Tải bản đầy đủ (.docx) (166 trang)

Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn tỉnh prey veang, campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.97 KB, 166 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chường I cơ sở lý luận và thực tiễn về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo
1.1. Cơ sở lý luận về nghèo đói
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nghèo đói
1.1.2. Khái niệm về đói nghèo
1.1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá nghèo đói
1.1.4. Ảnh hưởng của nghèo đói đối với các vấn đề trong đời sống xã hội
1.1.5. Những nguyên nhân của sự nghèo đói trên thế giới
1.2. Cơ sở thực tiễn về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo
1.2.1. Sơ lược về tình hình nghèo đói trên thế giới
1.2.2. Kinh nghiệm chống nghèo đói của các tổ chức quốc tế
1.2.3. Kinh nghiệm XĐGN của một số nước trong khu vực
1.2.4. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của Campuchia
Chường II đặc điểm ĐỊA BÀN và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đặc điểm tự nhiện, kinh tế-xã hội của tỉnh Prey Veang
2.1.1. Dân số , Lao động và đất đai
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
2.2. Phương pháp nghiên cứu luận án
2.2.1. Chọn điểm nghiên cứu
2.2.2. Chọn mẫu điều tra
1


2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
2.2.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu


2.2.6. Hệ thống chỉ tiêu vè xoá đói giảm nghèo
Chường III Thực trạng nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn
tỉnh Prey Veang, Campuchia
3.1. Tình hình nghèo đói chung của tỉnh
3.2. Thực trang nghèo đói vùng nông thôn tỉnh PreyVeang
3.2.1. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra
3.2.2. Điều kiện sản xuất của các hộ
3.2.3. Thu nhập và cơ cấu thu nhập của hộ điều tra
3.2.4. Chi tiêu và cơ cấu chi tiêu của các hộ điều tra
3.2.5. Tích luỹ của các hộ điều tra
3.2.6. Trang bị đồ dùng hàng ngày của hộ nghèo
3.3. Nguyên nhân nghèo đói vùng nông thôn Tỉnh Prey Veang, Campuchia
3.3.1. Nét đặc trưng của sự nghèo đói ở Campuchia
3.3.2. Nguyên nhân chung dẫn đến nghèo đói của người dân Campuchia
3.3.3. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nghèo đói vùng nông thôn
tỉnh Prey Veang
3.3.4. Những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết cho công tác XĐGN
Chương iv giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo vùng nông thôn tỉnh Prey
Veang
4.1. Quan điểm chung về xoá đói giảm nghèo bền vững
4.2. Giải pháp XĐGN vùng nông thôn tỉnh Prey Veang, Campuchia
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao trách nhiệm vài tró của các cơ
quan, chính quyền
4.2.2. Giải pháp xoá đói giảm nghèo chủ yếu đối với người nghèo
4.2.1. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực sản xuất trong NNNT
2


4.2.2. Nhóm giải pháp về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực và quyền lực cho người nghèo

4.2.4. Nhóm giải pháp về an sình xã hội
Kết luận và kiến nghị
Danh mục công trình nghiên cứu của tác giả
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế-xã hội phức tạp chứ không thuần tuý
chỉ là vấn đề kinh tế cho dù các số đo của nó trước hết và chủ yếu dựa trên số
đo về kinh tế. Chính vì vậy, nếu chỉ dựa trên sự tăng trưởng kinh tế cao thì
chưa giải quyết được tận gốc vấn đề nghèo đói. Mặc dù vậy, nghèo đói có
nguyên nhân trước hết từ kinh tế, sau nữa nó là hệ quả từ sức tác động tổng
hợp của các yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội.
Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên
con đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn
về tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng
thêm vượt bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên
lưng con người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế trong 6 tỷ người của thế
giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức 2 USD/ngày, đặc biệt có
tới 1 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày [14],[22].
Nghèo đói không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến một bộ phận dân cư, từ
cá nhân, gia đình đến cả cộng đồng trong xã hội, mà nó còn là một trong
những nguyên nhân gây ra xung đột chính trị, xung đột giai cấp, dẫn đến bất
ổn định về xã hội, bất ổn định về chính trị.
Mọi dân tộc tuy có thể khác nhau về khuynh hướng chính trị, nhưng đều
có một mục tiêu là làm thế nào để quốc gia mình, dân tộc mình giàu có. Vậy,
nếu vấn đề nghèo đói không được giải quyết thì sẽ không thực hiện được mục

tiêu mà cộng đồng đặt ra như hoà bình, ổn định và đảm bảo quyền con người.
Xoá đói giảm nghèo được coi là một vấn đề có tính toàn cầu của loài người

4


trước thềm thiên niên kỷ mới. Trong quá trình phát triển, khi mà quá trình tăng
trưởng kinh tế và những bước tiến nhảy vọt về khoa học công nghệ đã tạo ra một
năng suất lao động cao, từ đó kiến tạo một đời sống vật chất cao hơn thì cũng là
lúc họ phải đương đầu với những vấn đề nghèo đói và khủng hoảng môi trường.
Xoá đói giảm nghèo được Liên Hiệp Quốc và hầu hết các quốc gia trên
thế giới coi là nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình hiện đại hoá. Các
quốc gia Đông Nam Á nói riêng, bên cạnh những vấn đề chung của các nước
đang phát triển còn có vấn đề đặc thù. Với một tỷ lệ 1/4 đến 1/2 dân số được
coi là có mức sống thấp, tại các nước đang phát triển, mục tiêu phát triển bền
vững đã và đang bị sự nghèo đói tấn công, bên cạnh các yếu tố tác động khác
như: Thiên tai, sự phá huỷ môi trường tự nhiên, cạn kiệt các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, sự thiếu hụt về nguồn lực con người…[19], [31].
Đánh giá thực trạng mức sống dân cư theo mỗi giai đoạn phát triển và
diễn biến thay đổi mức sống dân cư theo các mức độ khác nhau là cơ sở để
hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế xã hội hướng tới một xã
hội phát triển văn minh công bằng. Nghiên cứu mức sống dân cư và thực trạng
đói nghèo sẽ cung cấp các tư liệu cần thiết nhằm đưa ra các chính sách phát
triển để hướng tới các mục tiêu trên. Tuỳ vào tình hình phát triển theo các giai
đoạn khác nhau sẽ có chính sách phát triển và chính sách đảm bảo xã hội phù
hợp.
Campuchia là một nước giàu tiềm năng cho sự phát triển nông nghiệp
vì đất đài, khí hậu thời tiết tại nơi này rất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp.
Nhưng ngược lại, năng suất thu hoạch từ sản xuất nông nghiệp của người
nông dân Campuchia lại rất thấp (trung bình 1,8 tấn/năm/hectar).

