Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Khủng hoảng nợ hy lạp 2010 và bài học , biện pháp đối phó với khủng hoảng nợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 54 trang )

Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Mục lục

Nhóm 7

Page 1


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

LỜI MỞ ĐẦU
Hy Lạp - một quốc gia nhỏ ở Nam Âu gia nhập khu vực đồng tiền chung châu Âu từ
tháng 1 năm 2002, có mức đóng góp 2,02% GDP cho EU (số liệu năm 2010). Hy Lạp có
thu nhập bình quân đầu người năm 2010 khoảng 30.200 đô la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung
bình năm 2010 là 14,1 % (trong khi tỷ lệ này của EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc
độ tăng trưởng cao so với các nước trong khu vực. Trong những năm vừa qua, tình trạng
thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia tăng. Năm 2010, mức thâm hụt ngân sách
là 10,5% GDP, cao hơn mức dự đoán 9,4% trước đó và vượt mức cho phép thâm hụt
ngân sách 3%/GDP của khu vực đồng tiền chung châu Âu. Để bù đắp cho việc thâm hụt
ngân sách nghiêm trọng, chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức, dẫn tới việc
ngày 23/04/2010, Hy Lạp đã trở thành nước đầu tiên trong khu vực đồng tiền chung châu
Âu phải lên tiếng xin Liên minh Châu Âu EU và Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF giúp đỡ để đối
phó với hiểm họa vỡ nợ. Khủng hoảng nợ Hy Lạp đã buộc toàn châu Âu phải lao vào trợ
giúp, nhưng một năm sau, khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn tiếp tục bị khủng hoảng
nợ công đe dọa. Đây là một trong những cuộc khủng hoảng được đánh giá là nghiêm
trọng nhất trong lịch sử Liên minh Châu Âu.
Nhằm mang lại cho người đọc những cái nhìn tổng quan cùng những nhận định, phân
tích khách quan về Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010 qua những khía cạnh về nguyên
nhân, tác động, biện pháp xử lý, bài tiểu luận của chúng tôi sẽ đi sâu làm rõ những nội
dung sau:


Chương I: Lý thuyết chung về Khủng hoảng
Chương II: Tổng quan về cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Chương III: Nguyên nhân và tác động của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Chương IV: Biện pháp đối phó với khủng hoảng và bài học từ khủng hoảng
nợ Hy Lạp 2010
Nhóm 7

Page 2


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Nhóm chúng tôi xin chân thành cảm ơn cô Kim Hương Trang - giảng viên bộ môn Tài
chính quốc tế đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài tiểu luận.
Do vốn kiến thức còn hạn hẹp, nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót,
chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn thiện
hơn.

Nhóm 7

Page 3


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG
Khủng hoảng tài chính là gì?

1.1


Khủng hoảng tài chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn
đến sụp đổ quỹ. Khủng hoảng tài chính có thể xảy ra khi khi xuất hiện hiện tượng mất
cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số lượng, thời hạn,
chủng loại tiền….
Các dạng khủng hoảng đặc thù:
-

Khủng hoảng ngân hàng (Banking crisis): là khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến
các ngân hàng do hiện tượng rút tiền gửi hàng loạt của những người gửi tiền (bank
run) tác động đến một ngân hàng đơn lẻ sau đó lan rộng ra cả hệ thống ngân hàng
hoặc là khủng hoảng mang tính hệ thống do các tổ chức tài chính và doanh nghiệp
gặp khó khăn trong việc thanh lý hợp đồng đúng hạn.

Nhóm 7

Page 4


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
-

Khủng hoảng tiền tệ (Money Crisis): là sự chấn động, rối loạn của hệ thống lưu
thông tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do khủng hoảng kinh tế hoặc do các sự kiện đặc
biệt thất thường về kinh tế và chính trị.

-

Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis): xảy ra khi Chính phủ mất khà
năng hoàn trả gốc và lãi vay


-

Khủng hoảng cán cân thanh toán (Crisis of Balance of Payment): xảy ra khi nhà
đầu tư mua hết tài sản của chính phủ trong dự trưa ngoại hối.

-

Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis): xảy ra khi cơ quan hành pháp và lập
pháp của một hệ thống chính trị bế tắc và không thể thông qua một khoản ngân
sách.

Khủng hoảng nợ công

1.2

Các cuộc khủng hoảng diễn ra trên khắp các quốc gia trên thế giới trong các giai đoạn
lịch sử đã tốn khá nhiều giấy mực của các nhà kinh tế cũng như các chính trị gia. Những
cuộc tranh luận về vấn đề khủng hoảng tập trung chủ yếu ở ba mô hình khủng hoảng tiền
tệ đó là Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất của P.Krugman (1979), mô hình khủng
hoảng thế hệ thứ hai của Obstfeld (1994 và 1995) và mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
của Yoshitomi và Ohno (1999). Tuy nhiên với những vấn đề đang gặp phải hiện nay với
các nước đang phát triển, các nhà nghiên cứu đã phải chú ý hơn đến một dạng khủng
hoảng nữa đó là Khủng hoảng nợ.

1.2.1
-

Nợ quốc gia
Nợ quốc gia (hay nợ công, nợ chính phủ) là tổng giá trị các khoản tiền mà chính
phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Đối với người dân, nợ

quốc gia là một khoản nợ gián tiếp mà họ phải gánh chịu

-

Mục đích đi vay nợ của Chính phủ chủ yếu là để tài trợ cho các khoản thâm hụt
ngân sách.

Nhóm 7

Page 5


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
-

Phân loại:
× Nợ trong nước và nợ nước ngoài
× Nợ ngắn hạn (1 năm trở xuống), trung hạn (1 đến 10 năm) và dài hạn (trên

10 năm)
-

Các hình thức vay nợ:
× Phát hành trái phiếu: Chính phủ có thể phát hành trái phiếu để huy động

vốn từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Những trái phiếu phát
hành bằng đồng nội tệ trong ngắn hạn được coi như không chịu rủi ro tín
dụng do Chính phủ có thể tăng thuế hoặc in thêm tiền để thanh toán cả gốc
lẫn lại khi đáo hạn tuy nhiên lại có thể gặp phải rủi ro lạm phát do nếu tỷ lệ
lạm phát tăng cao so với dự tính thì giá trị của trái phiếu có thể bị sụt giảm

mạnh. Những trái phiếu phát hành bằng đồng ngoại tệ lại có rủi ro tín dụng
(rủi ro vỡ nợ) do Chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và có
thể chịu rủi ro về tỷ giá.

