí và kém hiệu quả trong đầu tư, thất thoát trong đầu tư
xây dựng cơ bản và đầu tư công nói chung ước tính có thể lên tới 30-40%. Còn về
đầu tư thì tỷ lệ đầu tư vào khu vực công đã và đang cao hơn rất nhiều so với khu vực
dân doanh, và điều này sẽ chiếm nguồn lực và lấn án đầu tư của khu vực tư, số liệu
thống kê đều cho thấy khu vực tư có tốc độ tăng trưởng cao hơn, suất sinh lợi cao
hơn, và tạo ra khoảng 90% việc làm mới cho xã hội. Hệ quả chung là một đồng vốn
đầu tư ngày càng tạo ra ít giá trị gia tăng hơn, và do vậy ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ hai, mối quan hệ tay

Trang


10


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

ba giữa Nhà Nước, Doanh Nghiệp Nhà Nước và hệ thống Ngân Hàng Thương Mại
quốc doanh đã và đang là một trở ngại to lớn trên con đường nâng cao hiệu quả của
khu vực kinh tế Nhà Nước và sự ổn định, bền vững của hệ thống Ngân Hàng. Điều
này càng trở nên trầm trọng hơn khi Nhà Nước, vì theo đuổi những chỉ tiêu kế hoạch
có tính vĩ mô (tăng trưởng 8,5% trong năm 2005 chẳng hạn) đã can thiệp quá sâu vào
nền kinh tế bằng những biện pháp mệnh lệnh, duy ý chí. Hệ quả tất yếu là hiệu quả
đầu tư của toàn nền kinh tế sẽ giảm sút. Nguy hại hơn, những “biến dạng” do đầu tư
cưỡng bách và chính sách can thiệp đột xuất sẽ gây nên những hậu quả lâu dài khôn
lường cho nền kinh tế. Thứ ba, nguy cơ tiềm tàng có khả năng dẫn tới khủng hoảng:
tỷ lệ nợ xấu của các Ngân Hàng Thương Mại (chủ yếu là Ngân Hàng quốc doanh)
theo tiêu chuẩn quốc tế rất cao, hiệu quả đầu tư thấp (thể hiện qua chỉ số ICOR tăng
rất nhanh trong 10 năm trở lại đây), những triệu chứng của bong bóng tài sản và tính
kém linh hoạt và minh bạch của thị trường bất động sản v.v. Những nguy cơ này cần
được khắc phục trước khi nền tài chính của chúng ta hội nhập sâu hơn và trở nên mở
hơn, mà điều này là một tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Hơn nữa, kinh
nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Đông Á và Đông Nam Á năm
1997-1998 cho thấy, khả năng miễn nhiễm rủi ro và phục hồi của nền kinh tế Việt
Nam không cao. Cụ thể là mặc dù Việt Nam không chịu ảnh hưởng nhiều như những
nước khác (một phần là do vào thời điểm 1997, mức độ hội nhập kinh tế của Việt
Nam còn hạn chế), nhưng tốc độ phục hồi của nền kinh tế lại rất chậm chạp. Nếu như
các nước bị ảnh hưởng lớn nhất như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonexia đều có
thể khôi phục lại mức tăng trưởng của thời kỳ tiền khủng hoảng chỉ trong 1 đến 2
năm, thì Việt Nam cho đến tận bây giờ vẫn chưa khôi phục lại được tốc độ tăng
trưởng 8,15% của năm 1997.


Trang

11


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số nước Đông Á và Đông Nam Á 1996
– 2000 (%)
Nước/năm

