Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.57 KB, 177 trang )

QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG
THÔN
THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa .................................................................................................................. i
Lời cam đoan ..................................................................................................................ii
Mục lục ..........................................................................................................................iii
Danh mục các chữ viết tắt ............................................................................................vii
Danh mục các bảng .....................................................................................................viii
Danh mục các sơ đồ, biểu đồ và kịch bản giải pháp ..................................................... ix
MỞ ĐẦU......................................................................................................................... 1
Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI KỲ CHUYỂN
ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 13
1.1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai, nông nghiệp, nông thôn ............................... 13
1.1.1 Vị trí, vai trò của đất đai trong đời sống kinh tế – xã hội .............................. 13
1.1.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn .............................................................. 15
1.2 Một số nội dung lý luận về sở hữu và sở hữu ruộng đất .................................. 19
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu và sở hữu ruộng đất .... 19
1.2.2 Quan điểm tư sản về sở hữu ruộng đất và các mô hình về chế độ sở hữu
ruộng đất ở các nước TBCN ......................................................................................... 27
1.2.3 Lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc ...... 31
1.3 Một số nội dung lý luận về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn ..................................................................................... 33
- iv -
1.3.1 Khái niệm, nội dung quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn.................................................................................................. 33
1.3.2 Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai nông nghiệp trong đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam ........................................................................ 38


1.4 Chính sách đất đai một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm
về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ....... 46
1.4.1 Chính sách đất đai ở một số nước ............................................................... 46
1.4.2 Những bài học kinh nghiệm về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai của các
nước đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn ..................................................... 60
Tổng kết chương 1................................................................................................... 63
Chương 2 - THỰC TRẠNG QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI KỲ CHUYỂN
ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 65
2.1 Tổng quan về tình hình đất đai trong nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam ..... 65
2.2 Những thay đổi cơ bản của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam....................... 68
2.2.1 Đổi mới hệ thống tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn ............................................................................................................. 68
2.2.2 Quan hệ giữa Nhà nước và nông dân về đất đai trong nông nghiệp và
phát triển nông thôn ...................................................................................................... 70
2.3 Sự vận hành quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam ............................................... 74
2.3.1 Về tổ chức - quản lý đất đai từ lúc chuyển đổi kinh tế đến nay .................. 74
2.3.2 Quan hệ giữa các nông hộ trong giao dịch trao đổi, mua bán đất đai nông
thôn và sự ___________xuất hiện tình trạng nông dân không có đất, thiếu đất sản
xuất .................. 78
2.3.3 Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với nông dân có đất bị thu
hồi để thực hiện các dự án............................................................................................. 81
- v -
2.3.4 Một số vấn đề phức tạp nảy sinh trong quá trình vận hành quan hệ tổ
chức – quản lý đất đai nông nghiệp ............................................................................. 89
2.4 Đánh giá chung về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp thời
kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam ............................................................................ 102
2.4.1 Những thành tựu của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông

nghiệp từ khi đổi mới đến nay .................................................................................... 102
2.4.2 Những bất cập hiện nay của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp ......................................................................................................................... 112
2.4.3 Những thách thức đang đặt ra đối với quá trình hoàn thiện và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý đất đai nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay ....................... 129
Tổng kết chương 2 ................................................................................................ 137
Chương 3 - MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN
LÝ ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN .......... 138
3.1 Xu hướng phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ................................................................................ 138
3.1.1 Xu hướng phát triển bền vững nông nghiệp, nông dân và nông thôn ....... 138
3.1.2 Cơ hội và thách thức phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn khi
Việt Nam thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại quốc tế trong lĩnh vực nông
nghiệp......................................................................................................................... 141
3.1.3 Dự báo một số tiêu chí về dân số và đất đai nông nghiệp đến năm 2020 . 144
3.2 Một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quan hệ tổ chức - quản lý đất đai
trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam .. 147
3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai nông nghiệp ... 147
3.2.2 Nhóm giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức - quản lý đất đai NN .......... 163
3.2.3 Nhóm các giải pháp hỗ trợ khác ................................................................ 176
3.3 Một số kiến nghị ............................................................................................. 178
- vi -
Tổng kết chương 3 ................................................................................................ 179
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 181
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
- vii -
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH: Chủ nghĩa xã hội
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH: Đồng bằng sông Hồng
ĐCSVN: Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐNB: Đông Nam Bộ
ĐTH: Đô thị hóa
ĐTM: Đô thị mới
KCN: Khu công nghiệp
KCX: Khu chế xuất
KDC: Khu dân cư
LLSX: Lực lượng sản xuất
NN & PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PTSX: Phương thức sản xuất
QHSX: Quan hệ sản xuất
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
TLSX: Tư liệu sản xuất
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Ủy ban nhân dân
- viii -
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT TÊN BẢNG
01 Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam từ năm 1994 – 2007
02 Bảng 2.2: Cơ cấu sử dụng đất phân theo địa phương các năm 1994, 2002 và 2007
03 Bảng 2.3: Tổng thu ngân sách từ nguồn thu trong nước (không tính thu từ dầu thô)
04 Bảng 2.4: Mức độ hoàn thành qui hoạch tổng thể đất đai của 81 xã ở 9 tỉnh vùng
Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và ĐBSCL
05 Bảng 2.5: Tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp ở các xã
thuộc 9 tỉnh vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và ĐBSCL
06 Bảng 2.6: Thực trạng hộ nông dân không có đất và thiếu đất sản xuất ở ĐBSCL
07 Bảng 2.7: Tình trạng không có đất và thiếu đất sản xuất nông nghiệp của các nông

hộ
08 Bảng 2.8: Diện tích đất đã thu hồi tại các xã để phát triển các KCN tập trung ở Hà
Nội tính đến năm 2007
09 Bảng 2.9: Tình trạng bị ảnh hưởng của các hộ dân và lao động khu vực phát triển
các KCN tập trung của Hà Nội
10 Bảng 2.10: Tỷ lệ bồi thường về đất đai của dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm
11 Bảng 2.11: Tóm lược nhận định chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bằng
mô hình ma trận SWOT
12 Bảng 2.12: Diện tích các KCX, KCN đến 5/2008 và quy hoạch đến năm 2015
13 Bảng 2.13: Diện tích và sản lượng lúa của Việt Nam từ năm 1990 – 2006
14 Bảng 2.14: Diện tích trồng lúa các vùng trong cả nước từ năm 2000 đến năm 2007
15 Bảng 2.15: Ý kiến của nông dân về việc tổ chức, quản lý và qui hoạch đất đai hiện
nay
16 Bảng 2.16: Qui mô sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân
17 Bảng 2.17: Mức độ manh mún đất đai ở một số tỉnh Bắc Bộ
18 Bảng 2.18: Tình trạng manh mún đất đai của các miền/vùng
19 Bảng 2.19: Số lượng cán bộ địa chính của 81 xã ở 9 tỉnh vùng Đông Nam Bộ,
Tây Nguyên và ĐBSCL
20 Bảng 3.1: Dự báo một số chỉ tiêu dân số và diện tích đất nông nghiệp đến năm 2020
- ix -
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ VÀ KỊCH BẢN GIẢI PHÁP
TT TÊN BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ VÀ KỊCH BẢN GIẢI PHÁP
01 Biểu đồ 2.1: Cơ cấu đất sử dụng ở Việt Nam
02 Biểu đồ 2.2: Cơ cấu đất sử dụng phân theo địa phương
03 Biểu đồ 2.3: Biến động hiện trạng sử dụng đất ở Việt Nam
04 Biểu đồ 2.4: Nhận định những khó khăn của cán bộ địa chính về qui hoạch, quản lý đất
05 Biểu đồ 2.5: Các hình thức giao dịch đất đai của nông hộ
06 Biểu đồ 2.6: Tỉ lệ không có đất và thiếu đất sản xuất của các nông hộ
07 Biểu đồ 2.7: Mối quan hệ phụ thuộc giữa sản lượng lúa và diện tích trồng lúa
08 Biểu đồ 2.8: Diện tích đất trồng lúa cả nước và các vùng giảm dần

09 Biểu đồ 2.9: Sản lượng lương thực qua các năm (nghìn tấn)
10 Biểu đồ 2.10: Sản lượng lương thực bình quân đầu người (Kg/ngưới)
11 Biểu đồ 2.11: Những mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu chủ yếu năm 2007
12 Biều đồ 2.12: Ý kiến đánh giá của nông dân về chính sách giao đất lâu dài và các
quyền sử dụng đất trong thời kỳ đổi mới
13 Biểu đồ 2.13: Qui mô đất sản xuất nông nghiệp của các nông hộ
14 Biểu đồ 2.14: Tình trạng manh mún đất đai của nông dân
15 Biểu đồ 2.15: Trình độ cán bộ địa chính ở 81 xã khảo sát
16 Biểu đồ 2.16: Ý kiến của cán bộ địa chính về phương tiện hỗ trợ kỹ thuật trong
công tác quản lý đất đai ở các xã
17 Biểu đồ 2.17: Khả năng của cán bộ địa chính có thể sử dụng các phương tiện như
máy vi tính, dụng cụ đo đạc, bản đồ địa chính..
18 Biểu đồ 2.18: Công tác thanh tra, giám sát về tổ chức, quản lý đất đai ở cấp xã
19 Biểu đồ 2.19: Ý kiến của nông dân về công tác tuyên truyền chủ trương, phổ biến
pháp luật đất đai của chính quyền
20 Biểu đồ 2.20: Khoảng cách giữa tỷ trọng NN trong GDP và tỷ trọng vốn đầu tư cho NN
21 Biểu đồ 2.21: Cơ cấu vốn ODA ở các lĩnh vực
22 Biểu đồ 3.1: Diện tích đất nông nghiệp bình quân
23 Biểu đồ 3.2: Những quan tâm của nông dân về việc quản lý, sử dụng ruộng đất
24 Sơ đồ 2.1: Qui trình thu hồi và bồi thường đất đai của Nhà nước - nông dân - nhà đầu tư
25 Kịch bản 3.1: Hai phương án hoàn thiện quyền hưởng dụng ruộng đất
26 Kịch bản 3.2: So sánh kịch bản về thực hiện qui định thời gian sử dụng đất và bỏ thời
hạn sử dụng đất
27 Kịch bản 3.3: Hai phương án giải pháp về hạn điền
28 Kịch bản 3.4: Cơ số tính số lượng các bộ địa chính mỗi xã, phường
- x -
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển xã hội loài người, nông nghiệp là ngành sản xuất