× Tín dụng ngân hàng: Ngoài việc phát hành trái phiếu, Chính phủ có thể vay

tiền từ Ngân hàng thương mại của các nước phát triển. Các khoản vay này
có thể có lãi suất cố định hoặc thả nổi.
× Tài trợ chính thức: Đây là phương thức thu hút vốn nước ngoài chủ yếu của

các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển có thể tăng nguồn vốn
đầu tư của mình bằng cách vay trực tiếp từ chính phủ nước ngoài hoặc các
Tổ chức Tài chính quốc tế. Các khoản vay này thường được ưu đãi về lãi
suất với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường.

1.2.2

Khủng hoảng nợ

1.2.2.1

Nhóm 7

Khủng hoảng nợ là gì

Page 6


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Khủng hoảng nợ công xảy ra khi Chính phủ mất khả năng hoàn trả nợ vay (gốc và lãi

vay) và không có ý định trả nợ trong tương lai. Nguyên nhân dẫn đến việc mất khả năng
trả nợ chủ yếu là do việc chi tiêu và quản lý nợ công yếu kém của Chính phủ các nước.
Ngoài ra cũng có thể do một số nguyên nhân bất khả kháng như ảnh hưởng của thiên tai,
bão lũ hay ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Những phí tổn liên quan đến khủng hoảng nợ

1.2.2.2


Mất khả năng vay nợ trong tương lai

Việc các nước mắc phải khủng hoảng nợ dẫn đến mất khả năng trả nợ đồng nghĩa với
việc từ bỏ khả năng vay nợ nước ngoài trong tương lai vì một khi họ đã mất uy tín vì
không có khả năng trả nợ thì sẽ không có chủ nợ nào sẵn sàng cấp vốn cho những quốc
gia này, hơn nữa các chủ nợ có thể ngăn cản IMF và World Bank trong việc tiếp tục cho
vay với các nước này.


Giảm lợi ích từ thương mại quốc tế

Khi một quốc gia gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ thì họ đồng thời sẽ
gặp khó khăn trong việc giao thương, buôn bán với các quốc gia khác. Việc nhập khẩu
của các nước này sẽ trờ nên khó khăn hơn do các nước xuất khẩu lo lắng sẽ không nhận
được tiền hàng. Như vậy, khối lượng ngoại thương của quốc gia này sẽ theo đó giảm
xuống và làm ảnh hưởng đến lợi thế thương mại của quốc gia trên trường quốc tế.

1.2.2.3

Sơ lược về khủng hoảng nợ quốc tế


Vào cuối những năm 1960 đầu 1970, các nước đang phát triển được khuyến khích vay nợ
mới để thanh toán cho các khoản nợ cũ và tài trợ cho các dự án phát triển quốc gia, đặc
biệt là các dự án cơ sở hạ tầng như đường xá, kênh rạch. Vào thời điểm này, các ngân
hàng phía Bắc có những khoản tiền gửi lớn bằng “petro-dollar” (lợi nhuận kiếm được từ
buôn bán dầu của các nước thành viên OPEC) và sẵn sàng cho vay những khoản tiền đó
với lãi suất thấp.
Nhóm 7

Page 7


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Tuy nhiên, đến năm 1979, Ngân hàng trung ương Mỹ đã tăng lãi suất lên cao để đối phó
với lạm phát mà không để ý gì tới tác động của chính sách này đến các quốc gia khác.
Theo sau động thái đó, các Ngân hàng Trung ương của các nước phương Tây khác cũng
đồng loạt tăng lãi suất.
Vào đầu những năm 1980, các nước đang phát triển bắt đầu nhận thức được những khoản
nợ khổng lồ mà mình đang gánh chịu. Cùng lúc đó, giá nguyên nhiên vật liệu thô- những
mặt hàng xuất khẩu chính để thu về ngoại tệ của những nước này giảm giá mạnh trên thị
trường. Điều này khiến cho các nước đang phát triển rơi vào “bẫy” nợ nước ngoài.
Ngày 12 tháng 8 năm 1982 đất nước Mexico đã làm rung chuyển thế giới khi Chính phủ
tuyên bố không có khả năng hoàn trả nợ vay là $80 tỷ cho các ngân hàng quốc tế. Đây
được coi là tín hiệu đầu tiên về một cuộc khủng hoảng nợ quốc tế. Ngay sau khi Mexico
tuyên bố vỡ nợ, một số nước đang phát triển ở châu Mỹ Latinh như: Argentina, Brasil,
Venezuela cũng ra tuyên bố là họ gặp khó khăn rất lớn trong việc hoàn trả nợ nước ngoài.
Đến nay, mối quan tâm của thế giới lại đang đổ dồn vào cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu
mà mở đầu là cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp.

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG NỢ HY

LẠP 2010
2.1

Nền kinh tế Hy Lạp trước khủng hoảng

Hy Lạp là nước có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kinh tế nhà nước chiếm khoảng 40%
GDP với mức GDP đầu người đạt khoảng 75% so với các nền kinh tế hàng đầu trong
khối EU. Thế mạnh kinh tế Hy Lạp là vận tải đường biển và du lịch: có đội thương
thuyền đứng thứ 3 thế giới, kiểm soát 25% kim ngạch vận tải biển thế giới; có hệ thống
đường xá, khách sạn, hải cảng, sân bay hiện đại, có nhiều cảng nước sâu và một ngành
công nghiệp đóng tàu hùng mạnh. Hàng năm Hy Lạp thu hút khoảng 17 triệu lượt khách
Nhóm 7

Page 8


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
du lịch, ngành này đóng góp 15% GDP của Hy Lạp. Công nghiệp du lịch đóng 15% GDP
quốc dân. Các ngành công nghiệp quan trọng khác ở Hy Lạp là dệt, hóa chất, khai thác
khoáng sản, chế biến thực phẩm. Nông nghiệp tuy chiếm tỉ trọng nhỏ song vẫn đóng một
vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các loại cây trồng chủ yếu ở Hy Lạp là lúa mì, lúa
mạch, ôliu, hoa hướng dương, cà chua, cam, chanh...

