Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Khủng hoảng tài chính toàn cầu và các vấn đề tài khóa đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 18 trang )

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ TÀI KHÓA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu xảy ra ở Mỹ vào cuối năm 2007 và
nhanh chóng lan tỏa ra các nước khác. Mặc dù hàng loạt các giải pháp đối phó được áp
dụng, nền kinh tế thế giới tiếp tục chìm sâu vào khủng hoảng, với mức độ trầm trọng hơn
nhiều so với các dự báo trước đây. IMF liên tục phải điều chỉnh giảm mạnh dự báo tốc độ
tăng trưởng của thế giới, các khu vực và các nước lớn. Thực tế tăng trưởng kinh tế toàn
cầu đã tụt dốc từ trên 5% trong các năm 2006, 2007 xuống 3,4% năm 2008 và ước 0,5%
năm 2009.
Là một nền kinh tế nhỏ, với độ mở tương đối lớn (vào năm 2007, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu lên tới trên 150% GDP, đầu tư nước ngoài chiếm khoảng ¼ tổng đầu tư
xã hội), khủng hoảng tài chính toàn cầu đã có tác động đáng kể tới nền kinh tế Việt nam.
Trước tiên, cùng với các chính sách hạ nhiệt của Chính phủ đầu năm 2008, nền kinh tế đã
đảo ngược trạng thái, từ phát triển kinh tế nóng sang suy giảm vào các tháng cuối năm
2008. Chỉ số giá tiêu dùng trong nước đang từ 3,9% tháng 5; 2,1% tháng 6 hạ xuống
1,13% tháng 7, 1,56% tháng 8, 0,18% tháng 9, sau đó giảm vào các tháng cuối năm 2008
(tháng 10 -0,19%, tháng 11: -0,76%, tháng 12: -0,68%). Tăng trưởng kinh tế năm 2008
tụt gần 2 điểm %, xuống 6,18%, so với mức trên 8% của các năm trước đó.
Bảng 1: Chỉ số giá các tháng năm 2008
tháng
1
2.4

tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng
2
3
4
5
6
7
8


9
10
11
12
3.6

3

2.2

3.9

2.1

1.1

1.6

0.2

-0.2

-0.8

-0.7

Nguồn TCTK (online)
Bảng 2: Tổng kim ngạch XNK và tỷ trọng đầu tư nước ngoài trước khi chịu tác động của
khủng hoảng
2000


2001

2002

2003

2004 2005

Tổng kim ngạch
111.
XNK (% GDP)
112.5 5

118.
8

126.
9

Tỷ trọng đầu tư
nước ngoài trong
tổng đầu tư xã hội 18

17.4

16

17.6



2008

2006

2007

139

151.
142.9 8

169.
7

173

14.2

14.9

24.3

31.4

16.2

Nguồn TCTK (online)
Vào cuối năm 2008, Chính phủ đã phải đảo ngược hướng điều hành kinh tế - xã
hội. Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11.12.2008 của Chính phủ đã chuyển mục tiêu


bộ


quản lý từ kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất - kinh
doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội....
Diễn biến trên đây có tác động đa chiều tới NSNN. Ngoài các tác động khách
quan do khủng hoảng thu hẹp các hoạt động của nền kinh tế, NSNN còn chịu tác động
bới các gói kích cầu của chính phủ. Các tác động này phụ thuộc vào đặc thù của nền kinh
tế, đặc thù của hoạt động ngân sách nhà nước và đặc thù của gói kích cầu. Vậy những đặc
thù kinh tế - xã hội, đặc thù NSNN, và gói kích cầu có ảnh hưởng tới phạm vi, mức độ
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới NSNN là gì? Với các đặc thù này,
NSNN đã chịu tác động như thế nào? Các vấn đề ngân sách hiện nay của Việt nam là gì?
Để trả lời các câu hỏi này, bài viết sẽ tập trung vào
- Các đặc thù của nền kinh tế và các hoạt động ngân sách nhà nước.
- Phản ứng chính sách của Chính phủ và tác động của khủng hoảng tài chính toàn
cầu tới NSNN.
- Các vấn đề ngân sách đặt ra.
1. Đặc thù của nền kinh tế và hoạt động NSNN
1.1. Đặc thù nền kinh tế
Nền kinh tế vẫn ở giai đoạn đầu phát triển, thu nhập bình quân đầu người
thấp, vào khoảng 700-800 USD các năm 2006, 2007, tương ứng khoảng 1/3 mức thu
nhập bình quân đầu người của Trung quốc, thấp hơn ¼ mức thu nhập bình quân đầu
người của Thái Lan. Nếu só vơi Nhật bản thì thu nhập bình quân đầu người của Việt nam
giao động trong khoảng 1/50 đến 1/40.
Cơ cấu kinh tế, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, nhưng vào cuối
năm 2008, ngành nông, lâm, ngư nghịêp vẫn chiếm trên 22% tổng sản phẩm quốc nội.