vật chất cơ bản của xã hội. Dù rằng xã hội ngày nay có nhiều quốc gia đã đạt trình
độ phát triển cao nhưng nông nghiệp vẫn bất khả thay thế và tiếp tục thể hiện vai trò
thiết yếu đến phát triển bền vững. Đối với những quốc gia đang phát triển, nông
nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự ổn định xã hội trong việc cung cấp
lương thực, thực phẩm; là nguồn lực ban đầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
trên nhiều khía cạnh như vốn, nguyên liệu, lao động và thị trường tiêu thụ cho các
ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại…
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường
định hướng XHCN, nông nghiệp vẫn chiếm một vị trí trọng yếu trong cơ cấu của
nền kinh tế và xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2007, nông nghiệp
chiếm khoảng 20,3% GDP, 22,6% giá trị xuất khẩu, 72% dân số sống ở nông thôn
và 54% lực lượng lao động trong nông nghiệp.
Trong điều kiện hội nhập vào kinh tế thế giới và đẩy nhanh quá trình CNH
cùng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu đã làm mực nước biển dâng cao xâm thực nên
bảo vệ và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên khan hiếm đất nông nghiệp là sự
thách thức lớn cần tập trung giải quyết cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Bên cạnh đó, tác động của cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu năm 2008
và những diễn biến xã hội đáng chú ý về tam nông: nông nghiệp, nông dân và nông
thôn của các nước Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines; Châu Phi: Algeria,
Congo, Ghana, Zimbabwe; Châu Mỹ Latinh: Cuba, Bolivia, Haiti, Venezuela…
trong những năm gần đây đã ảnh hưởng sâu sắc đến góc nhìn về tam nông ở Việt
Nam. Trước những tác động trong và ngoài nước về yêu cầu phát triển bền vững
nông nghiệp, Nghị quyết Trung ương VII (Khóa X) của ĐCSVN ra đời về vấn đề
tam nông nhằm đề cao tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
- 2 -
Trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, đất đai là TLSX đặc biệt; là môi
trường sống cả về khía cạnh kinh tế, văn hóa, xã hội; môi trường của quá khứ, hiện
tại và tương lai của nông dân ở nông thôn. Sự phát triển không ngừng của đời sống
KT-XH đã phải thu hẹp đất đai nông nghiệp để đáp ứng các nhu cầu phát triển công
nghiệp, cơ sở hạ tầng, đô thị hóa… đã ảnh hưởng đến đời sống nông dân. Vì vậy,

việc tổ chức, quản lý đất đai nông nghiệp có hiệu quả luôn là bài toán đặt ra cho sự
phát triển của các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển.
Trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, vấn đề đất đai đang có tính thời
sự thu hút sự quan tâm nhiều phía từ người nông dân nông thôn đến cư dân thành
thị, chính quyền các cấp, nhà đầu tư. Thị trường đất đai ngày càng có ảnh hưởng
đến hoạt động của các thị trường tài chính, tín dụng, lao động… đồng thời các tranh
chấp, xung đột xoay quanh chủ đề đất đai giữa các chủ thể ngày càng phổ biến, gay
gắt và mức độ phức tạp ngày càng tăng, xuất hiện tình trạng khiếu kiện đông người
gây mất trật tự an ninh xã hội. Những phát sinh từ quan hệ tổ chức – quản lý đất đai
ngày càng nhiều như vấn đề thu hồi đất để phát triển các KCN, khu đô thị mới với
tình trạng mất đất của nông dân, ảnh hưởng đến việc làm, môi trường sống đến việc
thu hẹp đất canh tác nông nghiệp đe dọa đến an ninh lương thực.
Các quyền về đất đai của nông dân được mở rộng cả khía cạnh pháp lý và thực
tế, cùng với sự phát triển kinh tế trang trại, kinh tế tư nhân làm xuất hiện thị trường
mua bán, thế chấp, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai ở nông thôn. Song song
quá trình đó là vấn đề tích tụ, tập trung ruộng đất vào tay một số cá nhân, tình trạng
một bộ phận nông dân không có đất và thiếu đất sản xuất phải đi làm thuê.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong
nông nghiệp và phát triển nông thôn luôn đặt ra những vấn đề cần giải quyết, khai
thông về lý luận lẫn thực tiễn. Công tác tổ chức – quản lý đất đai nông nghiệp ở
nông thôn đang được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ địa chính cấp cơ sở với số lượng
và trình độ như hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong việc thực
thi đúng chủ trương chính sách của nhà nước và phục vụ tốt nông dân.
- 3 -
Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai phức tạp trở thành rào cản cho phát triển thị
trường bất động sản; thị trường tín dụng liên quan đến đất đai; hạn chế đến quy
hoạch và cấu trúc đô thị; giảm tiến độ đầu tư, ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng
và bất bình đẳng trong xã hội. Sự vận động của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai
trong thời gian qua tạo nên những trạng thái đối lập nhau: vừa tích cực đối với sự
phát triển KT - XH, vừa lại phát sinh những mối quan ngại như tranh giành đất đai,

đầu cơ đất đai, tình trạng bất bình đẳng trong quan hệ đất đai, sự chuyển dịch khó
kiểm soát của các luồng tài chính từ thị trường chứng khoán, tín dụng sang bất động
sản và ngược lại.
Những vụ việc tiêu cực liên quan đến đất đai trước hết xuất phát từ những quy
định, cách hiểu và quán triệt chính sách đất đai. Một số nguyên nhân quan trọng dẫn
đến tiêu cực, lãng phí đất đai đó là khâu tổ chức – quản lý và trình độ, đạo đức của
cán bộ quản lý đất đai cấp cơ sở.
Vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn giai đoạn hiện nay nhằm phát hiện những bất cập của chính
sách đất đai, sự kém hiệu quả của công tác tổ chức – quản lý đất đai cấp cơ sở để
tìm ra giải pháp hoàn thiện quan hệ tổ chức – quản lý đất đai góp phần phát triển
bền vững nông nghiệp, nông dân và nông thôn là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Đó là lý do tôi chọn đề tài “ QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ
ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỜI
KỲ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM” làm luận án tiến sĩ kinh tế chuyên
ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến luận án, xin giới thiệu khái quát các vấn đề quan hệ tổ chức,
quản lý đất đai trong nông nghiệp mà các nhà khoa học quan tâm:
Thứ nhất, PGS.TS Lâm Quang Huyên, nghiên cứu vấn đề sở hữu ruộng đất và
tác động của nó đến nền nông nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp. Tác phẩm: Vấn
đề ruộng đất ở Việt Nam, được xuất bản năm 2002 và tái bản năm 2007. Trong tác
- 4 -
phẩm này nội dung chủ yếu nghiên cứu quan hệ sở hữu ruộng đất trước thời kỳ đổi
mới và đề cập một phần trong thời kỳ đổi mới (lần tái bản 2007, phần thứ ba). Như
vậy trong điều kiện hội nhập và đẩy mạnh CNH những vấn đề phức tạp nảy sinh
chưa được nghiên cứu.
Thứ hai, đầu những năm 1990 quan hệ sở hữu ruộng đất có sự biến động gây
ra tình trạng mất đất ở các tỉnh ĐBSCL, đã thu hút một số tác giả nghiên cứu:
Nguyễn Thế Nhã (1998), Lê Du Phong (1998), Lê Đình Thắng (1998), Bùi Văn

Trịnh, Võ Thành Danh (2000)… Các công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung
nghiên cứu ở phạm vi ĐBSCL chưa nghiên cứu các vùng ĐBSH, ĐNB, Tây
nguyên. Ngoài ra cũng chưa đi sâu nghiên cứu tình trạng thiếu đất nông nghiệp
trồng cây hàng năm và cây lâu năm.
Thứ ba, một số vấn đề phát sinh từ quan hệ sở hữu đất đai trong những năm
gần đây khi một số địa phương thực hiện đô thị hóa, phát triển các KCN đã phát
sinh vấn đề thất nghiệp, suy thoái môi trường và thu hẹp sản xuất nông nghiệp. Vì
vậy đã có một số tác giả nghiên cứu ở các tỉnh phía Bắc: Lê Thu Hoa (2007) nghiên
cứu trường hợp ở Hà Nội; Vũ Đình Tôn, Nguyễn Thị Huyền, Võ Trọng Thành
(2007), nghiên cứu trường hợp ở tỉnh Hải Dương.
Trong khi các tỉnh phía Nam, đặc biệt là ĐNB mức độ đô thị hóa và CNH rất
nhanh lại có ít các công trình nghiên cứu để ___________minh chứng. Ngoài ra, việc phát
triển
thủy điện ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng tác động lớn đến vấn đề tái định cư và
sản xuất nông nghiệp của các dân tộc thiểu số cần phải được nghiên cứu.
Thứ tư, các quyền về đất đai (quyền sở hữu, quyền sử dụng) trong chính sách
đất đai và thị trường đất đai nông thôn cũng được đề cập rất nhiều, Lê Văn Tứ
(2003), Nguyễn Điền (2000), Đỗ Kim Chung (2000). Ngoài ra, quan hệ sở hữu đất
đai cũng được lồng ghép trong các chủ đề chính sách đất đai trong thời kỳ chuyển
đổi kinh tế: Lê Đình Thắng, Hoàng Cường, Vũ Thị Hảo (2003), Lê Văn Hùng,
Phạm Văn Minh (2007), Lý Hoàng Mai, Phan Thị Hạnh Thu (2007), Trần Thị Thái
Hà (2004)… Tuy nhiên, vấn đề liên quan đến các quyền về về đất đai đó là quyền
hưởng dụng chưa được các tác giả trên nghiên cứu.
Ngoài ra, có rất nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu vấn đề phát triển nông
thôn, phát triển kinh tế trang trại và các nông trường quốc doanh.
- 5 -
Như vậy, vấn đề quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam có tính thời sự, có ý nghĩa
sâu sắc về lý luận và thực tiễn đặt ra. Những đóng góp của các nhà khoa học về các
vấn đề trên là rất lớn góp phần làm sáng tỏ hoặc gợi lên những vấn đề bức xúc cần

giải quyết về quan hệ sở hữu đất đai trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một phần của vấn đề
đất đai như là sở hữu đất đai, một vài điểm bất cập của chính sách đất đai; hoặc gợi
lên một vấn đề bức xúc trong tổ chức quản lý như là quy hoạch, đền bù giải tỏa;
hoặc nghiên cứu việc tổ chức quản lý theo địa phương nào đó. Vì vậy, các công
trình trên chưa nghiên cứu hệ thống để phản ánh đầy đủ bức tranh tổng thể về quan
hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
thời kỳ chuyển đổi kinh tế. Do đó, chưa phát hiện đầy đủ những bất cập về chính
sách đất đai và chưa nghiên cứu công tác cán bộ địa chính cấp cơ sở ảnh hưởng đến
việc tổ chức – quản lý đất đai nông nghiệp ở nông thôn. Đồng thời, chưa có hệ
thống giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện chính sách đất đai và tổ chức – quản lý
đất đai nông nghiệp nông thôn hướng đến phát triển bền vững nông nghiệp, nông
thôn trong xu thế hội nhập.
Vì vậy, bản thân tác giả đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu của mình là nghiên cứu
có hệ thống các vấn đề thuộc quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn hiện nay bao gồm: (1) Cơ sở lý luận hình thành quan hệ tổ
chức, quản lý đất đai trong nông nghiệp; (2) Phân tích chính sách đất đai trong nông
nghiệp và việc tổ chức quản lý đất đai nông nghiệp nhằm phản ánh sự vận hành
quan hệ tổ chức – quản lý đất đai nông nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế đến
nay. Các số liệu sơ cấp được sử dụng trong luận án dựa trên việc khảo sát nông dân,
cán bộ địa chính để minh chứng cho các vấn đề mà luận án giải quyết như khiếu
kiện, khiếu nại đất đai, quy hoạch “treo”, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, khảo sát về
số lượng và chất lượng của cán bộ địa chính cấp cơ sơ; (3) Hệ thống giải pháp hoàn
thiện quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trên hai phương diện: cơ chế, chính sách đất
đai nông nghiệp và công tác thực hiện tổ chức, quản lý. Đây là những điểm khác
biệt của luận án so với các công trình nghiên cứu khác.
- 6 -
3. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hóa lý thuyết về sở hữu đất, quyền hưởng dụng đất và hệ
thống tổ chức – quản lý đất trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Thứ hai, nghiên cứu sự vận hành quan hệ tổ chức – quản lý đất nông nghiệp
trong thời gian qua và nhận diện nguyên nhân của những bất cập về cơ chế chính
sách đất đai và công tác tổ chức, quản lý đất đai nông nghiệp ở Việt Nam.
Thứ ba, đề nghị giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách và công tác tổ chức –
quản lý đất đai nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu quan hệ tổ chức – quản lý đất
đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam ở hai phương diện:
Thứ nhất, nghiên cứu các qui định trong chính sách đất đai liên quan đến vấn
đề quyền sử dụng đất, thời gian sử dụng đất, hạn điền, quyền lợi của nông dân trong
quá trình bị thu hồi đất, tái định cư. Những qui định trên ảnh hưởng như thế nào đến
quyền hưởng dụng đất đai của nông dân và sự phát triển nông nghiệp.
Thứ hai, nghiên cứu việc tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp ở nông
thôn liên quan đến vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ địa chính cấp cơ sở về
vấn đề quy hoạch đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất để
phát triển các KCX, KCN, KDC. Những vấn đề trên ảnh hưởng như thế nào đến
quyền lợi của nông dân về phương diện kinh tế - xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận án nghiên cứu quan hệ tổ chức – quản lý đất đai nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam.
+ Về thời gian: Thời kỳ chuyển đổi kinh tế lấy mốc từ Chỉ thị 100 của Ban Bí
thư Trung ương năm 1981 đến năm 2007.
+ Giới hạn nghiên cứu:
Thứ nhất, luận án nghiên cứu mối tương quan về chính sách đất nông nghiệp
và tổ chức quản lý đất đai nông nghiệp. Luận án không nghiên cứu chính sách đất ở
- 7 -
và tổ chức – quản lý đô thị, không nghiên cứu sâu đất chuyên dụng như đất hầm
mỏ, làm muối…
Thứ hai, trong quá trình khảo sát lấy mẫu điều tra để làm cơ sở dữ liệu về nông
dân, cán bộ địa chính cấp cơ sở, bồi thường hỗ trợ và tái định cư, qui hoạch