1996

1997

1998

1999

2000

Hàn Quốc

6,75

5,01

-6,69


10,89

8,81

Thái Lan

5,88

-1,45

-10,77

4,22

4,31

Malaysia

10,00

7,32

-7,36

6,08

8,30

Indonexia


7,64

4,70

-13,13

0,85

4,77

Philippines

5,85

5,19

-0,58

3,40

4,01

TrungQuố

9,59

8,84

7,80


7,05

7,94

9,34

8,15

5,80

4,80

5,50

c
Việt Nam

Nguồn: Ngân hàng Thế giới, “World Development Indicators 2002”
Thứ tư, khung pháp lý của chúng ta tuy đã hoàn thiện nhưng còn rất nhiều bất
cập. Tình trạng luật vừa thừa vừa thiếu, không đồng bộ, thiếu nhất quán, nhiều điểm
còn chưa phù hợp và hài hòa với thông lệ quốc tế, quy trình làm luật còn cần phải
hoàn thiện v.v. Điều này làm nản lòng các đầu tư và có thể làm chậm lại và yếu bớt
làn sóng đầu tư nước ngoài đang có dấu hiệu trở lại Việt Nam trong một vài năm trở
lại đây. Nền kinh tế của nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng tự hào trong 20
năm đổi mới. Tuy vậy, nó đang phát triển dưới mức mà lẽ ra nó phải đạt được. Hơn
thế, có dấu hiệu cho thấy nền kinh tế của nước ta đang vận hành kém hiệu quả, đồng
thời tính bền vững, khả năng miễn nhiễm và phục hồi sau khủng hoảng không cao.
Nếu không sớm hoàn thiện khung thể chế và điều chỉnh chính sách kinh tế một cách
thích hợp thì e rằng chúng ta sẽ bõ lỡ chuyến tàu hội nhập và toàn cầu hóa của thế kỷ
21.


II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

Trang

12


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

1. Quy mô, năng lực đầu tư sản xuất
Trong 2 năm (2006 – 2007) Việt Nam đã tiến thêm được một bước trên chặng
đường phát triển mới, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Từ quý II/2007, măc
dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến nền kinh tế nước ta nhưng
Việt Nam đã sớm vượt qua và giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng
trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân. Trong cả thời kỳ 2006 – 2010 khoảng 7%,
mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể.
Quy mô, năng lực sản xuất của các ngành đều tăng, GDP năm 2010 gấp 2 lần
so với năm 2000, ước đạt hơn 101 tỷ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỷ USD).
Theo giá thực tế bình quân đầu người ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế
hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập
thấp và trở thành lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.
Cấu trúc kinh tế đã có những thay đổi tích cực, giao lưu kinh tế đã phát triển,
kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006 – 2010 đạt 56 tỷ USD/năm, bằng 25 lần
thời kỳ 2001 – 2005 và tăng 17,2%/năm kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng ngày càng
tăng từ 4 mặt hàng có kim ngạch lớn hơn 3 tỷ USD 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm
2010. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA, ngày càng tăng và có
nhiều thuận lợi, vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8 tỷ USD,
năm 2008 đạt 11,5 tỷ USD, chiếm 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất

nhiều so với năm trước. Năm 2009, 2010 mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI
thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm.
2. Chính sách kinh tế tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
Cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những
năm cuối kỳ kế hoạch tỷ lệ huy động vốn vào Ngân sách Nhà nước bình quân 5 năm ở
mức khoảng 28% GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc
gia được đảm bảo, ước tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5%
GDP, dư nợ ngoài nước của quốc gia so với GDP ở mức an toàn cho phép. Chính
sách tiền tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc
Trang

13


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống Ngân Hàng
Thương Mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng, tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế hơn 8%. Cán cân
thanh toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế hoạch, còn 2
năm cuối (2009 – 2010) tuy có mức thiếu hụt nhưng không bị phá vỡ cân đối.
Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua
theo giá hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỷ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch),
bằng 42,7% GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn,
kỹ thuật cao, nhiều khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, cụm công nghiệp
được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở tất cả các vùng, miền trong cả
nước.