Theo thông kế năm 2005 có khoảng 84% dân số trong nước là nông
dân, kết quả đạt được từ ngành nông nghiệp chiếm 55.28% GDP cả nước
[45]. Với kết quả này cho thấy đời sống vật chất của người dân vẫn còn thấp.
5


Thêm vào đó kinh tế chưa phát triển, Chính trị trong nước không ổn định và
lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh, vì vậy nghèo đói là hiện tượng khá phổ
biến và kéo dài qua nhiều thế hệ tại đất nước nay. Sau khi trở lại hoà bình ổn
định kinh tế, chính trị, nhất là từ năm 1999 cho đến nay với sự mở rộng kinh
tế thị trường, sự giúp đỡ của nhiều tổ chức quốc tế và hỗ trợ của các nước bạn
đã làm cho nền kinh tế Campuchia có nhiều khởi sắc. Nhưng Campuchia vẫn
còn rất nhiều việc cần phải làm để phát triển đất nước và nâng cao đời sống
của người dân và xoá đói giảm nghèo.
Prey Veang là một trong những tỉnh thuộc diện nghèo tại Campuchia,
85% số người lao động là nông dân. Kết quả thu được từ sản xuất nông
nghiệp chiếm năng suất rất thấp, hơn 33% trên tổng dân số của tỉnh là người
nghèo đói. Vấn đề cuộc sống người dân luôn luôn có sự biến động, khó khăn
và thuận lợi pha trộn với nhau, hơn nữa điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội,
phong tục tập quán mỗi vùng, mỗi nơi khác nhau. Nhất là trong hoàn cảnh sản
xuất nông nghiệp còn lệ thuộc rất nhiều vào các yếu tố thiên nhiên, tự cung tự
túc, trình độ kinh tế còn chưa phát triển, dân trí thấp, cơ sở hạ tầng thấp kém.
Do đó vấn đề tìm ra thực trạng và những nguyên nhân nghèo đói là một
trong những nhiệm vụ rất quan trọng, để từ đó chung ta có thể rút ra được
những biện pháp và giải pháp thích hợp nhất cho công tác xoá đói giảm nghèo
cũng như đối với người nghèo, nhằm cải thiện đời sống người dân, nâng cao
thu nhập và thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Chính vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải
pháp xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn tỉnh Prey Veang, Campuchia”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

- Góp phần hệ thông hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo
đói và xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn.
- Phân tích và đánh giá thực trạng đói nghèo qua đó rút ra những nguyên
6


nhân ảnh hưởng đến nghèo đói, đánh giá kết quả công tác xoá đói giảm nghèo
vùng nông thôn tỉnh Prey Veang nói riêng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xoá đói giảm
nghèo ở vùng nông thôn tỉnh Prey Veang, Campuchia.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tình trạng

nghèo đói vùng nông thôn.
- Tìm hiểu những kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của các nước trên
thế giới thông qua một số tài liệu, số liệu có liên quan.
- Nghiên cứu mối quan hệ của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội,
các chính sách có liên quan đến vấn đề nghèo đói, phát triển kinh tế xã hội
nâng cao thu nhập và đời sống cuả người dân nông thôn. Xem xét và đánh giá
các hoạt động mang tính kinh tế-xã hội nhằm giúp người nghèo ổn định sản
xuất và nâng cao đời sống.
- Nghiên cứư thực trạng và nguyên nhân nghèo đói của các hộ nông
dân ở vùng nông thôn Campuchia.
- Nghiên cứu chính sách xoá đói giảm nghèo của chính phủ cũng như
các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo của các tổ chức liên quan và hoạt
động xoá đói giảm nghèo của địa phương.
- Tập trung nghiên cứu tình hình sản xuất, việc làm, thu nhập và đời

sống của người dân vùng nông thôn Tỉnh Prey Veang, Campuchia, Thông qua
việc điều tra khảo sát thực tiễn trực tiếp tại một số địa điểm được chọn nghiên
cứu.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

7


- Về nội dung: Tập trung chủ yếu vào phần tích thực trạng nghèo đói và các
giải pháp xoá đói giảm nghèo ở vùng nông thôn Tỉnh Prey Veang, Campuchia.
- Về không gian: Vùng nông thôn tỉnh Prey Veang, Campuchia.
- Về Thời gian: 02/2003- 2008.

CHƯỜNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận về nghèo đói
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về nghèo đói
Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ
lực lượng sản xuất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người khai thác
thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và
những nhu cầu khác. Năng suất lao động ngày càng cao thì của cải ngày càng
nhiều, các nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn, trái lại năng suất lao động
thấp, của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo đói.
Trong xã hội có giai cấp, những người bị áp bức, bóc lột phải chịu cuộc
sống cùng cực. Thêm vào đó thiên tai, chiến tranh tàn phá, gây nên bao cảnh
lầm than, tang tóc. Nghèo đói không chỉ xuất hiện và tồn tại lâu dài dưới chế
độ công xã nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến với trình
độ lực lượng sản xuất kém phát triển mà ngay cả trong thời đại ngày nay, với
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, với lực lượng sản xuất cao

chưa từng thấy, nhưng trong mỗi quốc gia kể cả các quốc gia phát triển nhất
trên thế giới, nghèo đói vẫn tồn tại một cách hiển nhiên. Do đó, loài người đã
phải luôn luôn tìm mọi cách để nâng cao trình độ sản xuất của mình, chống
8