“treo”… Do điều kiện hạn chế, tác giả tập trung khảo sát ở khu vực Đông Nam Bộ,
Tây nguyên và ĐBSCL. Miền Bắc và Miền Trung chỉ khảo sát một số mẫu tối thiểu
(Miền Trung 41 mẫu, Miền Bắc 50 mẫu liên quan đến khảo sát nông hộ).
Thứ ba, luận án không nghiên cứu sâu các vấn đề về phát triển nông thôn bao
hàm đời sống kinh tế, văn hóa, kết cấu hạ tầng, dân trí, dân chủ…
Thứ tư, luận án không nghiên cứu khía cạnh tổ chức – quản lý đất đai của chính
những người nông dân, những nhà đầu tư khi họ được giao sử dụng lâu dài đất đai.
Luận án chỉ đề cập tới quan hệ giữa nhà nước với nông dân và các nhà đầu tư.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu sử dụng
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận án thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Do đó việc
nghiên cứu để phân tích và giải quyết các vấn đề trong luận án phải sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau. Trong đó, ba phương pháp chủ yếu được sử dụng là
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp duy vật lịch sử và phương
pháp thống kê mô tả.
Phương pháp trừu tượng hóa khoa học: Nghiên cứu những mặt, những biểu
hiện ổn định, thường xuyên của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong lĩnh vực
nông nghiệp và phát triển nông thôn giữa các chủ thể: nhà nước, nông dân, doanh
nghiệp. Quan hệ của các chủ thể trong lĩnh vực sản xuất, lưu thông (trao đổi, mua
bán) và phân phối xoay quanh vấn đề quan hệ tổ chức – quản lý đất đai nông
nghiệp. Từ đó đúc kết được bản chất của sự biến đổi về lượng và về chất của quan
hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Phát hiện
những bất cập, thách thức cần giải quyết của quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong
nông nghiệp và phát triển nông thôn. Từ đó đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm
hoàn thiện quan hệ tổ chức, quản lý đất đai để phát triển bền vững nông nghiệp.
- 8 -
Phương pháp duy vật lịch sử: Quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp
và phát triển nông thôn được xem xét trong những chặng đường lịch sử, gắn với
những bối cảnh cụ thể của thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam; gắn với những
quan điểm, chủ trương về chính sách đất đai, nông nghiệp, nông dân của Đảng và

Nhà nước. Đồng thời, trong giai đoạn hội nhập, quan hệ tổ chức – quản lý đất đai
gắn với các cam kết theo qui định của các tổ chức quốc tế như WTO, phù hợp với
qui định quốc tế và pháp luật Việt Nam. Qua đó, phản ánh vai trò của quan hệ tổ
chức – quản lý đất đai đối với sự phát triển tam nông: nông nghiệp, nông dân và
nông thôn Việt Nam trong điều kiện mới.
Phương pháp thống kê mô tả: để có bằng chứng khoa học trong phân tích, tác
giả tiến hành khảo sát nông dân, cán bộ địa chính cấp cơ sở. Cụ thể như sau:
+ Khảo sát nông dân: Mục đích khảo sát để thu thập thông tin về qui mô sản
xuất nông nghiệp, tình trạng manh mún đất đai; tình trạng không có đất và thiếu đất
sản xuất của nông hộ; các hình thức giao dịch đất đai hiện nay; ý kiến đánh giá của
nông dân về chủ trương giao đất lâu dài và các quyền sử dụng đất trong thời kỳ đổi
mới; qui hoạch và quản lý đất đai nông nghiệp ở địa phương, công tác tuyên truyền
pháp luật đất đai; những quan tâm chủ yếu của nông dân về sử dụng, quản lý đất đai
của mình.
Việc khảo sát nông dân mang tính đại trà, lẽ ra số mẫu khảo sát rất rộng lớn
hàng triệu mẫu vì nông dân của Việt Nam khoảng vài chục triệu người nhưng do
điều kiện về tài chính, thời gian và công sức của tác giả có hạn nên tác giả cố gắng
lấy mẫu khảo sát 1000 mẫu, tuy nhiên khi thu nhận các mẫu khảo sát và lọc lại chỉ
còn 544 đáp ứng đầy đủ các thông tin cần thiết. Mặc dù số mẫu khiêm tốn nhưng
đảm bảo nguyên tắc lấy mẫu không trùng mẫu.
+ Khảo sát cán bộ địa chính cấp cơ sở: Mục đích khảo sát nhằm thống kê số
lượng và trình độ của cán bộ địa chính cấp cơ sở để đánh giá năng lực thực thi chính
sách đất đai trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Ngoài ra, thu thập thông tin
về vấn đề quy hoạch tổng thể đất nông nghiệp, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ở các địa phương, công tác thanh tra đất nông nghiệp ở địa phương.
- 9 -
Việc khảo sát cán bộ địa chính cấp cơ sở lẽ ra cũng phải tiến hành trên phạm
vi cả nước cho phù hợp với phạm vi nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, sự khó
khăn về tài chính và thời gian, công sức của tác giả hạn hẹp nên tác giả chỉ có thể
tiến hành khảo sát ở khu vực Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu

Long. Khác với khảo sát đại trà như trường hợp nông dân, mỗi xã hoặc phường chỉ
có một mẫu khảo sát giành cho cán bộ địa chính cấp cơ sở.
Số mẫu khảo sát đáp ứng các yêu cầu thông tin là 81 mẫu tương ứng với 81 xã
hoặc phường tại 9 tỉnh hoặc thành phố khu vực Tây Nguyên, Đông Nam bộ và đồng
bằng sông Cửu Long. (chi tiết xem phụ lục 5)
+ Khảo sát về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Mục đích khảo sát
nhằm tìm hiểu về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với các dự án do
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của nông dân. Liên quan đến mức giá đền bù, sự
hỗ trợ về nơi ở tái định cư, chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân. Vấn đề khiếu
kiện, khiếu nại của nông dân…
Việc khảo sát về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thuộc nghiên cứu chuyên
sâu nên chọn một dự án điển hình để nghiên cứu. Tác giả lựa chọn dự án Khu đô thị
mới Thủ Thiêm vì đây là chương trình trọng điểm của TP.HCM liên quan đến việc
di dời hàng chục ngàn dân trong hơn 10 năm qua, đồng thời cũng là dự án mà nông
dân thường xuyên khiếu kiện, khiếu nại về mức giá bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
đối với chính quyền TP.HCM.
Số mẫu khảo sát có đầy đủ thông tin đáp ứng được yêu cầu là 103 mẫu đại
diện cho các hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi thuộc 5 phường thuộc quận 2,
TP.HCM: Thủ Thiêm, An Khánh, An Lợi Đông, Bình Khánh, Bình An.
+ Khảo sát về qui hoạch “treo”: Mục đích khảo sát nhằm tìm hiểu những thiệt
hại của nông dân về đời sống kinh tế - xã hội cũng như các quyền cơ bản liên quan
đến an sinh xã hội do qui hoạch “treo”.
Việc nghiên cứu về qui hoạch “treo” cũng thuộc nghiên cứu chuyên sâu nên
chọn dự án điển hình để nghiên cứu. Tác giả chọn ấp 3, xã Bình Hưng, huyện Bình
Chánh, TP.HCM vì dự án “treo” từ năm 1992 và vị trí địa lý của xã Bình Hưng sát
- 10 -
bên khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng. Từ lúc qui hoạch “treo” đến nay đã đẩy khu dân
cư này trở nên khó khăn về kinh tế, khó quản lý về mặt xã hội. Số mẫu khảo sát 50
mẫu chiếm tỉ lệ 5% số hộ dân của khu vực.
Ngoài ra, các phương pháp tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phân tích, so

sánh… được sử dụng để giải quyết các nội dung của luận án.
- Nguồn số liệu sử dụng trong Luận án
Thứ nhất, số liệu sơ cấp: để phục vụ cho nội dung luận án, tác giả đã khảo sát
để lấy số liệu sơ cấp liên quan đến nông dân ở các miền/vùng trong nước; khảo sát
cán bộ địa chính ở các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL; khảo sát về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư ở dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm, quận 2, TP.HCM;
khảo sát về qui hoạch “treo” ở xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.HCM.
Thứ hai, số liệu thứ cấp: Luận án sử dụng số liệu từ các Niên giám Thống kê;
Báo cáo của Bộ Tài Nguyên & Môi trường, Bộ NN & PTNT, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư; các công trình khoa học của các tác giả đã công bố trên các tạp chí khoa học…
6. Đóng góp mới của Luận án
Thứ nhất, về đúc kết lý thuyết: Vấn đề ruộng đất là trung tâm và xuất phát hình
thành các chính sách cải cách ở Việt Nam trong thời gian qua. Thước đo để đánh
giá thành công của các chính sách chính là nông dân gắn bó lâu dài với ruộng đất và
hưởng dụng đầy đủ kết quả do chính mình đầu tư và quản lý đất. Từng giai đoạn
khác nhau cần có những hình thức sở hữu, quyền hưởng dụng, hệ thống tổ chức –
quản lý đất đai thích hợp.
Thứ hai, về kinh nghiệm của các nước: (1) Sở hữu hỗn hợp đất đai là hình
thức phổ biến; (2) Chủ thể quản lý đất đai duy nhất là nhà nước.
Thứ ba, về hệ thống tổ chức – quản lý đất đai: Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi đã từng bước phát triển đến nay hoàn thiện theo một thể thống nhất của
ba mặt: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền hưởng dụng đất đai của nông dân
ngày càng mở rộng và được luật pháp đảm bảo.
Thứ tư, về những bất cập của cơ chế, chính sách đất đai và tổ chức – quản lý
đất nông nghiệp, bao gồm:
- 11 -
(1) Xu hướng tích tụ đất của hộ sản xuất nông nghiệp hiệu quả là tất yếu
nhưng vấn đề xã hội (việc làm, thu nhập) củ___________a hộ nông dân mất đất chưa được
quan
tâm giải quyết đầy đủ.