Bảng 3: Cơ cấu kinh tế giai đoạn trước khi chịu tác động mạnh của khủng hoảng

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007


2008

100

100

100

100

100

100


100

100

100

Nông, lâm, thủy
sản
24.53

23.0
23.24 3

21.8
22.54 1

Công nghiệp và
xây dựng
36.73

38.4
38.13 9

39.4
7

41.4
40.21 41.02 41.54 8


39.73

Dịch vụ

38.4
38.63 8

37.9
9

37.9
8

38.17

38.74

20.97 20.4

38.0
1

38.0
6

20.34 22.1

38.1
8


Nguồn TCTK (online)
Hình 1: cơ cấu kinh tế giai đoạn trước khi chịu tác động mạnh của khủng hoảng

Nếu tính theo tiêu chí lao động, thì tỷ trong lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghịêp
vẫn chiếm trên 50% và trong nền kinh tế vẫn có tới trên 70% dân số sống bằng ngành
nông, lâm, ngư nghiệp.
Bảng 4: Cơ cấu lao động trước khi chịu tác động mạnh của khủng hoảng (%)
2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Sơ bộ
2008

100

100


100

100

100

100

100

100

100

bộ


Nông nghiệp và lâm 62.4
nghiệp
6

58.6
60.65 6

53.6
56.98 55.37 1

51.78 50.20 48.87

Thuỷ sản


2.81

3.27

3.59

2.63

3.25

3.38

3.49

3.70

3.75

Nguồn TCTK (online)
Hình 2: Cơ cấu lao động trước khi chịu tác động mạnh của khủng hoảng

Do ở trình độ phát triển thấp và mong muốn đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, thu
hẹp dần khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thé giới, Việt Nam theo đuổi
mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, tăng tốc đầu tư xã hội, nhưng tập trung
chủ yếu vào các ngành sản xuất vật chất.
Tổng vốn đầu tư xã hội liên tục tăng ở mức rất cao, luôn trên 10% kể từ sau
khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997 cho tới nay, đặc biệt năm 2007 đã lên tới trên
27% (tính theo giá so sánh năm 1994). Nếu tính theo tỷ trọng GDP, thì mức tăng tổng
vốn đầu tư xã hội là rất ấn tượng, từ dưới 20% vào những năm 1995, 1996 lên tới trên

45% vào năm 2007, đưa Việt nam trở thành một trong các quốc gia có mức đầu tư cao
nhất trên thế giới.
Hình 3 : Qui mô, tốc độ tăng trưởng tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1996-2008 (giá
1994)


Nguồn: Tính toán từ số liệu của tổng cục thống kê
Đầu tư xã hội tập trung vào các ngành sản xuất công nghiệp và xây dựng; nông,
lâm, ngư nghiệp và các dịch vụ phát triển các ngành sản xuất vật chất. Tổng đầu tư vào
các ngành này luôn chiếm tới 2/3 tổng đầu tư xã hội, trong đó riêng đầu tư vào ngành
công nghịêp và xây dựng là trên 40% tổng đầu tư xã hội.
Bảng 5: Cơ cấu đầu tư theo ngành nghề trước khi chịu tác động mạnh của khủng hoảng
(%)

Nông, lâm , ngư nghiệp

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006


2007

2008

13.8
5

9.47

8.76

8.45

7.89

7.50

7.43

6.38

6.38

Công nghiệp và xây 39.2
dựng
3

41.8
42.38 42.34 41.29 42.75 42.58 42.24 1


Vận tải; kho bãi và 13.1
thông tin liên lạc
7

16.1
15.84 9

13.5
15.98 4

14.0
6

14.4
3

15.50 14.75

QLNN và ANQP; đảm
bảo xã hội bắt buộc
2.59

2.26

1.53

1.86

2.84


2.83

2.94

2.49

2.11

Giáo dục và đào tạo

4.02

3.65

2.94

2.98

2.96

2.94

3.27

2.73

2.70

Y tế và hoạt động cứu
trợ xã hội

1.54

1.62

1.60

1.83

1.95

1.68

1.52

1.41

1.46

26.6
25.60 24.78 4

27.6
1

28.1
28.07 28.39 6

Khác

40.64


29.68 31.95

Nguồn TCTK (online)
Hình 4: Cơ cấu đầu tư theo ngành nghề giai đoạn trước khi chịu tác động mạnh của
khủng hoảng