đỡ với thiên tai, dịch hại và các rủi ro bất hạnh để cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Mỗi một phát minh khoa học, mỗi một bước tiến của trình độ lực lượng
sản xuất cũng như những tiến bộ về quan hệ giữa con người với con người
đều góp phần trong tiến trình giảm nghèo. Đó là công lao của các nhà khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, của các nhà
sáng chế, phát minh, của những người lao động sáng tạo. Tuy nhiên, ở các
thời đại khác nhau, cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về quan niệm,
nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng nghèo đói. Điều đó phụ
thuộc vào nhân sinh quan và thế giới quan của mỗi người, mỗi giải cấp, mỗi
đảng phái đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và cách tiếp cận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng ta cần phải xem xét vấn đề
nghèo đói trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh [30],
[19].
Nghèo đói là một vấn đề kinh tế-xã hội phức tạp chứ không thuần tuý
chỉ là vấn đề kinh tế cho dù các số đo của nó trước hết và chủ yếu dựa trên số
đo về kinh tế. Tác động kinh tế với vấn đề nghèo đói được biểu hiện với
những nhân tố chính sau đây: Mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế sản xuất (gắn
với phân công lao động xã hội), cơ chế quản lý, phương thức sản xuất và phân
phối, chính sách kinh tế-xã hội, đây là những nhân tố tác động trực tiếp.
Ngoài ra, có hàng loạt các nhân tố khác mang nội dung kinh tế-xã hội và xã
hội-kinh tế tác động đến nghèo đói như môi trường kinh tế, thị trường giá cả,
diễn biến dân số và lao động, trình độ kĩ thuật-công nghệ, giáo dục và đào tạo,
tính chất và khả năng giải quyết các vấn đề xã hội... Bao quát lên tất cả nhân
tố đó là xã hội đang đi theo một lý thuyết phát triển nào? Hoặc đang chuyển

động theo một mô hình phát triển nào?. Trên thế giới có nhiều mô hình và
chiến lược phát triển khác nhau. Tựu trung lại có 3 mô hình phát triển sau:
Thực hiện tăng trưởng kinh tế với bất cứ giá nào, không chú ý đến
vấn đề xã hội
9


Các lý thuyết của mô hình phát triển này cho rằng nếu đạt được tăng
trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền đề để giải quyết các vấn đề khác trong đó có nghèo
đói chính vì thể lý thuyết này nhấn mạnh đến nhân tố kinh tế, kĩ thuật. Đây là mô
hình đã được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa con người
với con người trong xã hội này là quan hệ như Mác nói “ Giai cấp tư sản thẳng
tay phá vỡ không để lại giữa người với người một mối quan hệ nào khác ngoài
lợi ích trần trụi và lối trả tiền ngay, tiền trao, cháo múc không tình nghĩa”.
Thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó giải quyết các vấn đề xã
hội
Đây là mô hình được áp dụng ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa vùng Bắc
Âu, Mô hình phát triển này tiến bộ hơn mô hình phát triển trước bởi các lý
thuyết không chỉ tập trung vào mục đích tăng trưởng kinh tế mà còn quan tâm
mặt xã hội. Hình ảnh họ thường dùng là “ Hãy để cho chiếc bánh to lên rồi
sau đó phân chia công bằng cho mọi người”. Tiêu biểu là lý thuyết “chữ U
ngược” của nhà kinh tế học S.Kunetz. Trên thực tế lý thuyết của S.Kunetz
cũng gặp những hạn chế cho nên nó không được áp dụng rộng rãi do hiệu quả
thực tế không phù hợp với mong muốn của lý thuyết.
Thực hiện tăng trưởng kinh tế đồng thời với giải quyết các vấn đề xã
hội
Đây là mô hình được nhiều nhà khoa học, nhiều lý thuyết tập trung
nghiên cứu và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Các lý thuyết đi theo
khuynh hướng này đề cập vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
Tiêu biếu là lý thuyết “Nền kinh tế thị trường xã hội của cộng hoà Liên bang

Đức”. Lý thuyết này đặc biệt quan tâm đến vấn yếu tố xã hội nhằm nâng cao
mức sống của các nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất, đồng thời bảo vệ tất cả
các thành viên trong xã hội, khắc phục những khó khăn về kinh tế, xã hội do
gặp phải những rủi ro trong cộng đồng. Để đáp ứng mục tiêu đó cần phải tăng
10


trưởng kinh tế, phân phối thu nhập một cách công bằng, xây dựng hệ thống
bảo hiểm xã hội như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tuổi già, sức khoẻ, tai
nạn,... xây dựng chế độ phúc lợi xã hội đặc biệt là trợ cấp xã hội cho những
người nghèo, cô đơn không nơi nương tựa,...[31].
Như vậy việc tồn tại nhiều kiểu nền kinh tế thị trường với các vai trò
can thiệp của nhà nước rất khác nhau ở các nước trên thế giới cũng là một
thách thức đặt ra cho các quốc gia đi sâu trong việc lựa chọn con đường phát
triển của minh.
1.1.2. Khái niệm về đói nghèo
Đói: La một bộ phận của những hộ nghèo, mọi điều kiện không đạt
được mức sống tối thiểu. Đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người
ăn không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống
hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Đây là
trường hợp đói gay gắt kinh niên… là tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Cũng
như vậy, nếu con người trong những hoàn cảnh đột xuất bất ngờ do thiên tai
bão lụt, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng cực, không còn gì để sống, không có
lương thực, thực phẩm để ăn, có thể dẫn tới cái chết thì đó là trường hợp đói
gay gắt cấp tính, phải cứu trợ khẩn cấp [19].
Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, dễ thấy
nhất là ở trẻ em và phụ nữ . Có thể hình dung tình trạng đói ở các hộ gia đình
nông dân hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới mức tối thiểu qua động
thái các bữa ăn trong ngày của họ. Có mấy biểu hiện như sau:
- Thất thường về lượng: có bữa đói bữa no

- Đứt bữa: ngày chỉ ăn một bữa, bữa cơm, bữa cháo, hoặc cả hai bữa
đều không đủ lượng tối thiểu chứ chưa nói tới chất dinh dưỡng cần thiết.
- Đứt bữa kéo dài tới 1-2-3 tháng trong năm, nhất là thời kỳ giáp hạt.