(2) Cơ chế đền bù đất nông nghiệp đề xây dựng các KCX, KCN, KDC… còn
nhiều vấn đề: tham nhũng dễ xuất hiện, giá đền bù chưa tương xứng, nông dân sử
dụng đất không có đủ quyền đàm phán, quyền lợi việc làm, quyền sống sau khi giải
tỏa chưa được đảm bảo.
(3) Trình độ cán bộ địa chính cấp cơ sở chưa tương xứng với sự thay đổi của
quá trình phát triển.
Thứ năm, về các giải pháp mang tính đặc thù và có tính khả thi cao, bao gồm:
(1) Hoàn thiện cơ chế chính sách để đảm bảo quyền hưởng dụng tối đa: giao
thêm nông dân hai quyền: quyền được tham gia quy hoạch đất nông nghiệp và
quyền thương lượng, đàm phán với chủ đầu tư về mức giá đề bù; giải pháp bỏ thời
gian sử dụng đất và hạn điền
(2) Hoàn thiện hệ thống tài chính đối với quản lý đất đai nông nghiệp theo
hướng khuyến khích nông dân và các tổ chức sử dụng, bảo vệ và khai thác tài
nguyên đất một cách hiệu quả.
(3) Đầu tư của chính phủ đối với phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là cần
thiết nhằm tạo điều kiện cho nông dân sử dụng đất đai hiệu quả cũng như thay đổi
cuộc sống của họ.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, bảng biểu, chữ viết
tắt, mục lục. Luận án gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam. Nội dung
bao gồm: lý luận sở hữu và sở hữu ruộng đất của các quan điểm kinh điển như Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và cương lĩnh ruộng đất của ĐCSVN xuyên suốt từ
năm 1930 đến nay; lý luận sở hữu và tổ chức – quản lý ruộng đất theo quan điểm tư
sản; tình hình sở hữu và tổ chức quản lý ruộng đất của Trung Quốc trong thời kỳ cải
- 12 -
cách là những bài học kinh nghiệm để Việt Nam xem xét, học hỏi cho phù hợp với
tình hình Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông nghiệp và

phát triển nông thôn thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam. Nội dung bao gồm:
những đổi mới căn bản về việc tổ chức – quản lý đất đai ở Việt Nam; những phát
sinh trong quá trình vận hành như bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đến vấn đề quy
hoạch treo, cơ chế hai giá đất, đầu cơ đất, khiếu kiện, khiếu nại và an ninh lương
thực nhằm tìm ra những biến đổi về lượng và về chất của quan hệ tổ chức, quản lý
trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đánh giá những thành tựu và hạn chế của quan
hệ tổ chức - quản lý đất đai nông nghiệp, phát hiện ra những bất cập của chính sách
đất đai và công tác tổ chức – quản lý đất đai của cán bộ địa chính ở nông thôn.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quan hệ tổ chức - quản lý đất đai trong
nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nội dung bao gồm: đề xuất các giải pháp và
kiến nghị nhằm hoàn thiện quan hệ tổ chức – quản lý đất đai cả hai phương diện nội
dung cơ chế, chính sách nông nghiệp và công tác tổ chức – quản lý hướng đến phát
triển bền vững nông nghiệp, nông thôn cho phù hợp với thời kỳ chuyển sang kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
- 13 -
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẤT ĐAI, NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN
1.1.1 Vị trí, vai trò của đất đai trong đời sống kinh tế – xã hội
- Khái niệm về đất đai
Có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về đất đai:
Từ điển Oxford Advanced Learner`s Dictionary, nhà xuất bản Oxford, năm
1995, Land (đất): Phần rắn khô của bề mặt trái đất, đối lập với nước [133, tr.661].
Từ điển Webster`s New World Dictionary, nhà xuất bản Macmillan, năm
1996, Land (đất): (1) phần rắn của bề mặt trái đất không bị bao phủ bởi nước; (2)
phần cụ thể của bề mặt trái đất; (3) đất nước, vùng…; cư dân của vùng, người của
một quốc gia; (4) mặt đất hoặc phần rắn xét ở khía cạnh tính chất, địa điểm tọa lạc;

(5) đất xem xét dưới góc độ là tài sản…[134, tr.758]
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, năm 1998, Đất là phần chất rắn, nơi người và
động thực vật sinh sống; phân biệt với biển, trời.
Theo định nghĩa của Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1, năm 1995, Đất là lớp
mỏng trên cùng của vỏ trái đất tương đối tơi xốp do các loại đá phong hóa ra, có
độ phì trên đó cây cỏ có thể mọc được. Đất được hình thành do tác dụng tổng hợp
của nước, không khí và sinh vật lên đá mẹ. Đất có độ phì nhiêu ít hay nhiều và bao
gồm các thành phần chất rắn, chất lỏng (dung dịch đất), chất khí và sinh vật (động,
thực vật, vi sinh vật). Đất được phân loại theo kiểu phát sinh: Đất đỏ Bazan; đất
phù sa; đất phù sa cổ; đất rừng xám; đất Potzon; đất mặn kiềm hay chua mặn,vv.
Đất đồng bằng tùy thuộc các quy luật phân vùng theo địa giới; đất miền núi chịu sự
chi phối của chiều cao. Trong nông, lâm nghiệp, đất được phân hạng thành các loại
- 14 -
theo khả năng sử dụng và yêu cầu bảo vệ đất: Đất rừng, đất trồng cây hàng năm,
cây lâu năm, đất chăn thả, đất thổ cư, đất chuyên dùng (giao thông, xây dựng, thủy
lợi, du lịch, vv).
Con người sinh ra gắn liền với đất, tồn tại được là nhờ các sản phẩm từ đất và
đến khi nhắm mắt, xuôi tay họ lại trở về với đất. Đất gắn bó với sự tồn tại và phát
triển của con người không chỉ theo nghĩa duy nhất mà trên phương diện kinh tế, tạo
ra của cải vật chất. Nhà kinh tế học cổ điển W.Petty có câu nói nổi tiếng: “Lao động
là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải”. Đất đai là TLSX quan trọng, cơ bản của sản
xuất nông nghiệp, song quá trình phát triển của xã hội gắn liền với quá trình mở
rộng các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại, văn hóa…Do đó, đất đai không
chỉ để phát triển nông nghiệp mà còn được sử dụng để phát triển các lĩnh vực khác.
- Vị trí, vai trò của đất đai trong đời sống KT – XH
Dưới góc độ chính trị, pháp lý: Đất đai là một bộ phận không thể tách rời của
lãnh thổ quốc gia, nó gắn liền với chủ quyền của một nhà nước. Xâm phạm đất đai
là xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Nhà nước là đại diện cho chủ quyền
quốc gia có quyền và trách nhiệm thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ đất đai
khỏi sự xâm phạm từ bên ngoài.

Dưới góc độ KT – XH: Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là
nơi cư trú, sinh sống của con người, là TLSX chính không thể thay thế được của sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là nguồn nguyên liệu chính của các ngành sản xuất
vật liệu xây dựng như: gạch, ngói, xi măng, đồ gốm… Đất là cội nguồn dự trữ tài
nguyên có giá trị nhất của con người. Đất đai là cơ sở để phát triển các hệ sinh thái,
là yếu tố hàng đầu của môi trường sống, thiếu nó con người không thể tồn tại, duy
trì và phát triển sự sống. Sự hình thành và phát triển của mỗi dân tộc phụ thuộc rất
nhiều vào yếu tố tài nguyên đất đai mà dân tộc đó đang sinh sống. Do vậy, đất đai
luôn là đối tượng tranh chấp của các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia, dân tộc.
Ngay trong một quốc gia, vấn đề sở hữu đối với đất đai luôn là vấn đề hệ trọng, nó
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp dân cư trong
xã hội. Sự tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng đất đai thường xảy ra phức tạp.
- 15 -
1.1.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn
1.1.2.1 Khái niệm nông nghiệp, nông thôn
- Khái niệm nông nghiệp
Có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau về nông nghiệp:
Từ điển Oxford Advanced Learner`s Dictionary, nhà xuất bản Oxford, năm
1995, Agriculture (nông nghiệp) với danh từ: khoa học hoặc công việc trồng trọt,
giữ hoặc nuôi gia cầm gia súc để lấy làm thức ăn. Agricultural (nông nghiệp) với
tính từ: (1) Agricultural land: đất nông nghiệp; (2) Worker: công nhân làm nông
nghiệp (nông dân); (3) Machinery: máy móc dùng trong nông nghiệp [133, tr.25].
Từ điển Webster`s New World Dictionary, nhà xuất bản Macmillan, năm
1996, Agriculture (nông nghiệp) với danh từ: công việc làm đất, sản sinh vụ mùa,
chăn nuôi [134, tr.26].
Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, năm 1995, Nông nghiệp là ngành sản xuất vật
chất cơ bản của xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; khai thác cây
trồng và vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu tạo ra lương thực
thực phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản
xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản.

Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là trồng trọt và chăn nuôi. Nông nghiệp theo
nghĩa rộng bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp.
Những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp:
Thứ nhất, quá trình tái sản xuất vật chất khai thác kinh tế gắn phần lớn với
điều kiện tự nhiên (đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu…), tức là gắn với quá trình tái sản
xuất tự nhiên.
Thứ hai, ruộng đất là TLSX chủ yếu và đặc biệt, nếu sử dụng hợp lí, khoa học
thì số ruộng đất được khai thác không bị hao mòn trong quá trình sản xuất, mà còn
ngày một thêm màu mỡ, có chất lượng và đem lại năng suất cao hơn.
Thứ ba, nguyên liệu ban đầu là cây trồng, vật nuôi, còn có thể gọi là những
công cụ sinh vật, có chu kỳ sản xuất tương đối dài phụ thuộc vào tự nhiên.
- 16 -
Thứ tư, phân bố dàn trải trên từng khu ruộng, vườn, đến từng vùng, lãnh thổ.
Sự xuất hiện nông nghiệp đánh dấu một bước tiến nhảy vọt trong lịch sử loài
người, mở đầu cho các giai đoạn văn minh ngày càng cao. Lịch sử nông nghiệp đã
trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và ngày càng có năng suất cây trồng,
vật nuôi và hiệu quả kinh tế cao hơn. Nông nghiệp phát triển ngày càng có quan hệ
tương hỗ với phát triển công nghiệp. Do đó, ngày nay phát triển nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH. CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu
khoa học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công
nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. [56]
- Khái niệm nông thôn
Tương tự như khái niệm đất đai và khái niệm nông nghiệp, khái niệm nông
thôn có nhiều cách tiếp cận và giải thích khác nhau:
Từ điển Oxford Advanced Learner`s Dictionary, nhà xuất bản Oxford, năm
1995, Rural (nông thôn), xét nghĩa tính từ: (1) thuộc miền quê hoặc thuộc về nông
nghiệp; (2) ở miền quê, ở nông thôn; (3) liên quan đến thôn quê, hoặc nông nghiệp