Source for data: The CIA World FactBook 2008

Biểu đồ 2.1 : Cơ cấu GDP Hy Lạp năm 2007
Nộp đơn xin gia nhập EU năm 1981, đến 19/6/2000, Hy Lạp đã đạt các tiêu chí và được
gia nhập khu vực đồng euro. Hy Lạp đã không đáp ứng được điều kiện về thâm hụt ngân
sách và tăng trưởng của Liên minh Châu Âu là không quá 3% GDP từ năm 2001 – 2006
nhưng cuối cùng đã đạt được vào năm 2007-2008 trước khi tiếp tục vượt mức năm 2009

với mức thâm hụt là 12,7% GDP. Nợ công, lạm phát và thất nghiệp đều cao hơn mức
trung bình của khu vực trong khi thu nhập bình quân đầu người đạt mức thấp nhất trong
số các quốc gia EU trước năm 2005.
Hy Lạp là nước nhận nhiều viện trợ từ EU, khoảng 3.3% GDP hàng năm. Nền kinh tế Hy
Lạp tăng trưởng khoảng 4.0%/năm từ năm 2003-2006, một phần nhờ vào việc chi tiêu
phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ Olympic Athens năm 2004.

Nhóm 7

Page 9


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Source for data: Global Finance

Biểu đồ 2.2 : Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp giai đoạn 2000-2011

Trong giai đoạn 2001 - 2007 Hy Lạp là một trong những nước có tốc độ phát triển cao
nhất ở EU với mức tăng trưởng trung bình 4%/năm, gần gấp đôi mức tăng trưởng của
Liên minh châu Âu vào thời điểm đó. Năm 2008 tăng trưởng của Hy Lạp chỉ đạt 2,8%,
đây là con số thấp hơn các năm trước nhưng vẫn cao hơn tăng trưởng trung bình của các
nước thuộc khối EU. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn gặp nhiều thách thức như: việc giảm nợ nhà
nước, lạm phát, thất nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế bao gồm cả việc tư nhân hóa một số
công ty nhà nước, tăng lương và giảm thiểu tính quan liêu nhằm cải thiện tính minh bạch

Nhóm 7

Page 10



Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Sources for data: Transparency International
Biểu đồ 2.3 : Chỉ số nhận thức tham nhũng của Hy Lạp 1995-2010

Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perception Index) của Hy Lạp vào khoảng 3.5
- 4, vị trí tương đối 78/180 được đánh giá, là mức thấp so với hầu hết các nước châu Âu
phát triển, cho thấy tình trạng kém minh bạch là vấn đề lớn đối với đất nước này.

2.2

Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Lạm phát đã từng xảy ra ở Hy Lạp vào tháng 10/1944 do chiến tranh – một trong năm trường
hợp siêu lạm phát tồi tệ nhất trong lịch sử loài người từ trước đến nay, và đến năm 2010,
bóng ma lạm phát lại trở lại Hy Lạp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả khu vực Châu Âu.
Dưới đây là những diễn biến về tình hình khủng hoảng nợ tại Hy Lạp bắt đầu từ năm 2009

Nhóm 7

Page 11


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Vào ngày 05 tháng 11 năm 2009, Chính phủ Hy Lạp thông báo thâm hụt ngân sách năm
2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó, gấp hơn 4 lần mức cho
phép của Eurozone và chính phủ cũng tuyên bố sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ.
Đến ngày 14 tháng 12, thủ tướng Hy Lạp tuyên bố sẽ thẳng tay với nạn tham nhũng, thắt
chặt chi tiêu hơn nữa, song song với cắt giảm ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng

thuế, ông cũng tuyên bố một chính sách lương thưởng hà khắc đối với khối dịch vụ công với
mục tiêu cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Biện pháp này đã bị nhiều người dân phản đối do
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của họ. Cũng trong tháng 12, Hy Lạp đã bị cả hai cơ
quan xếp hạng tín dụng uy tín trên thế giới hạ bậc: trong đó, Moody hạ xếp hạng nợ của Hy
Lạp từ mức A1 xuống A2 bởi thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao còn Fitch đã hạ xếp
hạng nợ của nước này xuống mức BBB+, thấp hơn so với bất kỳ quốc gia nào thuộc khu vực
đồng tiền chung Châu Âu.

Sang năm 2010, ngày 14 tháng 01, chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, và tuyên
bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm 2012. Đến đầu tháng 3,
EU đã hối thúc Hy Lạp công bố các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” mới nhằm giải quyết
vấn đề thâm hụt ngân sách của nước này, trong bối cảnh các thị trường tài chính đang theo
dõi chặt chẽ những tín hiệu trái chiều về kế hoạch cứu trợ Hy Lạp và những dấu hiệu căng
thẳng mới trong ngân sách của Khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Ngay sau đó 3 ngày, Hy
Lạp đã quyết định phát hành trái phiếu lần hai trong năm 2010 với thời hạn trái phiếu là 10
năm để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công đang làm suy yếu vị thế của Hy Lạp trên thị
trường tài chính quốc tế và gây chấn động Khu vực đồng tiền chung châu Âu.

Ngày 21/3/2010: Vấn đề nợ nần của Hy Lạp đã trở thành sức ép nặng nề buộc EU phải đưa
ra một gói cứu trợ cụ thể giúp nước này vượt qua cơn khủng hoảng, Hy Lạp cũng đe dọa sẽ
tìm đến sự giúp đỡ của IMF nếu EU không tìm được biện pháp hỗ trợ nước này. Thứ trưởng
Bộ Tài chính Hy Lạp Philippos Sachinidis cho biết nước này có thể chống chọi cho tới cuối
tháng 4 và vẫn chưa quyết định khi nào sẽ vay vốn từ các thị trường để lập quỹ trả nợ. Chỉ
Nhóm 7

Page 12


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
tính từ đầu 2010 đến cuối tháng 3 năm 2010, Hy Lạp đã vay mượn trên 15 tỷ euro (khoảng

20,28 tỷ USD) thông qua T-bills. Hiện tổng số nợ của Hy Lạp là khoảng 300 tỷ euro. Tỷ lệ
nợ so với GDP của Hy Lạp có thể đạt 120,4% trong năm 2010. Hai ngày sau, chính phủ Hy
Lạp tuyên bố đã huy động được 18 tỷ USD bằng việc phát hành trái phiếu với lãi suất cao.
Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp Papaconstantinou cho rằng trước mắt Hy Lạp vẫn đủ khả năng
để tiếp tục hoàn trả nợ, Hy Lạp đã chứng minh được bản thân vẫn có thể huy động vốn từ thị
trường, nếu cần, nước này sẽ tiếp tục làm như vậy. Tuy nhiên, Bộ trưởng nước này cũng thừa
nhận rằng, kinh tế Hy Lạp đã liên tục suy giảm trong năm ngoái, và sang năm nay có thể sẽ
từ từ thu hẹp 2%, trước đó Bộ Tài chính Hy Lạp dự đoán sẽ co hẹp 0,3%. Đến ngày 25
tháng 3, Hy Lạp đã tham gia vào gói vay cứu trợ của EU và IMF phối hợp, tuy nhiên các chi
tiết cụ thể về gói vay cứu trợ này được tiết lộ rất ít, dẫn đến nhiều phỏng đoán và nghi ngờ
bất ổn về khả năng hiện thực hoá gói vay cứu trợ này, cũng như khả năng gói vay cứu trợ
này có thể giúp được Hy Lạp vượt qua được khủng hoảng hay không.