Tăng trưởng GDP trung bình trong giai đoạn 2000 – 2007 đạt 7,6% năm 2007,
tăng trưởng 8,48% đây cũng là mức tăng cao nhất từ sau khủng hoảng tài chính châu
Á 1997. So với các nước trong khu vực, trên thế giới, tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam những năm gần đây khá ấn tượng. Dù đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhưng
đây không phải là một hiện tượng thời kỳ vì theo tính toán của các nhà kinh tế thì tăng
trưởng của Việt Nam đang ở dưới mức tiềm năng.
2008 chịu ảnh hưởng từ bất ổn kinh tế vĩ mô, khủng hoảng tài chính thế giới,
tăng trưởng GDP chỉ đạt 6,19%. Tốc độ tăng trưởng này thấp hơn nhiều so với 2007,
mục tiêu đã đề ra của Chính phủ, nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng giảm nhiều nhất
là Công nghiệp, xây dựng. Năm 2008, tăng trưởng của Công nghiệp, xây dựng chỉ
khoảng 6,33%, trong khi đó 2007 là 10,6%. Ngành xây dựng có mức suy giảm mạnh
nhất từ 12,01% năm 2007 -> 0,02% năm 2008. Nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy
sản năm 2008 tăng trưởng 3,79%, không biến động nhiều so với 3,4% của 2007. Quý
I/2009, GDP đạt 3,1% thấp hơn nhiều so với 2008, những năm trước đó. Tăng trưởng
Công nghiệp chỉ còn 1,5%, dịch vụ 5,4%, nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 0,4%.
Trang

14


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam nêu rõ kinh tế Việt Nam đã đạt
mức tăng 6,9% trong quý IV/2009, tăng so với mức điều chỉnh 6,04%. Trong quý III,
đạt mức tăng 5,32% trong cả năm. Điều này đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ của Việt
Nam sau khi tốc độ tăng trưởng trong quý I/2009 chỉ đạt mức 3,14%. GDP tăng dần,
ổn định qua các quý cũng cho thấy kinh tế Việt Nam đã ra khỏi thời điểm xấu nhất,
đang trên đà phục hồi. Trong các lĩnh vực kinh tế, công nghiệp và xây dựng tăng
trưởng chậm lại do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, chỉ đạt 5,52%. Giá trị sản xuất
công nghiệp tháng 1 giảm 0,2% so với cùng kỳ 2008, liên tiếp đạt thấp hơn trong các

tháng sau. Từ tháng 8 -> cuối năm, tình hình được cải thiện, đưa mức tăng chung cả
năm lên 5,5%. Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 1,83%, dịch vụ 6,63%.
Chính sách kính thích kinh tế là 1 lý do đưa Việt Nam ra khỏi “đáy”, tăng trưởng ổn
định trong 2009, vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 15,3% so với 2008, bằng 42,8%
GDP. Vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước tăng 40,5%, trong đó vốn từ Ngân sách chiếm
21,8% tổng vốn, tăng 6,8% so với kế hoạch năm. Vốn đầu tư ngoài Nhà nước 2009
tăng 13,9% trong khi khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Tổng
mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu, dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước đạt
1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%. Nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so
với 2008. Trong đó chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 6,52% thấp hơn mức 7% đặt ra
trong kế hoạch. Về mức sống của người dân, theo số liêu được công bố, thu nhập bình
quân hàng tháng của lao động khu vực Nhà nước 2009 đạt lớn hơn 3 triệu đồng, tăng
14,2% so với 2008. Bất chấp tình hình kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo giảm hơn 1%,
xuống còn 12,3% 2009. Báo cáo của tổng cục Thống kê cho biết tổng thu Ngân sách
tính đến 15/12/2009 ước đạt xấp xỉ dự toán năm là 389.300 nghìn tỷ.
3. Tăng trưởng GDP
Trong 5 năm 2006 – 2010, giá trị tổng sản phẩm quốc gia (GDP) của toàn thế
giới tính theo giá thực tế ước tính đạt 463.675,35 tỷ USD, gấp 1,63 lần tổng GDP giai
đoạn 1991 – 2000. Tốc độ tăng trưởng trung bình ước tính của cả giai đoạn này là
3,2%/năm (so với 3,1%/năm trong giai đoạn 10 năm 1991-2000).