[133; tr.1032].
Từ điển Webster`s New World Dictionary, nhà xuất bản Macmillan, năm
1996, Rural (nông thôn) xét nghĩa tính từ: (1) có tính miền quê, cuộc sống thôn quê,
người thôn quê; (2) sống ở quê, nông thôn; (3) việc đồng án [134; tr.1176].
Nông thôn là vùng tập trung dân cư làm nghề nông; phân biệt với thành thị,
thành phố: Đời sống ở nông thôn và thành thị còn chênh lệch nhau quá lớn. [64]
Nông thôn là phần lãnh thổ của một nước hay của một đơn vị hành chính nằm
ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh KT-XH, điều kiện sống
khác biệt với thành thị và dân cư chủ yếu làm nông nghiệp. [27]
Một số ý kiến khác đề cập đến nhiều mặt của nông thôn như sau:
- 17 -
Về địa lý tự nhiên, nông thôn là một địa bàn rộng lớn trải ra thành những vành
đai bao quanh các thành thị.
Về kinh tế, nông thôn là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản xuất vật
chất nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.
Về tính chất xã hội, cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu là nông dân và gia
đình họ, ngoài ra cũng có một số người làm việc ở nông thôn nhưng sống ở đô thị
và ngược lại có những người ở thành thị nhưng lại làm việc ở nông thôn.
Về văn hóa, nông thôn thường là nơi bảo tồn và lưu giữ được nhiều di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc như các phong tục, tập quán cổ truyền về đời
sống, những lễ hội, làng nghề cổ truyền, các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng
cảnh… nông thôn là kho tàng văn hóa dân tộc. Nếu biết giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, nông thôn có một sức hút hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.
Ngoài ra, nông thôn ngày nay được mở rộng ở khái niệm phát triển nông thôn
và CNH, HĐH nông thôn.
Phát triển nông thôn là một thuật ngữ dùng để chỉ các hoạt động tác động đến
cuộc sống của cư dân nông thôn bao gồm việc đáp ứng các nhu cầu cơ bản về ăn,
mặc, ở, các điều kiện y tế, giáo dục… đến việc nâng cao mức sống, mức thu nhập,
trình độ văn hóa… của họ. Ở Việt Nam hiện nay, phát triển nông thôn phải nhằm
thực hiện những mục tiêu cụ thể sau đây: một là, CNH nông nghiệp; hai là, văn

minh hóa nông thôn; ba là, nâng cao tri thức cho người dân ở nông thôn.
CNH, HĐH nông thôn: là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây
dựng kết cấu hạ tầng cơ sở KT-XH, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi
trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng QHSX phù hợp, xây dựng nông
thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ở nông thôn. [56]
- 18 -
CNH, HĐH NN, NT là một bộ phận của CNH, HĐH đất nước. Đó chính là
quá trình dân tộc Việt Nam ra sức phấn đấu tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa
lớn; gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và dịch vụ, phát huy có hiệu quả
mọi tiềm năng và lợi thế để mang lại cho nền nông nghiệp Việt Nam phát triển.
1.1.2.2 Vai trò của nông nghiệp, nông thôn
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò quan trọng trong sự phát triển KT – XH, có
thể khái quát những vai trò chủ yếu:
Một là, nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đảm bảo
lương thực, thực phẩm cho xã hội là điều kiện quan trọng để ổn định xã hội và phát
triển kinh tế. Do vậy, sự phát triển của nông nghiệp có vai trò quyết định đối với
việc thỏa mãn nhu cầu về lương thực, thực phẩm và còn tạo cơ sở cho sự phát triển
các mặt khác của đời sống xã hội.
Hai là, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ. Các
ngành công nghiệp nhẹ như ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản, công
nghiệp dệt may, mía đường, giấy… phải dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu từ
___________nông nghiệp. Do đó, muốn phát triển bền vững các ngành công nghiệp này cần
thiết
phải phát triển nông nghiệp.
Ba là, nông nghiệp cung cấp vốn cho sự nghiệp CNH. Sự nghiệp CNH đất
nước cần rất nhiều vốn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển gặp khó khăn về

nguồn vốn. Nguồn vốn ban đầu để kích hoạt tiến trình CNH thường được xuất phát
từ thành quả của những sản phẩm nông nghiệp. Xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp thường là sự lựa chọn để tạo vốn cho giai đoạn đầu của thời kỳ CNH.
Bốn là, nông nghiệp, nông thôn là thị trường quan trọng của các ngành công
nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp vừa là đầu vào của một số ngành công nghiệp nhẹ
và là đầu ra cho nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ. Nông thôn là tập trung dân số
đông. Thị trường nông thôn là nơi tiêu thụ một khối lượng lớn hàng hóa góp phần
giải quyết đầu ra và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ.
- 19 -
Năm là, phát triển nông nghiệp, nông thôn là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị,
xã hội. Nông thôn là khu vực tập trung phần lớn dân cư của cả nước, là địa bàn rộng
lớn nên phức tạp cho công tác quản lý đất đai, dân số. So với thành thị, nông thôn
có trình độ dân trí thấp hơn, khoa học – kỹ thuật lạc hậu hơn, thu nhập bình quân
cũng thấp hơn. Vì thế, cuộc sống vật chất, tinh thần của nông dân nhìn chung là
thấp hơn so với cư dân thành thị. Do vậy, phát triển nông nghiệp, nông thôn sẽ trực
tiếp nâng cao đời sống nông dân và tạo tiền đề, cơ sở ổn định chính trị, phát triển
KT-XH cho đất nước.
Sáu là, phát triển nông nghiệp, nông thôn là điều kiện tăng cường khối liên
minh công – nông. Dưới góc độ chính trị, địa bàn nông thôn chủ yếu là nông dân,
mà nông dân là bạn đồng minh, là chổ dựa đáng tin cậy của giai cấp công nhân
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
1.2 MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU VÀ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT
Sở hữu là phạm trù cơ bản, trừu tượng và phức tạp của kinh tế chính trị học.
Sở hữu luôn chiếm vị trí trung tâm của các cuộc tranh luận khoa học trong lịch sử
các tư tưởng kinh tế và học thuyết kinh tế. Một số giai cấp, thể chế nhà nước sử
dụng sở hữu như là cơ sở nền tảng để xây dựng đường lối chính sách KT-XH, đặc
biệt là chính sách đất đai. Xuyên suốt quá trình lịch sử lâu dài và cho đến nay, phạm
trù sở hữu vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sở hữu và sở hữu ruộng đất
1.2.1.1 Quan điểm về sở hữu

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề sở hữu xuất phát từ thế giới
quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong các tác phẩm kinh điển của Mác,
Ăngghen và Lênin, có thể khái quát ở những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất xã hội và sự vận động của
quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử.
Trước hết, sở hữu là điều kiện tất yếu của sản xuất. Không ai có thể tiến hành
sản xuất nếu như không sở hữu bất cứ TLSX nào. Sở hữu TLSX là tiền đề tạo ra
- 20 -
của cải vật chất và mang lại lợi ích cho chủ sở hữu. Quan hệ sở hữu sẽ hình thành
quan hệ xã hội về việc chiếm hữu của cải vật chất giữa một bên là người sở hữu và
một bên là người không sở hữu. Người sở hữu trở nên có quyền lực và chi phối
trong quan hệ sản xuất, rộng hơn là cộng đồng xã hội. Từ đó hình thành các giai cấp
và là nguồn gốc của đấu tranh giai cấp. Mác và Ăngghen đã khái quát quá trình hình
thành và thay thế nhau các hình thức sở hữu trong lịch sử. Hình thức sở hữu đầu
tiên là sở hữu bộ lạc, thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước, thứ ba là sở hữu
phong kiến hay sở hữu đẳng cấp và trên cơ sở tan rã dần của sở hữu phong kiến mới
xuất hiện và phát triển quan hệ sở hữu tư sản. Như vậy, chế độ sở hữu đã trải qua
những thay đổi liên tiếp, những cải biến liên tục trong lịch sử. Sở hữu vừa là kết
quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của LLSX, là hình thức xã hội có tác động
thúc đẩy hoặc kìm hãm LLSX. Sự biến đổi quan hệ sở hữu là kết quả của sự phát
triển LLSX chứ không phải do ý muốn chủ quan của cá nhân, hay một nhóm, thậm
chí cả một giai cấp [83].
Thứ hai, chủ nghĩa Mác muốn xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản và xác lập chế độ
sở hữu xã hội. Giải thích sự ra đời của chế độ tư hữu, Ăngghen lý giải như sau: vào
cuối thời trung cổ, khi PTSX mới không chứa nổi trong khuôn khổ của chế độ sở
hữu phong kiến và phường hội lúc bấy giờ xuất hiện dưới hình thức công trường thủ
công thì công trường thủ công đã vượt quá quan hệ sở hữu cũ, tạo ra cho nó một
hình thức sở hữu mới, chế độ tư hữu. Đối với công trường thủ công và đối với giai
đoạn phát triển ban đầu của đại công nghiệp, không thể có hình thức sở hữu nào
khác ngoài quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào khác ngoài chế độ xã hội

xây dựng trên cơ sở tư hữu. Chủ nghĩa Mác tố cáo xã hội xây dựng trên cơ sở chế
độ tư hữu là nguyên nhân của sự áp bức bóc lột và vô cùng bất công bởi vì nó làm
cho các LLSX nằm trong tay một số ít các nhà tư sản, còn đông đảo quần chúng
nhân dân thì ngày càng trở thành vô sản; hơn nữa, của cải của tư sản càng tăng thì
tình cảnh quần chúng nhân dân càng trở nên nghèo đói và không sao chịu nổi [17;
tr.467 – 468], trên tinh thần thế giới quan duy vật lịch sử, Ăngghen đã nhận định
rằng: sẽ đến lúc nhờ sự phát triển của đại công nghiệp, LLSX phát triển cao đến
- 21 -
mức khiến cho có thể sản xuất đủ sản phẩm cho mọi người, và khiến cho chế độ tư
hữu trở thành xiềng xích ngăn cản sự phát triển của LLSX đó, và tất nhiên chế độ sở
hữu tư sản sẽ được thay thế bằng chế độ công hữu. Các ông chỉ rõ rằng, chế độ sở
hữu tư sản hiện thời là biểu hiện cuối cùng và đầy đủ nhất của PTSX và chiếm hữu
sản phẩm dựa trên cơ sở đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột
người kia [17; tr.15]. Theo triết lý đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận
của mình thành một công thức duy nhất: xóa bỏ chế độ tư hữu! Đây là xóa bỏ tính
chất bi thảm của cái phương thức chiếm hữu nó khiến cho người công nhân chỉ
sống để làm tăng thêm tư bản và chỉ sống trong chừng mực mà lợi ích của giai cấp
thống trị đòi hỏi [17; tr. 617]. Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được
không? Ăngghen trả lời: không, không thể được, cũng y như không thể làm cho
LLSX hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế
công hữu. Cho nên, cuộc cách mạng của giai cấp vô sản đang có tất cả những triệu
chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi
nào đã tạo nên được một khối lượng TLSX cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy
mới thủ tiêu được chế độ tư hữu. Đồng thời, chủ nghĩa Mác không hề có ý muốn
xóa bỏ sở hữu cá nhân: người ta trách những người cộng sản chúng tôi là muốn xóa
bỏ sở hữu do cá nhân mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà
người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân.
Cái sở hữu làm ra, kiếm được một cách lương thiện và do lao động của bản thân
tạo ra ư ! phải chăng người ta muốn nói đến cái hình thức sở hữu có trước sở hữu
tư sản, tức là sở hữu của người tiểu tư sản, của người tiểu nông? chúng tôi có cần