11


Nghèo: Là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có các điều kiện vật
chất và tinh thần để duy trì cuộc sống của gia đình họ ở mức sống tối thiểu
trong điều kiện chung của cộng đồng. Mức sống tối thiểu ở đây được hiểu là
các điều kiện ăn, ở, mặc và các nhu cầu khác như văn hoá, y tế, giáo dục, đi
lại, giao tiếp,… Chỉ đạt mức duy trì cuộc sống rất bình thường và dưới đó là
sự nghèo khổ. Nghèo luôn luôn là dưới mức trung bình của cộng đồng xét
trên mọi phương diện. Giữa mức nghèo và mức trung bình có một khoảng
cách thường là 3 lần trở lên [4],[13],[25].
Nghèo đói: Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu Á -Thái
Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Bangkok Tháng 9/1993 [4], đã đưa ra khái
niệm về định nghĩa nghèo đói như sau: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân
cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của các địa phương. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo
đói. Căn cứ xác định nghèo hay đói là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy,
con người không được và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản nói ở đây chính là cái thiết
yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như ăn, ở, mặc…
Theo tiến sĩ Guilna [31], thuộc Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã
đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối như sau:
Nghèo tuyệt đối: là việc không thoả mãn các nhu cầu tối thiểu (ăn, ở,
mặc nhu cầu văn hoá, y tế, giáo dục và giao tiếp) để nhằm duy trì cuộc sống
của con người. Khái niệm nghèo tuyệt đối có xu hướng đề cập đến những
người đang bị thiếu ăn (nghèo đói).

Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức thu nhập
dưới mức trung bình của cộng đồng. Khái niệm nghèo tương đối đề cập đến
những người nghèo nhất về phân phối thu nhập ở một nước nhất định.
Vậy nghèo ở khía cạnh kinh tế được hiểu như thế nào? Nghèo là do
12


thiếu sự lựa chọn đến mức cùng cực và thiếu năng lực tham gia vào đời sống
kinh tế xã hội của quốc gia chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế. Định nghĩa này
muốn nhấn mạnh đến hai nhân tố khách quan (thiếu sự lựa chọn) và nhân tố
chủ quan (thiếu năng lực) trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh tế xã
hội dẫn đến nghèo đói. Đây là hai nhân tố quan trọng quyết định đến qúa trình
phát triển của một quốc gia, vùng, miền, hộ gia đình và cá nhân người lao
động. Ví dụ: Những người tàn tật, người mất sức lao động, những người do
thiếu vốn, không có kiến thức, không có kinh nghiệm làm ăn, trình độ văn
hoá thấp, ở vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh,... dễ rơi vào nghèo đói.
Ở một khía cạnh khác, nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
một vùng, một miền. Điều này có nghĩa là nghèo trước hết là sự phản ảnh
trình độ phát triển về kinh tế (lực lượng sản xuất). Các nước nghèo là những
nước có trình độ phát triển lực lượng sản xuất thấp kém. Ngược lại, các chỉ số
xác định thế nào là nghèo cũng cho biết trình độ phát triển kinh tế xã hội nói
chung và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng ở vùng, miền,
quốc gia ấy ở một thời điểm nhất định. Ví dụ: Chỉ số thu nhập bình quân đầu
người là 400 USD/người/năm cho biết đây là nước nghèo đang phát triển. Với
thu nhập bình quân đầu người là 13.000 USD/người/năm cho biết đây là nước
phát triển.
Như vậy trên thế giới tương ứng với ba nhóm nước có 3 dạng nghèo
khác nhau: Nghèo ở các nước có trình độ phát triển kinh tế cao, nghèo ở các
nước có trình độ phát triển kinh tế chậm phát triển và nghèo ở các nước có

trình độ kinh tế phát triển trung bình. Tóm lại, khi quan niệm và đánh giá về
nghèo đói cần xét trong các điều kiện sau:
- Trong từng giai đoạn lịch sử
- Trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng, một miền, một
13


tầng lớp, một nhóm dân cư. Ví dụ: Ngưỡng nghèo ở nước Mỹ đựơc xác định
như sau: ở thời điểm năm 1970 dưới 5.500 USD/hộ 4 người/năm, năm 1988
dưới 10.921 USD/hộ 4 người/năm và vào năm 1992 dưới 13.680 USD/hộ 4
người/năm [31]. Ở Campuchia được xác định như sau : ở thời điểm 1980 dưới
250 USD/hộ/năm, năm 1990 dưới 380 USD/hộ/năm và năm 2000 dưới 420
USD/hộ/năm (trung bình cả nước) [83].
Nghèo có những cấp độ, nghèo có thế ở dạng đói, nghèo tuyệt đối,
nghèo tương đối,... chính vì vậy, nói đến nghèo không chỉ tính số người
nghèo, tỷ lệ nghèo mà còn phải đo độ nghèo tức là đo khoảng cách giữa số
thu nhập quan sát được với ngưỡng nghèo được ấn định. Tỷ lệ và cấp độ
nghèo phản ánh trình độ phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia, một vùng,
một địa phương trong từng thời kỳ lịch sử. Nghèo được tính theo thời gian, có
thể sự nghèo được truyền từ đời này sang đời khác hay còn gọi là nghèo dai
dẳng kéo dài thường có ở các nước chậm phát triển. Nghèo có nhiều chiều
hay có nhiều phương diện, nó không chỉ phản ánh sự thiếu ăn, thiếu mặc,
thiếu phương tiện sản xuất và sinh hoạt đời sống mà là một loại điều kiện
thiệt thòi trên bình diện sức khoẻ, văn hoá, giáo dục, địa vị xã hội... Người
nghèo nói chung thường ở trạng thái không có, không biết, không thể, hoặc ở
trong những điều kiện mong manh đến nỗi có nguy cơ rơi vào sự cùng quẫn
và chồng chất mọi thiệt thòi.
Nghèo ở Campuchia mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản như:
- Nghèo dai dẳng kéo dài, nghèo từ đời này sang đời khác.
- Nghèo có cấp độ rất lớn, khoảng cách giữa số thu nhập quan sát được