Trang

15


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 kéo dài sang năm
2009 lan rộng trên toàn thế giới đã khiến GDP toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD

so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP toàn cầu tăng trưởng âm trong vòng 20
năm trở lại đây), kéo tốc độ phát triển trung bình của toàn giai đoạn đi xuống, từ
4,04%/năm cho giai đoạn 2001 đến 2007, xuống còn 3,2% cho cả giai đoạn 2001 2010. Trong năm 2010, ước tính kinh tế thế giới đã bước đầu phục hồi với tốc độ tăng
trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này được dự báo sẽ giảm xuống 4,2%
trong năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012 (IMF).
Tốc độ tăng trưởng GDP trong thời kỳ này có biên độ biến động rộng hơn hẳn
so với thời kỳ trước. Mặc dù đạt những mốc tăng trưởng cao như 5,2% vào năm 2007,
kinh tế thế giới cũng có những đợt giảm sâu từ 4,7% năm 2000 giảm xuống 2,2% năm
2001 (giảm 2,5%) hay từ 5,2% năm 2007 giảm xuống 3,2% năm 2008 (giảm 2%) và
-1,3% năm 2009 (giảm 4,5%), trong khi mức giảm sâu nhất của giai đoạn 1990- 2000
chỉ là 1,5% ( từ 4% năm 1997 xuống 2,5% năm 1998). Biên độ biến động rộng của
tốc độ tăng trưởng cho thấy cùng với quá trình phát triển nhanh, có nhiều nhân tố rủi
ro tiềm ẩn, cùng kinh tế thế giới ngày càng trở nên khó dự báo và kiểm soát.
Cơ cấu GDP từ nhóm các nước phát triển và các nước đang phát triển có sự
thay đổi rõ rệt. Nhóm các nước đang phát triển chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
tổng GDP của thế giới, đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định ở mức trên
6% trong suốt thời kỳ từ 2003 đến 2008, và là động lực để kiềm chế độ suy giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế thế giới trong thời kỳ suy thoái 2008 – 2009. Tuy vậy, nhóm
nước phát triển vẫn chiếm trên 70% giá trị GDP của toàn thế giới. Trong đó Hoa Kỳ
là nước có tỷ trọng GDP luôn ở mức đứng đầu, đạt 14441.42 tỷ USD năm 2008 (trước
khi rơi xuống đáy suy thoái vào năm 2009), chiếm 23,79% tổng GDP của thế giới,
gấp 2,94 lần GDP của Nhật Bản (nước đứng thứ 2) và 3,33 lần GDP của Trung Quốc
(nước đứng thứ 3). Tuy nhiên tỷ trọng của GDP của Hoa Kỳ trong tổng GDP của toàn
thế giới đã giảm từ 32,44% năm 2001 xuống chỉ còn 23,79% năm 2008.
Năm 2010, kinh tế của VN tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác động
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP theo
Trang

16



Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III
tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. Ước tính GDP cả năm 2010 có thể
tăng 6,7%, cao hơn nhiệm vụ kế hoạch (6,5%). Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn
phục hồi chậm chạp và trong nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế VN đạt được tốc độ
tăng trưởng tương đối cao như trên là 1 thành công. Với kết quả này tốc độ tăng
trưởng GDP cả giai đoạn 2006 – 2010 đạt bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân
bình đầu người năm 2010 ước đạt 1.160 USD.

Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ
rệt. Công nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất
công nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009 và năm 2010 ước
tăng 14% so với năm 2009. So với khu vực công nghiệp thì khu vực dịch vụ cũng có
sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới những ở mức độ thấp hơn. Tốc độ tăng
trưởng trong 9 tháng đầu năm là 7,24% và triển vọng tốc độ tăng trưởng khu vực dịch
vụ cả năm 2010 có thể đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều
khó khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm
mưa lũ lớn kéo dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt
hại nặng nề cho sản xuất vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do
thực hiện nhiều chính sách và giải pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về
vốn, vật tư, tiêu thụ kịp thời, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng đầu