Chỉ trong hai ngày liên tiếp cuối tháng 3, Hy Lạp đã tiến hành hai đợt phát hành trái phiếu:
vào ngày 29 đã phát hành mới trái phiếu chính phủ kỳ hạn 7 năm, tổng giá trị 5 tỷ euro, với
mức lãi suất vào khoảng 6%, cầu về đợt phát hành trái phiếu này là 6,25 tỷ euro từ hơn 175
tài khoản khách hàng (tương đối thấp nếu so với cầu đối với trái phiếu 10 năm Hy Lạp phát
hành năm trước lên tới 16 tỷ euro từ hơn 400 tài khoản khách hàng). Ngay lập tức đợt trái
phiếu này đã được bán hết trên thị trường, làm giảm cầu đối với đợt tái phát hành trái phiếu
ngay vào ngày hôm sau – ngày 30 tháng 3: khi chính phủ Hy Lạp quyết định tái phát hành
trái phiếu chính phủ kỳ hạn 20 năm (loại đã phát hành sẽ đáo hạn vào 2020) với hy vọng ban
đầu là sẽ phát hành tới 1 tỷ euro, tuy nhiên do không có đủ cầu nên giá trị phát hành cuối
cùng chỉ là 390 triệu euro. Kết quả phát hành và tái phát hành trái phiếu này cho thấy khả
năng tiếp cận vào thị trường nợ công của Hy Lạp là rất hạn chế.

Ngay những ngày đầu tháng 4, Hy Lạp lại bị hai tổ chức Moody’s và Fitch hạ mức tín
nhiệm: trong đó Moody’s đã hạ mức tín nhiệm của 5 ngân hàng lớn nhất của Hy Lạp, lý do
Nhóm 7

Page 13



Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
là suy giảm kinh tế đã gây áp lực lên hồ sơ khoản vay của các ngân hàng này, và Fitch thì hạ
mức xếp hạng phát hành trái phiếu bằng cả nội tệ và ngoại tệ dài hạn của Hy Lạp từ mức
BBB+ xuống BBB- với các lý do chính sau: (i) thâm hụt ngân sách tăng, thách thức về ngân
sách tăng, (ii) nền kinh tế đối mặt với những diễn biến bất lợi, (iii) tiếp tục vẫn không có
thông tin rõ ràng về chiến lược tài trợ thâm hụt ngân sách chính phủ trong bối cảnh thị
trường đầy bất ổn.
Ngày 06 tháng 04, lợi tức trái phiếu chính phủ Hy Lạp từ mức 6,5% lên mức 7% – chỉ 3
ngày sau khi Thủ tướng Hy Lạp tuyên bố thời kỳ xấu nhất đã qua. Hai ngày sau, lợi tức vẫn
tiếp tục lên cao và vượt mức 7,5%. Đến ngày mùng 7, 4 ngân hàng lớn nhất của Hy Lạp yêu
cầu Chính phủ hỗ trợ thanh khoản, đề nghị được tiếp cận khoản 17 tỷ euro còn lại trong tổng
28 tỷ euro nằm trong gói hỗ trợ nhà nước thành lập từ năm 2008. Như vậy có thể thấy leo
thang trong khủng hoảng nợ Hy Lạp có thể dẫn đến việc rút tiền gửi ồ ạt ở các ngân hàng và
làm tăng lên khả năng lây lan của khủng hoảng một cách nhanh chóng.

Ngày 11 tháng 4, Bộ trưởng Tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu
chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần.
(EU/IMF tuyên bố gói cứu trợ trị giá 45 tỷ euro cho Hy Lạp trong thời gian 3 năm, trong đó
các nước EU cam kết góp 30 tỷ euro, còn IMF hy vọng sẽ hỗ trợ từ 10-15 tỷ euro nữa. Một
số cản trở đối với việc thực hiện khoản vay này là: (i) Quốc hội của một số nước EU sẽ phải
thông qua/phê duyệt cam kết đóng góp của các nước này, (ii) Hy Lạp sẽ phải yêu cầu hỗ trợ
chính thức, và (iii) Chi tiết khoản vay với IMF sẽ phải đưa ra đàm phán và quá trình đàm
phán có thể kéo dài trong nhiều tuần, dự kiến kết thúc vào mùng 6/5. Tuy nhiên bộ trưởng
Tài chính Hy Lạp khẳng định rằng Hy Lạp không muốn tìm đến hỗ trợ từ EU và IMF, nhưng
ông cũng thừa nhận chính phủ nước này không thể nào mãi mãi vay tiền ở mức lãi suất cao
như hiện nay.)

Sau đó, cuộc gặp mặt 3 bên (Hy Lạp, EU, và IMF) dự kiến tổ chức vào ngày 19/4 bị hoãn lại

do tình hình núi lửa ở Ailen. Thay vì đàm phán trực tiếp, các bên trao đổi qua điện thoại, sau
Nhóm 7

Page 14


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
đó đàm phán được nối lại và dự kiến kết thúc vào 6/5. Tuy nhiên, thị trường có phản ứng rất
tiêu cực trước những diễn biến bất ổn và chậm chễ trong đàm phán, cụ thể là lãi suất trái
phiếu chính phủ Hy Lạp và Hợp đồng hoán đổi nợ xấu CDS (Credit Default Swap) tăng lên
hàng ngày. 20/04, IMF công bố báo cáo cập nhật về Ổn định Tài chính Toàn cầu, trong đó
nhấn mạnh rủi ro tín dụng (nợ) quốc gia ở các nước phát triển hiện đang trở thành nguồn rủi
ro chính trong các thị trường tài chính toàn cầu. Đến ngày 22 thì thâm hụt ngân sách năm
2009 được điều chỉnh tăng từ mức 12,9% lên 13,6% GDP, cũng cùng ngày hôm đó, tổ chức
định mức tín nhiệm Moody’s hạ mức xếp hạng tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hy Lạp
xuống A3, lãi suất trái phiếu 2 năm và 10 năm của Hy Lạp tăng lên mức 11% và 9%. Ngay
sau đó 1 ngày, Hy Lạp cầu cứu EU và IMF. Tiếp bước Moody’s, ngày 27 tổ chức định mức
tín nhiệm S&P đã hạ mức xếp hạng tín nhiệm của trái phiếu chính phủ của Hy Lạp từ mức
BBB+ xuống mức BB+ đưa ra viễn cảnh tiêu cực, với các lý do chính sau: (i) triển vọng tăng
trưởng kinh tế suy giảm, do đó thu hẹp lựa chọn chính sách của chính phủ, (ii) rủi ro tài
chính trung hạn tăng lên, (iii) áp lực chính trị về điều chỉnh chính sách tài chính càng ngày
càng lớn, và (iv) nghi ngờ về khả năng triển khai chính sách nhạy bén và tích cực của chính
phủ Hy Lạp.