với ngưỡng nghèo được qui định ở Campuchia và trên thế giới là rất lớn. Biểu
hiện là Campuchia vẫn còn một bộ phận dân cư bị đói.
Đây là hai đặc trưng phản ánh thực trạng Campuchia là nước còn rất
nghèo, nằm trong nhóm nước đang phát triển với trình độ phát triển của lực
14


lượng sản xuất còn thấp kém. Đồng thời hai đặc trưng này chi phối rất nhiều
đến tiến trình giảm nghèo ở Campuchia hiện nay.
Theo Bộ Kế hoạch và Bộ Phát triển Nông thôn Campuchia đã phân loại
đói làm hai dạng (theo mốc đánh giá năm 2005) [79],[55]:
- Thiếu đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông thôn có thu
nhập dưới mức 58.200 Riel/người/tháng (tương đương với 14,5 USD/người
/tháng), và thành thị có thu nhập dưới mức 72.000 Riel/người/tháng (tương
đương với 18 USD/người/tháng).
- Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập
dưới 24 kg gạo/người/tháng, hay tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông
thôn có mức thu nhập dưới 38800 Riel/người/tháng (tương đương với 9,8
USD/người/tháng), và ở thành thị là 27kg gạo/người/tháng, tức là có thu nhập
dưới mức 48200 Riel/người/tháng (tương đương với 12 USD/người/tháng).
Tóm lại, nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối. Tính chất và
đặc trưng của nghèo phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
trình độ phát triển kinh tế -xã hội của vùng, miền, quốc gia và khu vực.
Ranh giới nghèo đói: Nhìn chung các tổ chức quốc tế đều cho rằng một
người nào đó có mức sống dưới mức tối thiểu tại một thời điểm nào đó được
coi là nghèo. Như vậy mức sống tối thiểu được tính bằng tiền qua thu nhập tối
thiểu có thể coi là ranh giới nghèo.
Mức sống tối thiểu: là mức sống trong đó những nhu cầu tự nhiên tối
thiểu chỉ bảo đảm cho cuộc sống con người hàng ngày, tức là những nhu cầu
thuần tuý về vật chất như thức ăn, quần áo, nhà ở, thuốc chữa bệnh… Phải

đảm bảo để cuộc sống của một con người được tồn tại ở mức bình thường.
Mức sống tối thiểu của mỗi nước sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào khí hậu,
những đặc điểm tự nhiên và tuỳ thuộc vào mức độ văn minh đã đạt được của

15


từng thời đại và của mỗi nước. Ngân hàng Thế giưói đã lấy chỉ tiêu thu nhập
bình quân (GDP) tính theo đầu người làm thước đo ranh giới nghèo khổ giữa
các quốc gia. Thước đo này được xác định theo hai mức: 275USD và
370USD. Nếu ranh giới GDP/người/năm bằng 275 USD thì số người nghèo
chiếm 11% ở các nước đang phát triển, và nếu ranh giới GDP/người/năm
bằng 370 USD thì số người nghèo chiếm 1/3 dân số tại các nước này [19].
Phân hoá giàu nghèo: ở những nước phát triển và đang phát triển sự
phân hoá giàu nghèo được đánh giá theo khoảng cách về thu nhập, giữa phần
thu nhập của 20% lớp người có thu nhập cao nhất gọi là lớp người giàu chiếm
giữ và phần thu nhập của 20% lớp người có thu nhập thấp nhất gọi là lớp
người nghèo có trong xã hội (phản ảnh mức độ bất bình đẳng bằng hệ số Gini
và đường cong Lorenz) .
1.1.3. Một số chỉ tiêu đánh giá nghèo đói
Quan điểm của thế giới khi xác định nghèo đói thường được xem xét
theo 4 khía cạnh: thời gian, không gian, giới tính và môi trường.
- Về thời gian: phần lớn người nghèo là những người có mức sống dưới
mức tổi thiểu trong một thời gian dài. Tuy nhiên, cũng có những người nghèo
“tình thế” trong một khỏang thời gian nhất định chẳng hạn như những người
thất nghiệp, những người nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, dịch
hoạ, tệ nạn xã hội, rủi ro, v.v...
- Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở vùng nông thôn. Tuy
nhiên, tình trạng nghèo đói ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển
cũng có xu hướng gia tăng.

- Về giới tính: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia
đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Ngay trong các hộ nghèo đói do đàn
ông làm chủ hộ thì phụ nữ vẫn khổ hơn nam giới.

16


- Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở
những vùng sinh thái khắc nghiệt, nơi mà lũ lụt, hạn hán luôn đe doạ đến sản
xuất kinh doanh và đời sống của họ.
Chỉ tiêu đánh giá sự nghèo đói trên thế giới dựa vào nhiều phương
pháp khác nhau. Đối với từng quốc gia, hiện nay Ngân hàng Thế giới (WB),
đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng thu
nhập bình quân đầu người theo 2 phương pháp tính:
- Nhóm các nước nghèo nhất
- Nhóm các nước có trình độ trung bình
- Nhóm các nước có thu nhập khá cao
- Nhóm các nước có thu nhập cao và rất cao
Theo phương pháp thứ nhất, người ta phân biệt thành 6 loại về sự giàu
nghèo của các nước (lấy theo mức thu nhập năm 1990), cụ thể như sau:
- Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu
- Từ 20.000 đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu
- Từ 10.000 đến dưới 20.000 USD/người/năm là nước khá giàu
- Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD/người/năm là nước trung bình
- Từ 500 đến dưới 2.500 USD/người/năm là nước nghèo
- Dưới 500 USD/người/năm là nước cực nghèo [18].
Với cách tính này, hiện nay trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người (chiếm
20% dân số) đang sống trong tình trạng nghèo đói. Tuỳ theo mỗi nước, đưa ra
cho mình một chuẩn mực nghèo đói khác nhau.
Bảng 1.1: Thu nhập bình quân đầu người của một số nước Châu Á năm 2002