Trang

17


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3


năm đã tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2009, và ước cả năm 2010 tăng khoảng
2,8%.
III. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ SỐ PHÁT
TRIỂN
1. Tốc độ tăng trưởng GDP/người của Việt Nam
1990-2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam liên tục giữ ở mức cao,
tốc độ tăng GDP bình quân là 7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, tốc độ tăng dân số
kìm hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng.
1990, GDP/người của Việt Nam chỉ khoảng trên 100 USD, 2007, GDP/người đã đạt
835 USD, tăng trên 8 lần. 2008, GDP/người ước đạt khoảng 1.047 USD/người (Bảng
1). Với mức thu nhập này, Việt Nam lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo
(nhóm nước có thu nhập thấp nhất). Theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới,
phân nhóm các nước theo mức thu nhập gồm:
1. Nhóm 1: Nhóm những nước có thu nhập thấp nhất, với thu nhập quốc nội (GDP)
bình quân đầu người dưới 935 USD;
2. Nhóm 2: Nhóm các nước có thu nhập trung bình dưới, với GDP bình quân đầu
người trong khoảng từ 936 đến 3.705 USD;
3. Nhóm 3: Nhóm những nước có thu nhập trung bình trên, với GDP bình quân đầu
người trong khoảng từ 3.705 đến 11.455 USD;
4. Nhóm 4: Nhóm những nước thu nhập cao, có GDP bình quân đầu người trên
11.455 USD.
2008 đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nhóm nước
có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập trung bình (nhóm 2). So với các
nước trong khu vực, Việt Nam có mức tăng trưởng cao thứ ba, sau Trung Quốc và Ấn
Độ. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam so với tốc độ tăng trưởng kinh tế
thế giới, kinh tế các nước và nhóm nước.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của Việt Nam
giai đoạn 1990 - 2008
Trang


18


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam so với tốc độ tăng trưởng thế giới
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
và nhóm nước theo khu vực

ĐVT: %

Do tốc độ tăng trưởng công nghiệp cao nên xu hướng kinh tế Việt Nam là đang
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp (khu vực II), giảm tỷ

Trang

19


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

trọng nông nghiệp (khu vực I), tỷ trọng khu vực dịch vụ (khu vực III) tương đối ổn
định qua các năm gần đây. Kết quả này cũng cho thấy, nền kinh tế Việt Nam đang
chuyển theo hướng công nghiệp hóa.
Hình 1: Cơ cấu kinh tế Việt Nam theo khu vực ngành kinh tế

Những đóng góp về phát triển kinh tế nêu trên đã góp phần cải thiện mức sống
dân cư và giảm tỷ lệ nghèo đói tại Việt Nam. Tỷ lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm

giai đoạn 1993 - 2006 có thể xem Hình dưới đây. Chuẩn nghèo thay đổi theo các năm.
Chuẩn nghèo của Chính phủ Việt Nam thời kỳ 2006 - 2010 là 200.000
đồng/người/tháng đối với khu vực nông thôn và 260.000 đồng/người/tháng đối với
khu vực thành thị. Chuẩn nghèo thực phẩm là 146.000 đồng/người/tháng đối với nông
thôn và 163.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị. Nhìn vào Hình 2, cho
thấy, tỷ lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm giảm đáng kể, từ 58,1% nghèo chung
năm 1993, xuống còn 16% năm 2006. Tỷ lệ nghèo thực phẩm (đói) từ 24,9% năm
1993, xuống còn 4,9% năm 2006. Đây là một thành tích đáng khích lệ về giảm nghèo
tại Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế công nhận. Việt Nam là một trong số ít các
nước đã và đang thực hiện tốt chiến lược thiên niên kỷ - tăng trưởng và giảm nghèo.
Hình 2: Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giai đoạn (1993 - 2006)

Trang

20


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

3. Tác động tích cực của quá trình hội nhập đến phát triển kinh tế Việt Nam
Để đánh giá nguồn gốc cho sự tăng trưởng, các nhà kinh tế thường dùng hàm
tổng năng suất nhân tố. GDPt = Atf(Kt, Lt) trong đó A là tiến bộ về hiệu quả kinh tế
như công nghệ, phương pháp quản lý, điều hành… (được gọi chung là tổng năng suất
các nhân tố sản xuất); Ba nguồn gốc của tăng trưởng tổng sản phẩm là sự gia tăng
tổng năng suất các nhân tố sản xuất (A), vốn (K) và lao động (L) theo thời gian t.
Đóng góp của từng yếu tố được xác định theo công thức: GGDP = GA + bKGK + bLGL
trong đó GA là tốc độ tăng trưởng tổng năng suất các nhân tố sản xuất; GK là tốc độ
tăng trưởng của vốn; và GL là tốc độ tăng trưởng của lao động; b K là tỷ trọng của
thặng dư sản xuất trong GDP; và bL là tỷ trọng của thù lao lao động trong GDP. bK và
bL chính là số mũ của hàm sản suất Cobb-Douglas. Từ kết quả số liệu thống kê về