gì phải xóa bỏ cái đó, sự tiến bộ của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp
tục xóa bỏ cái đó rồi.[17; tr. 616]. Ăngghen giải thích rất cặn kẽ những kết quả thu
được nếu xóa bỏ triệt để chế độ tư hữu: xã hội sẽ tước khỏi tay bọn tư bản tư nhân
việc sử dụng tất cả mọi LLSX và mọi phương tiện giao dịch cũng như việc trao đổi
và phân phối sản phẩm; xã hội sẽ quản lý tất cả những việc đó căn cứ theo kế hoạch
đặt ra, căn cứ vào các nguồn lực hiện có và vào nhu cầu của toàn xã hội; do đó mà
tất cả những hậu quả tai hại gắn liền với chế độ quản lý đại công nghiệp hiện nay sẽ
- 22 -
bị thủ tiêu trước hết. Khủng hoảng sẽ chấm dứt… đại công nghiệp thoát khỏi xiềng
xích của chế độ tư hữu sẽ phát triển với những quy mô khiến cho đại công nghiệp
hiện nay đem so sánh với đại công nghiệp ấy thì thật là nhỏ bé không đáng kể,
giống như công trường thủ công so với đại công nghiệp của thời đại chúng ta vậy!
Quan điểm về việc thay thế tất yếu chế độ tư hữu tư sản bằng chế độ sở hữu xã
hội của chủ nghĩa Mác thường bị hiểu sai và vận dụng sai ở một số nước. Chính
quyền cách mạng một số nước đã đồng nhất tất cả các loại tư hữu dù là tư hữu nhỏ
hay là tư hữu tư sản rồi nóng vội xóa bỏ tư hữu và xác lập chế độ sở hữu xã hội
nhằm nhanh chóng có ngay CNXH trong khi LLSX còn thấp. Điều này không
những sai về thế giới quan duy vật lịch sử mà còn làm tổn thương đến giá trị triết lý
về chế độ sở hữu xã hội của chủ nghĩa Mác.
1.2.1.2 Quan điểm về sở hữu ruộng đất
a. Quan điểm của Mác về ruộng đất và địa tô TBCN
Dưới góc nhìn của phương pháp luận duy vật lịch sử, Mác cho rằng trong thời
kỳ phong kiến, đối tượng sở hữu chủ yếu của nhà nước là đất đai. Việc xác lập
quyền tư hữu đất đai đã làm xuất hiện địa tô, đây là hình thức bóc lột chủ yếu trong
xã hội phong kiến. Đó là vấn đề mâu thuẫn căn bản của xã hội phong kiến. Cuộc
cách mạng tư sản và tiêu chí của giai cấp tư sản là xóa bỏ cách quản lý đất đai
phong kiến và thực hiện độc quyền sở hữu đất đai cũng không giải quyết được
mong muốn của nông dân. Chẳng qua là thay đổi cách bóc lột địa tô từ kiểu này
sang kiểu khác.
Mác viết : “Độc quyền sở hữu ruộng đất là một tiền đề lịch sử và vẫn là cơ sở

thường xuyên của PTSX TBCN, cũng như của tất cả các PTSX trước kia dựa trên
sự bóc lột quần chúng dưới một hình thức này hay một hình thức khác” [16; tr.193].
Như vậy, PTSX TBCN cũng không xoá bỏ quyền tư hữu ruộng đất mà chỉ bắt
nó phụ thuộc vào tư bản, đồng thời “tách ruộng đất với tư cách là một điều kiện sản
xuất, đối với người này thì ruộng đất không có ý nghĩa khác hơn là một khoản thuế
nhất định bằng tiền mà độc quyền của hắn cho phép hắn thu được… PTSX TBCN
đã cắt đứt mọi mối liên hệ giữa người sở hữu ruộng đất và ruộng đất đến mức người
- 23 -
này có thể suốt đời sống ở Côn - Xtan - ti - nô - pôn, trong khi sở hữu ruộng đất trở
thành ad ab – surdum1” [16; tr.195].
Quyền sở hữu ruộng đất trong PTSX TBCN làm thay đổi địa tô phong kiến
thành địa tô TBCN, mặc dù có sự giống nhau đều là “hình thức dưới đó quyền sở
hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, tức là đem lại thu nhập” [16; tr.196].
Nhưng địa tô TBCN hoàn toàn khác với địa tô phong kiến vì quan hệ xã hội phức
tạp hơn, tính chất bóc lột rõ nét và tinh vi hơn. Theo Mác: “địa tô là số tiền mà nhà
tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho chủ đất, kẻ sở hữu ruộng đất mà hắn kinh
doanh số tiền trả như vậy dù là trả về ruộng đất canh tác hay là đất xây dựng, hầm
mỏ, ngư trường, rừng gỗ… đều là địa tô” [16; tr.195]. Nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và thuê công nhân để tiến hành sản xuất. do
đó, nhà tư bản phải trích một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho
chủ đất dưới hình thức địa tô. Như vậy, địa tô TBCN là bộ phận lợi nhuận siêu
ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công
nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa
chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
Mác đã chỉ ra và phân tích các loại địa tô TBCN: địa tô chênh lệch, địa tô
tuyệt đối, địa tô độc quyền và giá cả ruộng đất.
- Địa tô chênh lệch: Nông nghiệp có một số đặc điểm khác với công nghiệp,
như số lượng ruộng đất bị giới hạn; độ màu mỡ tự nhiên và vị trí địa lý của ruộng
đất không giống nhau; các điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương ít biến động;
nhu cầu hàng hóa nông phẩm ngày càng tăng. Do đó, xã hội buộc phải canh tác trên

cả ruộng đất xấu nhất (về độ màu mỡ và vị trí địa lý). Vì vậy mà giá cả của hàng
hóa nông phẩm được hình thành trên cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất chứ không
phải ở điều kiện trung bình như trong công nghiệp. Vì thế, canh tác trên đất tốt và
trung bình sẽ có lợi nhuận siêu ngạch. Phần lợi nhuận siêu ngạch này tồn tại thường
xuyên, tương đối ổn định và chuyển hóa thành địa tô chênh lệch. Như vậy, địa tô
chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên
ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản
xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá
cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình.
1 ad ab – surdum nghĩa là một điều phi lý
- 24 -
Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Địa tô
chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận
lợi. Chẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình và tốt) và có vị trí địa
lý gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông. Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu
được gắn liền với thâm canh tăng năng suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích. Cần chú ý rằng, năng suất của lần đầu tư thêm phải lớn
hơn năng suất của lần đầu tư trên ruộng xấu thì khi đó mới có lợi nhuận siêu ngạch.
Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc
nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng, địa chủ mới
tìm cách nâng giá cho thuê ruộng đất, tức biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm
canh đem lại tức địa tô chênh lệch II thành địa tô chênh lệch I. Tình trạng này dẫn
đến mâu thuẫn: nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời hạn thuê, còn địa chủ lại
muốn rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà tư bản tìm
mọi cách quay vòng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ đất đai.
- Địa tô tuyệt đối: Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh
nông nghiệp tuyệt đối phải nộp cho địa chủ, dù ruộng đất đó tốt hay xấu, ở xa hay
gần. Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
hình thành nên bởi chênh lệch giữa giá trị nông sản với giá cả sản xuất chung của
nông phẩm. Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông

nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Còn nguyên nhân tồn tại địa tô tuyệt đối là do
chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất đã ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh
giữa các ngành để hình thành lợi nhuận bình quân.
- Địa tô độc quyền: Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô TBCN.
Địa tô độc quyền có thể tồn tại trong nông nghiệp, công nghiệp khai thác và ở các
khu đất trong thành thị. Trong nông nghiệp, địa tô độc quyền có ở các khu đất có
tính chất đặc biệt, cho phép trồng các loại cây đặc sản hay sản xuất các sản phẩm
đặc biệt. Trong công nghiệp khai thác, địa tô độc quyền có ở các vùng khai thác các
kim loại, khoáng chất quý hiếm, hoặc những khoáng sản có nhu cầu vượt xa khả
năng khai thác chúng. Trong thành thị, địa tô độc quyền có ở các khu đất có vị trí
thuận lợi cho phép xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhà
cho thuê có khả năng thu lợi nhuận cao. Nguồn gốc của địa tô độc quyền cũng là lợi
nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên đất đai mà nhà tư
bản phải nộp cho địa chủ.
- 25 -
- Giá cả ruộng đất: Ruộng đất trong xã hội tư bản không chỉ cho thuê mà còn
được bán. Giá cả ruộng đất là một phạm trù kinh tế bất hợp lý nhưng ẩn giấu một
quan hệ kinh tế hiện thực. Mác đã nghiên cứu có hệ thống và khoa học vấn đề sở
hữu ruộng đất gắn với sự ra đời các loại địa tô. Đồng thời vận dụng lý luận địa tô để
giải thích giá cả ruộng đất dưới góc độ địa tô tư bản hoá. Ông lập luận rằng: đất đai
đem lại địa tô cho người chủ sở hữu tức là mang lại thu nhập bằng tiền nên nó được
xem như một loại tư bản đặc biệt còn địa tô chính là lợi tức của tư bản đó. Do vậy,
giá cả đất đai chỉ là giá mua địa tô do sở hữu đất mang lại theo tỉ xuất lợi tức của
ngân hàng. Vì thế, giá cả đất đai phụ thuộc vào địa tô và tỉ xuất lợi tức của ngân
hàng. Mác cho rằng, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì tỷ suất lợi tức càng có xu
hướng giảm xuống làm cho giá cả ruộng đất ngày càng tăng, độc lập cả với địa tô.
Hơn nữa, do quan hệ cung cầu về đất đai ngày càng căng thẳng, do chủ tư bản đầu
tư vào đất đai ngày càng nhiều, làm cho địa tô tăng lên. Tất cả những điều đó đẩy
giá cả đất đai cao hơn nữa.
Trước những lợi ích to lớn từ độc quyền sở hữu đất đai, trong thời kỳ tích luỹ

nguyên thuỷ tư bản, giai cấp tư sản và bọn địa chủ sử dụng hình thức bạo lực và dã
mang nhất: “Bọn địa chủ lớn cướp đoạt ruộng đất công xã của nông dân, đuổi nông
dân ra khỏi phần ruộng của họ và biến những ruộng đấ___________t ấy thành những bãi
chăn
cừu hay phát canh cho những nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp. Giai cấp tư sản
mới ra đời cũng dùng mọi phương pháp để chiếm ruộng đất, như mua ruộng đất của
nhà nước bằng những thủ đoạn lừa đảo và cướp đoạt… Bị mất TLSX, đông đảo
quần chúng biến thành những kẻ ăn xin, những người lang thang và trộm cướp.
Chính quyền nhà nước ban bố những đạo luật chống lại những người bị tước đoạt,
những đạo luật đó gọi là những “đạo luật máu” [51; tr.591].
Tượng tự ở nước Nga, thời kỳ Nga Sa Hoàng một bộ phận nông dân bị mất
quyền sở hữu đất biến thành công nhân, họ bị trói buộc bằng bạo lực vào các công
trường thủ công. Cuộc “cải cách nông dân” năm 1861 đã làm cho nông dân mất
ruộng đất và đẩy nhanh vào quá trình phá sản của họ, trong đó số rất đông nông dân
biến thành người vô sản, còn tư bản tích tụ vào trong tay những người sở hữu lớn.
Trước thực trạng bất công của xã hội tư bản đương thời do dựa trên chế độ tư
hữu, trong đó thể hiện rõ nét là tư hữu ruộng đất. Mác và Ăngghen kịch liệt đả phá
chế độ tư hữu tư nhân về TLSX và xem là nguyên nhân của mâu thuẫn xã hội.
- 26 -
Tóm lại sau khi tìm hiểu các tác phẩm của Mác và Ăngghen có liên quan
đến vấn đề nông dân và ruộng đất, có thể nêu một số điểm chính sau đây:
Một là, quan điểm của Mác – Ăngghen phê phán chế độ chiếm hữu ruộng đất
phong kiến và giai cấp địa chủ phong kiến. Trong các tác phẩm: Quốc hữu hóa
ruộng đất (1872), về sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự ra đời của giai cấp tư
sản (1984), Tư bản (quyển thứ ba, tập ba) (1895), hai ông đã viết đại ý như sau: (1)
Bọn lãnh chúa quý tộc sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt lao động của nhân dân.
(2) Tầng lớp quý tộc phong kiến trở nên thừa và là nhân tố cản trở sự phát triển của
xã hội. (3) Giai cấp địa chủ là bọn ăn không ngồi rồi và chiếm đoạt giá trị thặng dư
duới hình thức địa tô.
Hai là, từ những kết quả nghiên cứu nêu trên, trong các tác phẩm: Những

nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản (1848),
Quốc hữu hóa ruộng đất (1872) và vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894), Mác và
Ăngghen đã khẳng định: (1) Phải tước đoạt bọn chiếm hữu ruộng đất. (2) Quốc hữu
hóa ruộng đất ngày càng trở thành một tất yếu xã hội, để ruộng đất phải về tay nông
dân lao động và địa tô được bỏ vào quỹ chi tiêu của Nhà nước.
b. Quan điểm của Lênin về vấn đề ruộng đất
Kế thừa và thực hiện sáng tạo chủ nghĩa Mác, khi bàn về sở hữu đất đai Lênin
cho rằng: ruộng đất phải là sở hữu toàn dân, và một chính quyền có tính chất toàn
quốc phải qui định điều đó. Ngoài ra, Lênin còn giải thích: người nông dân muốn sử
dụng có hiệu quả đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì phải có điều kiện như phải có
vốn và TLSX khác, phải có chuyên gia kỹ thuật và cuối cùng phải có tổ chức.
Ngay từ năm 1894, trong tác phẩm Chân tướng những kẻ “bạn dân” và bọn
ấy hành động chống những người xã hội dân chủ như thế nào? Lênin đã đặt vấn đề
liên minh cách mạng giữa giai cấp thợ thuyền và dân cày, cho đó là phương cách
căn bản để lật đổ chế độ Nga hoàng, địa chủ và tư bản.
Để bảo đảm cho sự liên minh đó, trong Luận cương tháng tư (1917) Lênin đã
đề ra nhiệm vụ: (1) Quốc hữu hóa tất cả ruộng đất trong nước, tịch thu ruộng đất
của bọn địa chủ. Hội nghị tháng tư năm 1917 đã tán thành: Quốc hữu hóa tất cả
ruộng đất trong nước, tịch thu ruộng đấ___________t của bọn địa chủ giao cho Ủy ban dân
cày,
xem đó là điều kiện bảo đảm thắng lợi của cách mạng XHCN. (2) Tư tưởng chỉ đạo
của Lênin đã đưa Cách mạng tháng 10/1917 đến thắng lợi, và ngay sau đó, Sắc lệnh
- 27 -
về ruộng đất đã xóa bỏ vĩnh viễn quyền chiếm hữu ruộng đất của bọn đại địa chủ,
hoàng tộc, Nhà chung và giao cho nông dân hưởng không.
Năm 1920, trong Sơ thảo đề cương về vấn đề ruộng đất viết cho Đại hội II của
Quốc tế cộng sản, Lênin nêu rõ: Chỉ có giai cấp vô sản công nghiệp do ĐCS lãnh
đạo mới có thể làm cho quần chúng cần lao ở nông thôn thoát khỏi ách tư bản và
địa chủ. Giai cấp vô sản cách mạng phải tịch thu tức khắc và triệt để tất cả ruộng đất
của bọn địa chủ chia cho nông dân sử dụng. Và bản Sơ thảo của Lênin đã được Đại

hội II Quốc tế cộng sản thông qua [28; tr.13-15].
1.2.2 Quan điểm tư sản về sở hữu ruộng đất và các mô hình về chế độ sở hữu
ruộng đất ở các nước TBCN
Quan điểm đặc trưng của các nhà kinh tế tư sản luôn xem quyền tư hữu là nền
tảng của đời sống KT - XH. Do đó, vấn đề sở hữu đất đai cũng được thừa nhận dưới
góc độ tư hữu và ra sức bảo vệ cổ xúy cho địa tô TBCN.
Chế độ sở hữu đất đai TBCN lấy chế độ tư hữu TBCN làm nền móng hoặc
thành phần chủ đạo. Chế độ sở hữu đất đai TBCN do chế độ sở hữu đất đai phong
kiến và chế độ sở hữu đất đai nông dân cá thể chuyển hóa thành.
Xét quá trình lịch sử hình thành chế độ sở hữu đất đai TBCN, ngoài con
đường tích lũy nguyên thủy tư bản điển hình ở nước Anh, các nước khác có thể quy
thành hai loại hình: (1) con đường cách mạng dân chủ tư sản. Đặc điểm của nó là
thông qua cách mạng tư sản phá vỡ nền kinh tế địa chủ phong kiến, trải qua sự phân
hóa nhanh chóng của nền kinh tế tiểu nông, làm cho chế độ sở hữu đất đai lớn
TBCN dần dần thay thế chế độ sở hữu đất đai nhỏ của nông dân. Lúc này cái xác
địa chủ phong kiến biến thành chủ sở hữu đất đai TBCN, tiểu nông trở thành người
lao động làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp, các nhà tư bản nông nghiệp nắm
quyền kinh doanh đất đai áp dụng phương thức thuê lao động, kinh doanh nông
trường TBCN. Nông nghiệp nước Mỹ sau chiến tranh Nam Bắc từ 1861 – 1865 là
điển hình về đường đi này. Con đường này thoát khỏi sự trói buộc của các quan hệ
phong kiến tương đối triệt để, có thể khiến cho nền kinh tế TBCN phát triển nhanh
chóng. (2) con đường cải cách chuyển đổi xã hội phong kiến sang TBCN có đặc
điểm là địa chủ phong kiến thông qua cải cách, dưới điều kiện cho phép nông nô
- 28 -
nộp lượng tiền lớn cho địa chủ, được miễn trừ nghĩa vụ nông nô phong kiến đồng
thời phải giao lại ruộng đất vốn đang sử dụng cho địa chủ và từ đó nông nô chuyển
biến trở thành người lao động tự do; còn giai cấp địa chủ thì lại theo PTSX tư bản
cải tạo kinh tế địa chủ, tổ chức nông trường TBCN, tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh. Các nước Phổ, Ý, Nhật thuộc loại này. Con đường này trong điều kiện
bảo lưu đặc quyền của giai cấp địa chủ và bảo tồn tàn dư của chế độ nông nô phong

kiến, là con đường phát triển CNTB.
Tuy rằng chế độ sở hữu đất đai TBCN hình thành và phát triển trên cơ sở của
chế độ sở hữu đất đai phong kiến, nhưng nó được xây dựng trên cơ sở của nền đại
sản xuất xã hội hóa và kinh tế thị trường, vì vậy, so sánh với chế độ sở hữu đất đai
phong kiến chế độ sở hữu đất đai TBCN có hai đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, quyền sở hữu và quyền kinh doanh đất hoàn toàn tách biệt nhau.
Trong xã hội TBCN, người sở hữu đất đai lớn đã nắm và tập trung lượng lớn đất đai
nhưng bản thân họ không trực tiếp sản xuất kinh doanh nông nghiệp mà là đem
ruộng đất cho nhà tư bản nông nghiệp thuê kinh doanh, chủ sở hữu ruộng đất dựa
vào quyền sở hữu đối với ruộng đất mà thu địa tô.
Thứ hai, mối quan hệ giữa quyền sở hữu ruộng đất với người lao động phụ
thuộc vào ruộng đất tách rời nhau. Người công nhân nông nghiệp về mặt pháp luật
có quyền tự do về nhân thân, họ có thể tự do bán sức lao động của mình cho nhà tư
bản nông nghiệp. Kinh doanh về nông nghiệp áp dụng chế độ thuê mướn lao động.
Vì thế, không mang tính chất cưỡng chế siêu kinh tế mà bóc lột phong kiến vẫn có.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại, chế độ sở hữu đất đai TBCN là
loại hình hỗn hợp công tư cùng tồn tại. Phân chia tỷ trọng khác nhau giữa đất công
và đất tư, chế độ sở hữu đất đai TBCN đương đại có thể chia thành hai mô hình2:
Mô hình 1: chế độ sở hữu đất đai lấy nước Mỹ, Nhật, Đức làm đại biểu. Ở
những nước này tuy rằng cũng có đất đai thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu công cộng,
ở Mỹ còn có đất đai thuộc sở hữu bang nhưng đất đai sở hữu nhà nước, sở hữu công
2 Theo Giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ Trình Ân Phú, người Trung Quốc, tác giả giáo trình “Kinh Tế Chính Trị Học
Hiện Đại” xuất bản năm 2007, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân.
- 29 -
cộng ở những nước này không chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ mà phần lớn lại là những
vùng đất giá trị kinh tế không cao như núi rừng, đầm hồ, sông suối, đất hoang…
Chế độ áp dụng đối với những vùng đất chủ yếu ở những nước này là chế độ sở hữu
tư nhân và pháp nhân trực tiếp. Như đất đai tư nhân ở Mỹ chiếm 58% tổng diện
tích, đất đai công hữu thuộc sở hữu hai cấp liên bang và bang chỉ chiếm 42%. Ở
Nhật Bản, đất đai tư nhân và pháp nhân chiếm 65% đất đai toàn quốc, còn đất đai

thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu công cộng tất cả chiếm 35% nhưng tài sản đất đai
nhóm sau chỉ chiếm 6% tổng giá trị tài sản toàn bộ đất đai của Nhật Bản. Nước Đức
lấy chế độ tư nhân về đất đai làm chủ yếu càng nổi rõ hơn, mọi quan chức chính
phủ, công nhân viên chức, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp đều có đất đai riêng.
Thụy Điển, Hà Lan, tỷ trọng đất đai tư hữu của cá nhân, các doanh nghiệp là 60%
và trên 80%.
Đối với các quyền về đất đai, ở những nước này không chỉ có thể mua bán
quyền sử dụng đất đai mà quyền sở hữu đất đai cũng có thể tự do chuyển nhượng,
vì vậy, thị trường đất đai ở những nước này là thị trường mua bán quyền tài sản lâu
dài về đất đai. Chính phủ để bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu và người sử dụng đất
đai tư nhân đã thực hiện quản chế điều hành cần thiết đối với mua bán đất đai, như
đối với số lượng, phạm vi, đối tượng và phương thức giao dịch đất đai sở hữu… đều
có quy phạm pháp luật rõ ràng. Ở Nhật Bản, chính phủ kết hợp với thông cáo công
khai giá đất, thực thi chế độ khuyến cáo xin phép mua bán đất, tức là đương sự mua
bán khi giao dịch hạn ngạch đất đai nhất định, phải trình chính phủ giá đất và mục
đích sử dụng đất, sau khi được phép mới được tiến hành thỏa thuận mua bán. Đồng
thời, trong khu vực hoạch định hạn chế chuyển nhượng đất đai còn thực hiện chế độ
giấy phép mua bán. Về đối tượng giao dịch một số nước thực hiện quy định cấm
bán đất đai cho người nước ngoài, hoặc hạn định về phạm vi, chủng loại, số lượng.
Đa số chính phủ các nước đều có quyền căn cứ theo nhu cầu phát triển KT-XH,
trưng dụng theo pháp luật đất đai của tư nhân, chuyển chúng thành sở hữu công
cộng. Nhưng trên thực tế, mọi người trong giao dịch đất đai vẫn quyết định dựa vào
quan hệ cung cầu trên thị trường đất. chế độ sở hữu đất của các nước Mỹ, Nhật,
- 30 -
Đức… là mô hình lấy toàn bộ quyền tài sản đất làm nội dung giao dịch, lấy nhượng
bộ có đền bù làm điều kiện, lấy nhà nước điều hành và thị trường điều tiết để phân
bổ nguồn tài nguyên đất.
Mô hình 2: chế độ sở hữu đất đai của Anh cùng các nước và khu vực trong
khối liên hợp Anh. Trong những nước và khu vực này, đất đai về cơ bản thuộc sở
hữu nhà nước hoặc chính phủ, đặc điểm của nó là pháp luật quy định đất đai sở hữu