Đơn vị tính: USD/người/năm

17


Stt

Tên các nước

TNBQĐN

Stt

Tên các nước

TNBQĐN

1

Brunei

12.928

8

Thái Lan

1.983

2


Cambodia

336

9

Singapor

20.699

3

Indonesia

780

10

Viet Nam

431

4

Lao

333

11


India

419

5

Malaysia

3.884

12

China

959

6

Myamar

110

13

Korea

10.015

7


Phillipin

948

14

Japan

31.304

(Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt, 2003, Việt Nam, trang 103-109)

Như vậy, ta thấy tiêu chí phổ biến để đo mức độ, trình độ phát triển
chung của một quốc gia là thu nhập bình quân đầu người. Một số nhà nghiên
cứu cho rằng chỉ căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy,
bên cạnh chỉ tiêu này, Tổ chức Hội đồng phát triển hải ngoại (ODC) đưa ra
chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI), căn cứ để đánh giá chỉ số
PQLI gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ
xoá mù chữ. Gần đây Liên hiệp quốc còn đưa ra tiêu chí phản ảnh mức sống
của con người là thành tựu y tế, xã hội, trình độ văn hoá, giáo dục, mà tổng
hợp là chỉ số phát triển con người (HDI), giá trị của HDI trong khoảng (0,1).
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá trên người ta còn sử dụng hệ số Gini để đo
sự bất công bằng hay bình đẳng giữa người giàu và người nghèo.
Gini (Gini coefficient): Là một hệ số có giá trị giao động trong khoảng từ
0 đến 1 và được tính bằng miền nằm trong khoảng giữa đường cong Lorenz
(chỉ mức độ mất cân đối trong việc phân phối thường xuyên, như các thu
0
bằng
tuyệt

thu nhập
nhập %cáTổng
nhân)
với đường Đường
thẳng45o
45công
trên
toạ
độđốiĐề Các.

Hình 1.1: Đồ thị tính hệ số Gini
Đường công Lorenz Lorenz

18

% Các nhóm người


100

A
B

100

(Nguồn: Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, [15,Trang 87])

Hệ số G (Gini) có thể được tính theo công thức sau:
G = 1+


1
2 n
− 2 ∑ ny i
n n y i =1

Trong đó: Yi: là thu nhập của người thứ i theo thứ tự giảm dần (trong
công thức có nghĩa là cộng dồn từ người có thu nhập thấp nhất).

y

: là thu nhập bình quân

n: là số người
Nếu sự phân phối thường xuyên là ngang bằng nhau, bình đẳng tuyệt
đối, thì đường cong Lorenz sẽ trùng với đường thẳng 450, và G = 0.
Đường cong Lorenz là sự thể hiện bằng đồ thị cho thấy mức độ không
đều nhau của phân phối thường xuyên. Đường Lorenz đối chiếu phần trăm
cộng dồn của tổng thu nhập nhận được với phần trăm cộng dồn của những
người có thu nhập và bắt đầu từ người có thu nhập thấp nhất. Một điểm trên
đường cong chỉ ra phần trăm của dân số nắm giữ một phần nhất định của tổng
thu nhập. Chẳng hạn nếu 10% dân số chiếm 10% thu nhập 20% dân số chiếm
20% thu nhập thì trong trường hợp đó sẽ trùng với đường 450.
Hạn chế của hệ số Gini là ở chỗ nó chỉ là một số đo về qui mô tương
19


đối, cho nên trong nhiều trường hợp có cùng một giá trị của G nhưng trên
thực tế thì xã hội lại được đánh giá mức độ công bằng không giống nhau. Ví
dụ, cùng một cách phân phối nhưng nó có thể là khá bình đẳng trong một
phạm vi nào đó, nhưng lại bất bình đẳng hơn trong một phạm vi khác do còn

phụ thuộc vào cộng đồng người, tập quán xã hội, văn hoá,... Phần lớn các
quốc gia thuộc thế giới thứ ba có hệ số Gini tính theo mức chi tiêu hoặc mức
thu nhập đều dao động trong khoảng 0,3 đến 0,6 [15].
1.1.4. Ảnh hưởng của nghèo đói đối với các vấn đề trong đời sống xã hội
1.1.4.1. Ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
Nghèo (đói) đi liên với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn nhất đối
với sự phát triển. Nói một cách khác, xoá đói giảm nghèo là tiền đề của phát
triển. Ngược lại sự phát triển kinh tế-xã hội vững chắc gắn tăng trưởng kinh tế
với công bằng xã hội là nhân tố bảo đảm thành công công tác xoá đói giảm
nghèo. Nghèo đói không chỉ là một thực tế diễn ra ở Campuchia mà còn là
một tồn tại phổ biến ở hầu hết các nước trong khu vực và trên thế giới. Ngay
cả những nước giàu có hoặc đạt tới trình độ phát triển cao vẫn còn một bộ
phận dân cư sống ỏ mức nghèo khổ. Tuy nhiên mức độ nghèo và tỷ lệ dân cư
nghèo là rất khác nhau giữa các nước, các khu vực. Nó phản ánh sự khác nhau
về trình độ phát triển, trước hết là phát triển kinh tế. Nét chung, phổ biến là ở
chỗ qua hiện trạng nghèo đói người ta dễ nhận thấy sự phát triển chậm của
lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kĩ thuật, trình độ thấp kém của phân công
lao động xã hội và mức tăng trưỏng kinh tế luôn ở những chỉ số thấp. Thất
nghiệp, thu nhập không đủ cho chi dùng vật chất tối thiểu, do đó càng không
thể có điều kiện chi dùng cho những nhu cầu văn hoá tinh thần để vượt qua
ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thoả mãn nhu cầu phát triển chất lượng
con người. Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư.
Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển càng bị kìm hãm, trình độ phát
20


triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để
khắc phục nghèo đói. Chỉ có thể thoát khỏi bế tắc đó một cách căn bản nếu
tìm được cách phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế từ sự kết hợp những
“cú hích” ban đầu bởi sự hỗ trợ vật chất của nhà nước và toàn thể xã hội đối

với người nghèo, hộ nghèo cũng như vùng nghèo cùng với việc tổ chức khai
thác mọi nguồn lực sẵn có, đầu tư để phát triển những nguồn lực đó, biết cách
phát huy những lợi thế tiềm tàng để vượt đói nghèo. Đối với Campuchia
những lợi thế đó chính là đất đai, nguồn lực lao động cũng như các nguồn tài
nguyên sẵn có. Hợp tác quốc tế và đầu tư phát triển cùng với những khả năng
huy động vốn ở trong dân để tạo một khối lượng lớn và quan trọng cho quỹ
xoá đói giảm nghèo.
Tính tất yếu và bức xúc giải quyết vấn đề giảm nghèo (xóa đói) còn ở
chỗ trong thời đại mở cửa vấn đề hoà nhập và sự bất lợi của nước nghèo,
nước chậm phát triển trong quan hệ kinh tế với các nước khác là rất lớn. Nước
nghèo luôn thua thiệt trong cạnh tranh kinh tế khi sản phẩm làm ra với chất
lượng thấp, giá thành cao hoặc hàng hoá xuất khẩu chủ yếu dưới dạng sản
phẩm thô chưa qua tinh chế nên lợi nhuận thu được rất thấp. Với trình độ sản
xuất lạc hậu nhiều nước nghèo đang trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu của
nước phát triển trong quan hệ hợp tác, viện trợ kinh tế.
Đối với nước nghèo, tăng trưởng kinh tế với tốc độ chậm sẽ không có
vị thế khi đàm phán, kí kết với các nhà đầu tư nước ngoài và sẽ không đủ khả
năng tiến hành những hoạt động mang lại lợi nhuận cao như buôn bán và dịch
vụ ngân hàng. Hơn thế nữa, nước nghèo thường chịu sự áp đặt của các nước
giàu, nước phát triển trong quan hệ hợp tác kinh tế. Từ sự thua thiệt về kinh tế
đã ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nước nghèo trên chính trường quốc
tế. Tiếng nói và vai trò của nước nghèo trên các diễn đàn quốc tế ít được chú
ý. Một nước càng giàu và càng mạnh thì càng có khả năng nắm được những
lợi thế về kĩ thuật, nền văn hoá được khẳng định mà không bị đe doạ.
21


1.1.4.2. Ảnh hưởng đến vấn đề phát triển văn hoá
Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói về văn hoá. Nguy cơ này rất
tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với phát triển không chỉ ở

từng người, từng hộ gia đình mà còn ở cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển
xã hội. Ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế luôn là sự nổi trội
gay gắt nhất. Do dó, mục tiêu phấn đấu là cố gắng đạt tới sự giàu có. Nhưng
sự giàu có chỉ thuần về vật chất, kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hoá,
tinh thần, sự định hướng giá trị sẽ chỉ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực
dụng, sự thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người...
Đi vào lối sống, sự sùng bái giàu có vật chất có nguy cơ phát triển cái xấu, cái
ác, làm nghèo nàn, biến dạng cái thiện, cái chân, cái mỹ. Nếu tình trạng đó
xảy ra ở lớp trẻ sẽ càng nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn, cằn cỗi về văn hoá và
nhân cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh
tế, thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào phát triển những yếu tố phản
phát triển chứa chấp các mầm mống của những bệnh hoạn, suy thoái.
Nghèo đói về kinh tế dễ nhận thấy và ít ai dám coi thường nó. Cũng do
đó, giàu có về kinh tế dễ trở thành một khát vọng một đam mê thậm chí khó
nhận thấy hơn và rất dễ rơi vào sự nhận thức muộn màng, có khi phải trả gía.
Dó đó, trong khi tập trung mọi nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần sớm
cảnh báo xã hội những nguy cơ và tác hại của đói nghèo văn hoá. Không sớm
dự phòng nó một cách chủ động, xã hội khó tránh khỏi sự thua thiệt bởi phải
trả giá đắt cho sự thiếu hụt văn hoá.
1.1.4.3. Ảnh hưởng của nghèo đói đến vấn đề môi trường
Nghèo đói đồng hành với môi trường bị tàn phá, Mỗi năm thế giới bị
mất đi khoảng 12 triệu hectar rừng, theo số liệu của Liên hợp quốc có đến 1 tỷ
người dân đang sống trong điều kiện thiếu sinh hoạt và những điều kiện vệ
sinh tối thiểu, trong đó 800 triệu người ở châu Á, 150 triệu người ở Châu Phi.
22


1.1.4.4. Ảnh hưởng đến vấn đề chính trị - xã hội
Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt chính trị và xã hội. Các
tệ nạn sẽ phát sinh như trộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm... đạo đức bị suy

đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đến
rối loạn xã hội. Nếu giải quyết không thành công vấn đề giảm nghèo (trước hết
xoá đói) sẽ không thể thực hiện được công bằng xã hội và sự lành mạnh xã hội
noí chung. Như thế mục tiêu phát triển và phát triển bền vững của xã hội cũng
không thực hiện được. Đối với Campuchia trong giai đoạn bước ngoặt của sự
phát triển hiện nay và trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, nếu không tập
trung mọi nỗ lực, khả năng và điều kiện để xoá đói giảm nghèo sẽ không thể
tạo được tiền đề khai thác và phát triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm đưa đất nước tới trình độ phát
triển tương xứng với khu vực và quốc tế để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu.
Nghèo đói về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về xã hội và
chính trị. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước
giàu là điều khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hoá, hệ tư
tưởng và chính trị. Thực tế đã cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đã
quốc tế hoá như ngày nay, mỗi một quốc gia, dân tộc chỉ có thể giữ vững chế
độ chính trị, độc lập tự do và chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế
mạnh. Ngày nay không một quốc gia, dân tộc nào có thể tự mình giải quyết
được các vấn đề của phát triển trong mô hình đóng kín, biệt lập như một ốc
đảo. Muốn phát triển phải mở cửa, hội nhập, hợp tác song phương và đa
phương nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản
sắc dân tộc. Do đó, chỉ khi nào làm chủ được chiến lược và sách lược phát
triển, định hình rõ những điều kiện và bước đi trong chiến lược phát triển và
có thể khai thác được mọi nhân tố tiềm lực từ bên trong nhằm vào mục tiêu
phát triển thì quá trình tham gia hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài mới có
tác dụng tích cực, hiệu quả và đạt tới sự bền vững. Nghèo đói của dân cư
23