Biểu đồ 2.4 : Lãi suất trái phiếu chính phủ 2 năm của 1 số quốc gia

Nhóm 7

Page 15



Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Ngày mùng 2 tháng 5: Thủ tướng Hy Lạp cho biết chính phủ nước này đã đạt được thỏa
thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ
euro trong 3 năm tới. Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro tương đương 146
tỷ USD. Các thành viên của EU sẽ đóng góp 80 tỷ euro, số còn lại do IMF đảm nhiệm. Lãi
suất của khoản vay là 5%, thời hạn vay là 3 năm, đợt cấp vốn đầu tiên sẽ được thực hiện
trước khi Hy Lạp thanh toán nợ trái phiếu đáo hạn vào ngày 19/5 tới. Đây là nước đầu tiên
tại khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý góp 22,4 tỷ euro
tương đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp. Đúng 1 tuần sau, IMF đơn phương chấp
thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập tức 5,5 tỷ euro. Ngày 18 tháng 5 –
một ngày trước khi Hy Lạp phải trả nợ trái phiếu đáo hạn, NHTW Châu Âu ECB đã cấp cho
Hy Lạp khoản vốn vay 14.5 tỷ Euro. Chính phủ Hy Lạp sẽ sử dụng khoản tiền cứu trợ này để
trả 8.5 tỷ Euro nợ trái phiếu đáo hạn vào ngày 19/5/2010.

Bên cạnh đó, những điều kiện hà khắc kèm theo gói cứu trợ của IMF và EU đang gặp phải
sự chống đối khá quyết liệt từ người dân Hy Lạp – đây là một bước cản không nhỏ cho việc
giải quyết khủng hoảng nợ công của Hy Lạp. Những khoản cắt giảm này sẽ ảnh hưởng nặng
nề lên một bộ phận khá lớn người dân Hy Lạp, nên việc phản đối là không thể tránh khỏi.
Ngoài ra, kinh tế Hy Lạp cũng có thể chìm sâu vào suy thoái nếu cùng một lúc phải chịu các
gánh nặng này, tuy vậy, Hy Lạp cũng không có nhiều sự lựa chọn để giải quyết vấn đề yếu
kém nội tại của nền kinh tế. Sau những gói cứu trợ khổng lồ kèm theo những điều khoản hà
khắc từ IMF và ECB, những rắc rối về nợ công của Hy Lạp sẽ được cải thiện? Cuộc khủng
hoảng sẽ chấm dứt hay chỉ tạm lắng xuống? Nền kinh tế Hy Lạp sẽ ra sao khi phải gồng
mình gánh những gánh nặng về nợ nần, điều khoản hà khắc kèm theo tâm lý bất ổn của một
bộ phận không nhỏ người dân Hy Lạp? Cả thế giới đang cùng chờ đợi những diễn biến tiếp
theo tại Hy Lạp – nơi đã châm ngòi cho cơn khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử 11 năm
của khu vực sử dụng đồng tiền chung Euro.

Nhóm 7


Page 16


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

CHƯƠNG III: NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC
KHỦNG HOẢNG NỢ HY LẠP 2010
3.1

Nguyên nhân khủng hoảng

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp, bao gồm nguyên
nhân nội tại và các nguyên nhân khác từ môi trường quốc tế. Chi tiêu công cao, cơ cấu bộ
máy thiếu linh hoạt, trốn lậu thuế và tham nhũng của bản thân chính phủ Hy Lạp đã gây
ra tình trạng nợ nần của đất nước này trong suốt thập kỉ qua. Bên cạnh đó cũng cần phải
kể đến sự quan liêu trong việc giám sát thực thi các quy tắc của khu vực đồng tiền chung
Châu Âu cũng như sự thoái lui của các khoản đảm bảo tài chính.

3.1.1

Nguyên nhân nội tại
Chi tiêu công cao trong khi thu ngân sách và tiết kiệm thấp

3.1.1.1

Từ năm 2001 đến 2007, GDP của Hy Lạp tăng trung bình 4,3 % một năm, trong khi mức
tăng trưởng trung bình của khu vực EU là 3.1 %. Tốc độ tăng trưởng cao chủ yếu xuất
phát từ gia tăng trong tiêu dùng của hộ gia đình (do khả năng dễ dàng tiếp cận với nguồn
tín dụng) và đầu tư công do EU và chính phủ tài trợ. Tuy nhiên, trong vòng 6 năm qua,

đối lập với mức chi tiêu của chính phủ tăng 87%, thu ngân sách chỉ tăng có 31%, gây ra
thâm hụt ngân sách vượt ngưỡng cho phép là 3% GDP của EU.

Đơn vị tính: % GDP danh nghĩa

Năm

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

Đan Mạch

0.3

-0.1

1.9


5.0

5.0

4.8

3.4

-2.8

Phần Lan

4.0

2.3

2.1

2.5

3.9

5.2

4.2

-2.7

Pháp


-3.2

-4.1

-3.6

-3.0

-2.3

-2.7

-3.3

-7.6

Đức

-3.6

-4.0

-3.8

-3.3

-1.6

0.3


0.1

-3.0

Nước

Nhóm 7

Page 17


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Hy Lạp

-4.8

-5.7

-7.4

-5.3

-3.9

-5.4

-7.8

-13.7


Nguồn: OECD

Bảng 3.1 : Cán cân ngân sách một số quốc gia giai đoạn 2002-2009
Nhiều bất cập trong chính sách chi tiêu công của chính phủ Hy Lạp đã được phát hiện, có
thể kể đến hệ thống y tế và chế độ lương hưu tốn kém, thiếu hiệu quả, cùng với việc gia
tăng tình trạng trốn thuế và duy trì nguyên tắc tài chính lỏng lẻo cũng là nguyên nhân
đằng sau cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp. Không những thế, theo đánh giá của Viện
Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS), Hy Lạp hiện đang là một trong những nước có
nạn tham nhũng nghiêm trọng nhất EU. Dựa theo CPI (Corruption Perceptions Index chỉ số nhận thức tham nhũng) của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), Hy Lạp đứng cuối
cùng, sau cả Rumani và Bungari.