công cộng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất đai từng nước. Ở Anh, pháp
luật quy định toàn bộ đất đai thống nhất thuộc sở hữu nhà vua và cũng chính là sở
hữu chính phủ. Ở Canada, đất đai sở hữu công cộng của liên bang và tỉnh gọi là đất
đai hoàng gia chiếm 90% diện tích lãnh thổ. Singapore và Newzealand, đất đai sở
hữu nhà nước và đất đai sở hữu công cộng chiếm trên 80% và 77%.
Đất đai ở những nước và khu vực này trên danh nghĩa cơ bản thuộc sở hữu
nhà nước hoặc chính phủ, nhưng quyền sử dụng đất có thể do chính phủ căn cứ theo
những kỳ hạn và mục đích sử dụng được quy định khác nhau, cho người sử dụng
đất thuê; người sử dụng đất có thể theo khế ước quy định chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, hoặc dựa vào quyền sử dụng đất thế chấp với ngân hàng để vay tiền; còn
chính phủ lại thu được tiền chuyển nhượng đất khi cho thuê đất, tức giá cả quyền sử
dụng đất một số năm và trưng thu tiền thuế liên quan tới đất đai khi người sử dụng
đất chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc kinh doanh tài sản nhà đất… Dưới chế độ
này, đất đai thuộc sở hữu nhà nước. Để thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường hiện đại, đối với đất đai thực hiện không bán quyền sở hữu mà chỉ bán
quyền sử dụng và bán có kỳ hạn. Chính phủ không những cần phải tăng cường quản
chế chặt chẽ đối với mục đích sử dụng đất đai, mà còn phải thu hồi theo đúng kỳ
hạn và điều kiện quy định. Rất rõ ràng, chế độ sở hữu đất đai này tuy mang tính
chất TBCN nhưng khác với chế độ sở hữu đất đai của các nước Mỹ, Nhật, Đức, có
thể giao dịch được nhưng không phải là toàn bộ nội dung của ngành đất đai, mà chỉ
giới hạn ở quyền sử dụng đất đai và được tiến hành thông qua thị trường thuê sỉ.
Tóm lại, hình thái cơ bản của chế độ sở hữu đất đai TBCN đương đại là chế độ
sở hữu đất đai loại hình hỗn hợp, chế độ sở hữu đất đai hỗn hợp của các nước
- 31 -
TBCN đều lấy chế độ tư hữu làm đặc trưng bản chất, từ đó đã cấu thành bối cảnh
chế độ tư bản cho thị trường đất đai TBCN vận hành và phát triển, quyết định tính
chất, mục đích và nhiệm vụ của chế độ quản lý đất đai [42; tr.408 - 411].
1.2.3 Lý luận về sở hữu trong nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng trong sự nghiệp xây dựng
CNXH. Việc nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề lý luận và thực tiễn sở hữu ở Trung Quốc

trong những năm gần đây có ý nghĩa tham khảo, bổ sung thêm kiến thức phong phú
về sở hữu và có thể phục vụ cho sự nghiệp cải cách KT-XH ở Việt Nam. Các nhà
kinh tế học Trung Quốc đã nghiên cứu và lý giải vấn đề sở hữu như sau:
Về vị trí của vấn đề sở hữu: Theo Chu Thúc Liên, sở hữu và chế độ sở hữu
phải luôn luôn biến đổi, phát triển để phát triển LLSX. Vệ Hưng Hoa cho rằng, xây
dựng CNXH phải lấy chế độ công hữu làm chủ thể hoặc cơ sở để phát triển sản xuất
nhanh hơn. Do đó, chế độ công hữu là tất yếu trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Về vai trò chủ thể của chế độ công hữu: Các nhà kinh tế Trung Quốc có nhiều
ý kiến khác nhau, tuy nhiên có thể khái quát thành ba loại sau đây:
Một là, khẳng định chế độ công hữu XHCN là chủ thể vì cho đó là sự công
bằng (Tôn Thượng Thanh), là nhân tố quyết định sự ổn định toàn cục (Trần Vũ
Minh). Lẫn lộn chế độ công hữu và tư hữu sẽ tạo nên bất công và tiêu cực trong
toàn xã hội (Lưu Quốc Quang).
Hai là, không nên sùng bái chế độ công hữu. Những người theo quan điểm
này cho rằng “bản thân công hữu hóa TLSX không có nghĩa là đạt được mục đích
sản xuất, cũng không có nghĩa là sản xuất xã hội sẽ nhất định tiến hành theo nguyên
tắc bồi dưỡng, nâng cao và phát huy năng lực sáng tạo của con người” (Lệ Dĩ
Ninh). Ngoài ra, “không thể mê tín đối với một chế độ sở hữu nào, cho dù là công
hữu hay tư hữu, cũng không nên thần bí chúng… tất cả đều phải lấy phát triển
LLSX làm tiêu chuẩn” (Chu Thúc Liên). Quan điểm này thừa nhận trong thời kỳ
quá độ lên CNXH có nhiều loại hình sở hữu bởi vì mỗi loại hình sở hữu đều có mặt
mạnh và mặt yếu. Chẳng hạn, theo tác giả Đổng Phụ Những, chế độ công hữu sẽ tạo
- 32 -
điều kiện cho kinh tế công hữu dễ tiếp cận sự điều chỉnh ở tầm vĩ mô của chính phủ,
điều hòa lợi ích xã hội. Trong khi kinh tế tư nhân có lợi thế tương thích, phù hợp
với kinh tế thị trường.
Ba là, xem vai trò kinh tế công hữu là chủ đạo, còn kinh tế ngoài công hữu là
chỉ là sự bổ sung làm phong phú thêm cho sự phát triển của kinh tế công hữu tiến
đến nhanh hơn CNXH.
Vận dụng lý luận sở hữu trong cải cách kinh tế ở Trung Quốc:

Sự nghiệp cải cách kinh tế ở Trung Quốc thể hiện rõ nét sự vận dụng lý luận
sở hữu trong thời kỳ mới. Biểu hiện một số lĩnh vực sau đây:
Thứ nhất, nhận thức rõ sự trì trệ và yếu kém của chế độ sở hữu công xã trong
mô hình kinh tế tập thể kiểu cũ, từ đó mạnh dạn giải thể các công xã và thực hiện
chế độ khoán đến hộ nông dân (từ năm 1979 – 1984). Đây là bước đột phá trong cải
cách và mở cửa kinh tế nhờ đó nông nghiệp phát triển dần theo cơ chế thị trường.
Thứ hai, đa dạng hóa sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước thông cải cách
mạnh mẽ bằng các biện pháp như: cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, sáp nhập,
phân tách, bán, giải thể và phá sản doanh nghiệp nhà nước.
Tóm lại, sự tương đồng và khác nhau về chế độ sở hữu của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Trung Quốc và chủ nghĩa tư bản như sau: chủ nghĩa Mác – Lênin, Trung
Quốc theo chế độ sở hữu xã hội về TLSX (đất đai). Một số nước TBCN như Anh và
khối liên hợp Anh, Canada, Thái Lan…theo chế độ sở hữu tối cao (sở hữu tuyệt
đối) tức là sở hữu nhà vua (hoàng gia hay sở ___________hữu nhà nước). Phần còn lại của
thế
giới theo chế độ tư hữu đất đai. Vì vậy, những nước nào nhấn mạnh chế độ sở hữu
tư nhân thì thừa nhận quyền tư hữu ruộng đất có giới hạn (nghĩa là quyền tư hữu
ruộng đất trong các giao dịch dân sự và kinh tế nằm trong khuôn khổ qui định cho
phép của luật pháp như qui hoạch chung, mục đích sử dụng…); còn những nước
nhấn mạnh chế độ sở hữu nhà nước (sở hữu nhà nước XHCN; sở hữu tối cao, sở
hữu tuyệt đối của nhà vua, hoàng gia) thì trao quyền sử dụng đất và kèm theo các
- 33 -
quyền thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển nhượng nhằm bảo đảm hưởng dụng gần
như quyền sở hữu có giới hạn.
1.3 MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TỔ CHỨC – QUẢN
LÝ ĐẤT ĐAI TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.3.1 Khái niệm, nội dung quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong nông
nghiệp và phát triển nông thôn
1.3.1.1 Khái niệm
- Khái niệm quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất thể hiện quyền lực của một cá

nhân hay cộng đồng đối với quá trình sản xuất. Những vấn đề sản xuất như thế nào,
sản xuất bằng cái gì, sản xuất sản phẩm gì, sản xuất bao nhiêu, tiêu thụ ở đâu, quy
mô của quá trình sản xuất… đều do người tổ chức, quản lý sản xuất quyết định. Tuy
quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu về TLSX quyết định nhưng
tổ chức, quản lý có tính năng động, độc lập tương đối của nó. Tổ chức, quản lý sản
xuất theo hình thức này hay hình thức kia đều ảnh hưởng đến năng suất lao động.
Trong khuổn khổ của một PTSX thì cơ chế tổ chức, quản lý sản xuất có ý nghĩa
quyết định sự tồn tại của PTSX đó. Sự khủng hoảng của một cơ sở sản xuất hoặc
trên phạm vi toàn xã hội đều bắt nguồn từ cách thức tổ chức, quản lý sản xuất. Sau
khủng hoảng, người ta tổ chức lại doanh nghiệp, thay đổi cơ chế quản lý phù hợp
thì sản xuất vẫn phát triển, chế độ xã hội vẫn không thay đổi. Những cải cách xã hội
trong các nước TBCN cũng như một số nước XHCN đã minh chứng điều đó. Lịch
sử loài người đã từng trải qua các hình thức tổ chức, quản lý sản xuất: tự quản trong
xã hội công xã nguyên thủy, gia trưởng trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phát canh thu
tô trong xã hội phong kiến, cơ chế thị trường trong xã hội TBCN… Mỗi hình thức
tổ chức, quản lý là một sự phù hợp tương đối với LLSX, đồng thời nó tạo cho sức
sản xuất phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, đáp ứng được nhu cầu của cá
nhân và cộng đồng, cũng là động lực cho xã hội phát triển. [37; tr.170-171]
- Khái niệm quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong NN & PTNT
- 34 -
Theo nghĩa hẹp, quan hệ tổ chức – quản lý đất đai trong NN & PTNT là quan
hệ giữa các chủ thể về việc tổ chức, quản lý đất đai trong lĩnh vực nông nghiệp và

×