(nhất là các tầng lớp cơ bản của xã hội) đang là lực cản kinh tế xã hội lớn nhất
đối với các nước nghèo hiện nay trong quá trình phát triển. Và không có

khuôn mẫu duy nhất nào có thể sao chép, áp dụng hết như nhau cho mọi nước
trong việc giải quyết bài toán kinh tế xã hội này. Như vậy nghèo đói và lạc
hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước nghèo, là một trong
những vấn đề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia, dân tộc và cộng đồng
quốc tế phải cùng nhau hợp tác và hợp sức để giải quyết.
1.1.5. Những nguyên nhân của sự nghèo đói trên thế giới
1.1.5.1. Những nguyên nhân chung
Nói đến lý do của sự nghèo đói, rất khó phân biệt ra nguyên nhân nào là
cái bắt đầu gây ra tình trạng nghèo đói và yếu tố nào là hậu quả của nghèo đói,
cũng như vòng quay tác động của sự nghèo đói và do đó cản trở sự tăng trưởng
của nhóm nghèo. Có một số yếu tố liên quan chặt chẽ đến tình trạng nghèo đói,
hoặc bởi vì chúng ảnh hưởng đến mức sống của các hộ gia đình, hoặc vì chúng
là hậu quả trực tiếp của nghèo đói. Những yếu tố này bao gồm: công ăn việc
làm, học hành, y tế, giới, dân tộc, tuổi tác, đất đai, quy mô hộ gia đình, vị trí địa
lý. Theo Robert Chamber [30], những bất lợi của người nghèo gồm năm yếu tố,
đó là nghèo nàn, yếu kém về thể chất, dễ bị tổn thương, bị cô lập và vô quyền.
Vấn đề ở đây là tại sao một nhóm lại rơi vào những bất lợi này trong
khi nhóm khác lại không. Nhóm nào sẽ thoát khỏi tình trạng nghèo đói và
nhóm nào sẽ tiếp tục ở trong tình trạng nghèo đói. Có thể tách ra những nhóm
nguyên nhân như về môi trường tự nhiên, các lý do về kinh tế, các lý do xã
hội và văn hoá,vv.
1.1.5.2. Nguyên nhân khách quan
- Khủng hoảng chính trị: Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ
lệ và cấp độ người nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về
chính trị như mất ổn định chính trị, ở mức cao hơn thì sẽ khủng hoảng chính trị
24


đặc biệt nguy cơ về hoà bình và chiến tranh, dẫn đến sự xung đột xã hội, xung
đột dân tộc, xung đột tôn giáo,.. và nó không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế-xã

hội của một vùng, địa phương và quốc gia mà nó làm cho nền kinh tế đời sống
của người dân rơi vào trong tình trạng lo sợ, hoạt động sản xuất kinh doạnh bị
tạm dừng. Các tệ nạn sẽ phát sinh, đạo đức bị suy đồi và an ninh xã hội không
được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đến rối loạn xã hội.
- Khủng hoảng xã hội: Khủng hoảng xã hội tạo ra sự bất ổn định và
nhiều nhóm đã phải rơi vào cảnh đói nghèo, khủng hoảng tạo ra tình trạng
thất nghiệp, thu nhập thấp đối với một hoặc một số nhóm xã hội và các nhóm
này bị rơi vào thế bất lợi. Thất nghiệp, đặc biệt là thất nghiệp ở thành phố
tăng liên tiếp, việc cư dân từ nông thôn chuyển ra đô thị càng làm cho tình
hình trầm trọng thêm. Các cơ hội tìm việc làm ngày một khó khăn hơn. Mặc
dù năng suất lao động trong khu vực dịch vụ vẫn còn thấp, hơn một nửa lao
động dôi ra đã được hấp thụ bởi khu vực dịch vụ nông thôn và hơn1/3 phần
còn lại khác bởi khu vực dịch vụ thành phố. Việc giảm sút tăng trưởng của
khu vực dịch vụ đã gây khó khăn cho khu vực này trong việc thu hút lao
động, tạo ra thất nghiệp. Các biến đổi ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến
tình trạng của người nghèo. Khi tốc độ tăng trưởng thu nhập và việc làm giảm
trong toàn bộ nền kinh tế, việc chuyển tiền tư nhân giữa các hộ gia đình vốn
là một hệ thống bảo hiểm quan trọng không chính thức bị thu hẹp lại.
- Bất lợi của môi trường sống: Các kết quả nghiên cứu cho thấy một
nhóm ở vào một vị trí địa lý bất lợi sẽ dễ dàng bị rơi vào tình trạng nghèo đói.
Những người ở các vùng sâu, vùng xa dễ bị rơi vào tình trạng nghèo đói hơn
những nhóm khác. Những người ở nông thôn cũng dễ bị nghèo đói hơn ở đô
thị. Sống tách biệt chợ, dịch vụ y tế, cơ sở giáo dục và các nguồn thông tin là
yếu tố chủ yếu gây nên tỷ lệ nghèo đói cao. Sự tách biệt này thường gắn với
sự yếu kém về cơ sở hạ tầng, thiếu các phương tiện giao thông. Những vùng
hẻo lánh thường rất bị hạn chế trong việc tiếp cận tới các nguồn lực để có thể
25



×