Theo OEDC, năm 2004, phần trăm chi tiêu cho quản lý công trong tổng thu ngân sách ở
Hy Lạp cao hơn bất kỳ nước thành viên nào của OECD, tuy nhiên số lượng hoặc chất
lượng lại không hề tốt hơn.

Năm 2009, chính phủ Hy Lạp dành phần lớn chi tiêu (chiếm 50% GDP) cho nỗ lực hiện
đại hóa và củng cố cơ chế quản lý công. Tuy nhiên, bộ máy nhà nước của Hy Lạp vẫn
cho thấy những dấu hiệu cản trở sự phát triển của kinh tế như bộ máy cồng kềnh với hiệu
năng thấp. Tính đến năm 2009, lượng công chức ở Hy Lạp chiếm tới 1/4 số người làm
công ăn lương. Chỉ tính tiền lương thu nhập chính (chưa tính tiền thưởng, tiền hỗ trợ),
sau khi trừ đi các khoản khác, bình quân 1 công chức lĩnh được 1.350 EUR/tháng. Trong
khi đó, bình quân mỗi tháng, lao động ở các khu vực kinh doanh ngoài Nhà nước chỉ
được lĩnh khoảng 750 euro. Bên cạnh đó, cơ cấu dân số già (dân số trên 64 tuổi dự kiến
tăng từ 19% năm 2007 lên 32% năm 2060) tạo ra gánh nặng đối với chi tiêu công trong
việc thiết lập hệ thống lương hưu tốn kém. Theo OECD, tỷ lệ trả hưu 70 – 80% lương
cộng thêm các khoản trợ cấp bổ sung khác là khá cao, hơn nữa điều kiện để nhận được
lương hưu đầy đủ chỉ là 35 năm lao động, trong khi các quốc gia khác là 40 năm. Tổng
Nhóm 7


Page 18


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
các khoản trả lương hưu ở Hy Lạp dự kiến sẽ tăng từ 11.5% GDP năm 2005 lên 24%
GDP vào năm 2050.
Thu ngân sách nghèo nàn cũng góp phần tạo ra thâm hụt ngân sách ở Hy Lạp. Nhiều
chuyên gia kinh tế đã cho rằng trốn lậu thuế ở Hy Lạp là một trong số các nhân tố chủ
chốt gây ra thâm hụt. Thực trạng này xuất phát từ mức thuế suất cao, mã số thuế phức tạp
và hoạt động kiểm soát không hiệu quả của nhà nước.
Tỷ lệ tiết kiệm ở Hy Lạp là tương đối thấp so với nhiều nước trong khu vực làm cho yêu
cầu vay nợ ở Hy Lạp cao hơn các nước khác.
Đơn vị tính: % GDP

Năm

2005

2006

2007

2008

2009

Hy Lạp

11


10

8

6

3

Pháp

19

20

20

20

16

Đức

22

24

26

25


21

Italia

20

20

20

18

16

Nước

Nguồn: WB
Bảng 3.2 : Tỷ lệ tiết kiệm ở một số nước EU giai đoan 2005-2009

3.1.1.2

Tình trạng suy giảm cạnh tranh trên trường quốc tế

Các ngành kinh tế của Hy Lạp phải gánh chịu hậu quả từ thực tế suy giảm cạnh tranh trên
trường quốc tế do chi phí nhân công cao trong khi hiệu suất thấp. Ngành du lịch và vận
tải biển vốn là những ngành thế mạnh của Hy Lạp đều có doanh thu sụt giảm trên 15%
trong năm 2009. Chi phí nhân công ở Hy Lạp ước tính tăng 5% hàng năm từ khi nước
này tham gia vào khu vực sử dụng đồng EURO, tỷ lệ này gấp đôi tỷ lệ trung bình của cả
khu vực. Trong cùng thời kỳ đó, xuất khẩu của Hy Lạp sang các nước bạn hàng chính
tăng 3.8% mỗi năm, chỉ bằng một nửa tốc độ tăng của kim ngạch nhập khẩu của các đối

tác này từ nước khác.

Nhóm 7

Page 19


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
3.1.2

Nguyên nhân từ bên ngoài

3.1.2.1

Sự giám sát thiếu chặt chẽ của Liên minh tiền tệ châu Âu đối với các quốc gia

trong việc tuân thủ các quy định.

Một nguyên nhân khác dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là sự thiếu chặt chẽ
trong việc thực hiện các quy định vốn được xem như là điều kiện cần thiết cho việc thành
lập Liên minh tiền tệ Châu Âu. Nhiều ý kiến cho rằng, điều này xuất phát từ tham vọng
nhất thể hóa bằng mọi giá của các nhà lãnh đạo Châu Âu, những người đã đặt vấn đề
chính trị lên trên thực lực kinh tế.

Tuy nhiên, thách thức chồng chất cho Hy Lạp nói riêng và Châu Âu nói chung bắt nguồn
từ ngày Athens cố công để có được địa vị là thành viên của EU. Năm 1981, Hy Lạp vội
vàng xin gia nhập Cộng đồng Châu Âu mà nay là Liên minh Châu Âu EU khi đang là
quốc gia nghèo nhất trong Liên minh, sớm hơn các quốc gia giàu có khác trong khu vực
như Áo, Phần Lan, Thụy Điển tới 14 năm, sớm hơn Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tới 5
năm. Tại thời điểm đó, Tổng thống Pháp Francois Mitterand đã phản đối sự mở rộng của

Cộng đồng châu Âu về phía Nam, vì lo ngại những quốc gia như Hy Lạp chưa đủ điều
kiện gia nhập nhưng những người ủng hộ chủ trương mở rộng Liên minh lại lập luận
rằng, kết nối các quốc gia bị xem là có nền dân chủ mong manh như Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha vào cộng đồng Châu Âu sẽ là cách tốt nhất để cải thiện nền dân chủ ở
các nước này. Nhiều nhà lãnh đạo châu Âu cũng cho rằng, việc đưa Hy Lạp, một quốc
gia còn nghèo khó với khoảng cách địa lý xa xôi vào mái nhà chung với các quốc gia Tây
Ây giàu có là một sứ mệnh lịch sử, theo như lời của cựu Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hy Lạp
Yannos Papantonou trên Thời báo New York. Trong thập kỷ đầu tiên là thành viên của
EU, rõ ràng Hy Lạp đã được hưởng những khoản tài trợ hào phóng và nhờ đó vượt qua
được nhiều khó khăn kinh tế - chính trị.