GDP, vốn (K), lao động (L) giai đoạn 1990-2008 của VN, áp dụng mô hình kinh tế
lượng ta có kết quả hàm sản xuất:
LNGDP = 1.35 + 0.83LNK + 0.27LNL hay GDP = 3.88*K 0.83*L0.17
Kết quả mô hình trên cho biết b K bằng 0,83 và bL bằng 0,17. Từ các hệ số này,
và tốc độ tăng trưởng của GDP, tốc độ tăng vốn K, và tăng lao động L, ta xác định các
yếu tố đóng góp của vốn, lao động và trình độ công nghệ, quản lý (hay yếu tố tổng
năng suất nhân tố) vào tăng trưởng GDP. Kết quả tính toán cho biết để tăng 1% GDP,
thì đóng góp của yếu tố vốn là 73%, đóng góp của yếu tố lao động là 2,5% và đóng
góp của yếu tố công nghệ, quản lý hay tổng năng suất nhân tố là 24,5%. Kết quả này

Trang

21


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

cho thấy yếu tố vốn đóng góp phần lớn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Nhờ có
chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập, dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam trong
những năm qua không ngừng tăng. Tỷ trọng vốn nước ngoài chiếm trên 30% tổng vốn
đầu tư xã hội. Dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam gồm có vốn đầu tư trực tiếp (FDI),
vốn hỗ trợ phát triển (ODA), kiều hối và vốn đầu tư gián tiếp (FPI) (Hình 3).
Hình 3: Nguồn vốn FDI, ODA, kiều hối, FPI vào Việt Nam giai đoạn 1992-2007

Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF, WB
Đây là yếu tố đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Ngoài yếu
tố vốn, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn có yếu tố xuất khẩu (XK).
Trên phương diện tổng cầu, XK đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế Việt
Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng trong những năm qua cả
về qui mô lẫn tốc độ (Hình 4).


Trang

22


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Hình 4 : Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP - %

Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê các năm và ADB
Từ công thức tính GDP, ta biết XK là một bộ phận quan trọng trong GDP, mỗi
sự thay đổi của XK sẽ kéo theo sự thay đổi của GDP. Hình 4 cho thấy, tốc độ tăng
trưởng XK và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Khi
tốc độ tăng trưởng XK cao thì dẫn tới nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Nghiên cứu về
mối quan hệ giữa xuất khẩu (XK) với tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế sử dụng
công thức:

Từ số liệu thống kê, và áp dụng công thức trên cho kết quả: năm 2001 tốc độ
tăng trưởng GDP là 6,89% thì XK đóng góp 0,97% (chiếm tỷ lệ 14%), năm 2007,
GDP tăng 8,48%, đóng góp của XK là 2,62% (chiếm 24,43%) (Bảng 3)

Trang

23


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Bảng 3: Đóng góp tăng trưởng GDP theo tổng cầu 2001-2007


Nguồn: Tính toán từ số liệu tổng cục thống kê và ADB;
Cùng với tăng cường xuất khẩu, tăng đầu tư nước ngoài, lượng dự trữ ngoại tệ
của Việt Nam cũng tăng cao trong các năm gần đây đảm bảo ổn định thị trường ngoại
hối, giữ tỷ giá ổn định trong thời gian dài, chính sách tỷ giá kích thích XK, đây cũng
là điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Số liệu minh chứng cho nhận định này là dự
trữ ngoại tệ của Việt Nam tăng từ gần 3,4 tỷ USD, chiếm 10,4% GDP năm 2001, lên
gần 22 tỷ USD, chiếm 30,7% GDP năm 2007 (Bảng 4).

Bảng 4: Dự trữ ngoại hối Việt Nam

Trang

24


Đại Học Thương Mại – HK1B2 – Nhóm 3

Nguồn: IMF Staff Country Report No 03/382, December 2003 và No 07/338,
December 2007

Trang

25


×