Nhóm 7

Page 20


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Trở lại với việc Hy Lạp gia nhập Liên minh tiền tệ Châu Âu. Đồng tiền chung Euro được
tạo ra trên mục đích xây dựng một thị trường duy nhất, thúc đẩy các quyền tự do di
chuyển, xóa bỏ vấn đề trao đổi ngoại tệ, thiết lập một thị trường tài chính thống nhất, ổn
định giá cả, lãi suất và đặc biệt là hạn chế những tác động tiêu cực do khối lượng giao
dịch thương mại khổng lồ trong phạm vi Liên minh Châu Âu. Hiệp ước Maastricht ra đời
là dấu mốc quan trọng cho việc thiết lập một liên minh tiền tệ thực sự. Theo như hiệp
ước, điều kiện để tham gia vào Liên minh kinh tế - tiền tệ này bao gồm:



Mức lạm phát thấp. không vượt quá 1.5% so với mức trung bình của ba nước có
mức lạm phát thấp nhất




Thâm hụt ngân sách không vượt quá 3% GDP



Nợ nhà nước dưới 60% GDP



Lãi suất không quá 2% so với mức trung bình của ba nước có lãi suất thấp nhất

Đối với Hy Lạp khi đó, việc gia nhập khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) vừa xuất
phát từ vấn đề danh dự, vừa xuất phát từ yêu cầu thực tế, vì nếu Hy Lạp sử dụng đồng
tiền chung, giới đầu cơ tiền tệ sẽ không thể tấn công và nền kinh tế của nước này sẽ có
được sự bình ổn. Bên cạnh đó, việc tham gia Eurozone cùng với những nước có nền kinh
tế rất phát triển trong khu vực cũng đồng nghĩa với việc Hy Lạp có thể tiếp cận được với
nguồn vốn tín dụng với lãi suất thấp. Tuy nhiên, hội nhập cũng thể hiện mặt trái của nó.
Đây sẽ là một thách thức lớn đối với các quốc gia nhỏ và có năng lực cạnh tranh thấp như
Hy Lạp. Với nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh
thấp, họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu
cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh
xã hội cao. Bên cạnh đó, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính
phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình.
Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách.

Nhóm 7

Page 21



Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010

Hy Lạp khi đó đã vượt qua vô số rào cản để có được một ghế trong Eurozone. Như đã
trình bày ở trên, để gia nhập Liên minh tiền tệ này, một quốc gia phải thỏa mãn đầy đủ
các điều kiện về lạm phát, tỷ lệ nợ công hay mức thâm hụt ngân sách. Vào tháng 12 năm
1996, các quy định càng trở nên ngặt nghèo khi một văn kiện mang tên Hiệp ước Bình ổn
và tăng trưởng được thông qua nhằm tăng cường việc giám sát và thực thi các quy tắc tài
chính công nhằm duy trì sự ổn định của Liên minh. Theo đó, thành viên nào của
Eurozone vi phạm các tiêu chuẩn đã nêu sẽ phải chịu mức phạt nặng nề. Cụ thể là, nếu vi
phạm mà không thực hiện các biện pháp khắc phục do Ủy Ban Châu Âu (EC) và Hội
đồng Liên minh Châu Âu đưa ra thì các quốc gia này sẽ phải chịu một khoản phạt tương
đương với 0.5% GDP. Thế nhưng, từ trước tới nay, chưa một quốc gia nào trong Liên
minh tiền tệ Châu Âu, kể cả Hy Lạp, bị trừng phạt.
Như đã đề cập ở trên, sự ra đời của đồng Euro mang nhiều màu sắc chính trị và chính
điều này khiến cho các quy định có thể được “uốn cong” khi kết nạp các nước thành
viên.Vào thời điểm Hy Lạp gia nhập Eurozone, đã có những bằng chứng cho thấy quốc
gia này đưa ra những số liệu không trung thực. Ngay ở thời điểm năm 2000, Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) đã nhấn mạnh rằng, mức nợ của quốc gia này đã vượt xa trần
quy định của Eurozone. Dù vậy, Hy Lạp vẫn cố gây áp lực và quốc gia này đã được chấp
nhận vào khối Eurozone đầu năm 2001, sớm hơn một năm so với mục tiêu của Athens.
Trên giấy tờ, Hy Lạp cho thấy họ đã cắt giảm được thâm hụt ngân sách. Và dù chưa giảm
được nợ tới mức chuẩn, Athens đã nhấn mạnh vào tiền lệ là một số quốc gia khác như
Italy và Bỉ vẫn được gia nhập Eurozone khi chưa đáp ứng được đỏi hỏi về mức nợ chính
phủ. Đòi hỏi chính trị về việc giữ yên đồng Euro đã dìm sâu mọi lời chỉ trích về những
hành vi “phá trần” này.
Bên cạnh đó, việc những nước đứng đầu trong Eurozone như Đức và Pháp, vào các năm
2002, 2003, và 2004 không tuân thủ được các điều khoản về thâm hụt ngân sách đã tạo
ra một tiền lệ nguy hiểm.


Nhóm 7

Page 22


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Đến năm 2004, EU đã mở cuộc điều tra đầu tiên nhằm vào tình trạng bội chi của Athens
và mặc dù bằng chứng về việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế giả mạo đã được Cơ quan
thống kê của Liên minh Châu Âu Eurostat thu thập đủ, các quan chức của châu Âu vẫn
tuyên bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone không phải là lựa chọn của họ và
cho Hy Lạp thời gian để sửa chữa. Đến năm 2007, EC tuyên bố Hy Lạp đã có những biện
pháp khắc phục phù hợp, và thâm hụt của quốc gia này sẽ chỉ còn 2,6% GDP vào năm
2006 và 2,4% vào năm 2007. Ủy ban cũng đưa ra kết luận rằng “Cơ quan Thống kê của
Hy Lạp đã cải thiện quy trình làm việc của mình” và chất lượng số liệu thống kê của họ
đã tốt hơn.
Tuy nhiên, đến năm 2009, thì một lần nữa câu hỏi về sự gian lận số liệu của quốc gia này
lại được lật lại và khủng hoảng nợ đã bùng nổ.

3.1.2.2

Sự thoái lui của các khoản đảm bảo tài chính ngầm

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 3 của Paul Krugman (1998) giải thích nguyên nhân cuối
cùng của khủng hoảng nợ Hy Lạp: rủi ro vỡ nợ (default risk). Giả thuyết của mô hình
này chủ yếu đề cập đến tính thanh khoản quốc tế cao và việc chính phủ bảo đảm cho các
khoản nợ của trung gian tài chính như ngân hàng thương mại…. Trong mô hình của Paul
Krugman, khủng hoảng tiền tệ chỉ là một phần của khủng hoảng tài chính toàn cầu mà
nguyên nhân chính là do tác động “méo mó” của các biện pháp bảo đảm thế chấp đối với
các ưu đãi về đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư. Dưới sự bảo đảm và giám sát lỏng lẻo,
các trung gian tài chính một mặt tăng cường cho vay, mặt khác lại đi vay từ các nguồn

vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế với mức lãi suất thấp. nguồn vốn này lại
được quay vòng để tài trợ cho các dự án đầu tư nội địa với nguồn lợi nhuận cao. Những
sự đảm bảo này cho thấy các nhà đầu tư không chịu rủi ro sụt giá bởi họ cung cấp những
thỏa thuận đôi bên cũng có lợi. Các nhà đầu tư vay vốn từ các trung gian tài chính nắm
một lượng lớn cổ phiếu trong những dự án lớn, làm tăng giá trị của những trung gian tài
chính. Điều này làm tăng niềm tin vào sự thành công của dự án, dẫn đến có thêm nhiều
Nhóm 7

Page 23


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
khoản nợ cho các trung gian tài chính, làm tăng nhanh hơn nữa nhu cầu của các dự án
và đẩy giá trị của các dự án này cao hơn giá trị thực tế.
Sau khi nhận thấy giá trị thực sự của các dự án, một số trung gian không thể trả khoản nợ
của mình và buộc phải đóng cửa. Các nhà đầu tư nhận được cứu trợ của chính phủ, nhưng
lòng tin vào các trung gian tài chính vẫn ngày một giảm sút, và một lần nữa đòi hỏi chính
phủ ra tay trợ giúp. Có những thời điểm, chi phí cứu trợ tài chính đạt đến một mức độ
nghiêm trọng, chính phủ không còn khả năng chi thêm nữa, lỗ vốn trầm trọng dẫn đến
việc nhiều trung gian tài chính bị đóng cửa, tiền tệ phá giá và khủng hoảng tín dụng lan
rộng.
Vậy, đâu là mối liên hệ giữa phân tích trên với cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp? Trở lại
vấn đề nợ công Hy Lạp. Hãy xem xét một kịch bản áp dụng hoàn hảo trong suốt thập kỷ
qua với những nhà đầu tư quốc tế có thể tiếp cận được với các tài sản có mức thanh
khoản cao . Các nhà đầu tư đánh giá trái phiếu Hy Lạp như là một dự án mạo hiểm - 1
nền kinh tế có mức tăng trưởng thấp, năng lực cạnh tranh thấp và tỷ lệ nợ cao. Chúng ta
có thể viết ra hai kịch bản cho Hy Lạp. Kịch bản thứ nhất là một viễn cảnh lạc quan, Hy
Lạp sẽ tiến hành các cải cách thúc đẩy năng lực cạnh tranh. Trong trường hợp đó, bắt
đầu từ một nước với mức thu nhập thấp, Hy Lạp sẽ trở thành một nền kinh tế tăng
trưởng nhanh với giá trái phiếu được đánh giá cao tạo ra lợi ích lớn cho các nhà đầu tư

đã đặt cược. Ngược lại, kịch bản thứ hai lại không mấy khả quan. Trong đó, Hy Lạp sẽ
không thúc đẩy cải cách. Hệ quả là trái phiếu Hy Lạp giảm giá và gây lỗ cho các nhà đầu
tư.
Với một môi trường không bị bóp méo, trước khi Hy Lạp gia nhập Liên minh tiền tệ
EMU, thị trường sẽ đánh giá trái phiếu Hy Lạp bằng cách đánh giá khả năng của các cải
cách mà nước này thực hiện. Trái phiếu của Hy Lạp sẽ được định giá tại giá trị thực.

Nhóm 7

Page 24


Khủng hoảng nợ Hy Lạp 2010
Bây giờ chúng ta xem xét việc Hy Lạp gia nhập EMU năm 2001 với phân tích này và rút
ra những so sánh với mô hình của Krugman. Việc Hy Lạp trở thành một thành viên của
khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ thúc đẩy nguồn vốn chảy vào đất nước này. Thị
trường nhận thấy rằng các nước còn lại trong khối EMU có quyền lợi đặc biệt trong vấn
đề cải cách Hy Lạp cũng như với việc Hy Lạp có tiếp tục tham gia EMU hay không. Điều
này được nhấn mạnh trong cam kết chính trị dài hạn của nước Đức khi gia nhập vào EU.
Do đó, việc Hy Lạp gia nhập EMU đã chuyển tải một bảo lãnh ngầm cho chủ sở hữu trái
phiếu Hy Lạp, rằng nước Đức đóng vai trò người bảo lãnh, tương đương với vai trò của
chính phủ trong mô hình của Krugman. Kết quả là, thị trường đã ngừng định giá trái
phiếu Hy Lạp trên cơ sở các yếu tố cơ bản thay vào đó định giá chúng độc lập trên cơ sở
những kỳ vọng tốt đẹp nhất mà EU và nước Đức mang lại.
Việc EU thiếu một cơ chế trợ giúp hiệu quả như giám sát tài chính và áp đặt cải cách
làm cho chính phủ Hy Lạp trong suốt thời gian từ khi gia nhập năm 2002 cho đến năm
2009 đã không thực hiện một chính sách kinh tế hợp lý. Điều đó cũng có nghĩa là, kịch
bản xảy ra cho Hy Lạp không hề giống như những gì mà các nhà đầu tư mong đợi.
Vào thời điểm khi mà thị trường trái phiếu Hy Lạp đang chịu những áp lực lớn, các nhà
đầu tư trông chờ vào nhà bảo lãnh chính của Hy Lạp là Đức, để vực lại nền kinh tế nước

này. Tuy nhiên Đức đã từ chối giúp đỡ Hy Lạp. Thêm vào đó không có sự đảm bảo tài
chính, kế hoạch giải cứu của EU / IMF được đánh giá là không đủ lớn để đối phó với
mức thâm hụt ngân sách phình to và nợ công chồng chất của Hy Lạp. Kết quả là, giá của
trái phiếu Hy Lạp không ngừng giảm mạnh.

3.2
3.2.1

Tác động của cuộc khủng hoảng
Tác động đến Hy Lạp

Nhóm 7

Page 25


×