Bùng nổ đầu tư xã hội vào các ngành sản xuất vật chất giúp Việt nam đạt được
các thành quả đáng ghi nhận về tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của tổng cục thống
kê, đóng góp của đầu tư vốn vào tổng sản phẩm quốc nội hiện đang ở mức trên 52,7%,
lao động là 19,1%......
Tuy nhiên, mở rộng đầu tư trong một thời gian ngắn, với các điều kiện của một
nền kinh tế chuyển đổi, ở đó cơ chế, chính sách chưa hoàn thiện, khó có thể tránh khỏi
những bất cập nhất định về chất lượng tăng trưởng. Chi phí sản xuất gia tăng; thiếu lao
động có kỹ năng, tay nghề; trình độ quản lý, quản trị hạn chế; sức cạnh tranh thấp; các
hoạt động thương mại quốc tế chủ yếu dừng ở mức độ gia công, xuất khẩu hàng hoá thô,
giá trị gia tăng thấp; các vấn đề môi trường nảy sinh...
Mở rộng đầu tư xã hội trong điều kiện khu vực tài chính của đất nước chưa
phát triển, các thành phần kinh tế phi nhà nước còn non trẻ, nên đầu tư nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn.
Bảng 6: Qui mô, tốc độ tăng và Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo thành phần kinh tế
Cơ cấu (%)
Qui mô % GDP

% tăng

NN

Ngoài NN


FDI

1995

31.65

111.9

42.0

27.6

30.4

1996

32.13

114.9

49.1

24.9

26.0

1997

34.55


119.2

49.4

22.6

28.0

1998

32.45

102.6

55.5

23.7

20.8

1999

32.80

109.8

58.7

24.0


17.3

2000

34.23

115.3

59.1

22.9

18.0

2001

35.42

112.5

59.8

22.6

17.6

2002

37.36


114.3

57.3

25.3

17.4

2003

39.00

112.7

52.9

31.1

16.0

2004

40.67

113.5

48.1

37.7


14.2

2005

40.89

113

47.1

38.0

14.9

2006

41.54

113.7

45.7

38.1

16.2

2007

46.52


127

37.2

38.5

24.3

2008

41.34

106.4

28.6

40.0

31.4


Nguồn TCTK (online)
Hình 5: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo thành phần kinh tế

Mặc dù tiết kiệm nội bộ nền kinh tế ở mức tương đối cao, song do nhu cầu đầu tư
lớn, nên nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tăng nhanh chóng và chiếm tới 31,4%
tổng đầu tư xã hội vào năm 2008.
Theo đuối định hướng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và việc hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế khu vực, hội nhập kinh tế thế giới tạo cơ hội và có đóng góp đáng kể vào

tăng trưởng kinh tế thời gian qua, song cũng có nghĩa rằng độ mở và sự phụ thuộc của
nền kinh tế vào thị trường thế giới cũng tăng mạnh. Tuy nhiên, là một nước đi sau và
trình độ phát triển còn nhiều hạn chế, nên thương mại quốc tế hiện nay của Việt nam chủ
yếu là gia công và xuất khẩu hàng hóa, nguyên liệu thô.
Bảng 7: Tăng trưởng kim ngạch XNK trước khi khủng hoảng có tác động sâu rộng
tổng số (%)

Xuất
(%)

khẩu nhập
(%)

khẩu Qui mô thâm hụt
(% GDP)

2000

129.4

125.5

133.2

2.46

2001

103.7


103.8

103.7

2.28

2002

116.7

111.2

121.8

5.17

2003

124.6

120.6

127.9

8.36

2004

128.7


131.4

126.6

7.55

2005

118.4

122.5

115.0

4.18

2006

122.4

122.7

122.1

4.56


2007

131.4


121.9

139.8

15.85

Sơ bộ 2008

128.8

129.1

128.6

16.54

Nguồn TCTK (online)
Qui mô thâm hụt: tính toán từ số liệu TCTK
1.2. Đặc thù NSNN
1.2.1. Nguồn thu
Nhờ tăng trưởng kinh tế ở mức cao với sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu kinh
tế và sự bùng nổ thương mại quốc tế, cùng giá dầu leo thang, nguồn thu NSNN của Việt
nam đã tăng mạnh trong thời gian qua. Tốc độ tăng trưởng nguồn thu luôn trên 20%, trừ
năm 2007, 2005 và thường cao hơn đáng kể tốc độ tăng trưởng kinh tế cộng chỉ số giá
bình quân năm, trừ năm 2007, 2008.
Do tốc độ tăng trưởng nguồn thu tăng nhanh hơn tăng trưởng kinh tế và chỉ số giá
bình quân, nên qui mô thu tính theo % GDP cũng tăng mạnh, từ khoảng 23% năm 2002
lên 28,7% và hạ chút ít vào các năm 2007, 2008, ở các mức tương ứng là 27,6% và 27%
GDP.

Bảng 8: Qui mô thu và Tốc độ tăng trưởng nguồn thu

Qui mô thu (%GDP)

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

23.12

24.82

26.69

27.20

28.69

27.62


27.00

22.94

25.38

19.57

22.42

13.04

26.30

Tăng trưởng nguồn thu
Tăng trưởng kinh tế

7.08

7.34

7.79

8.44

8.23

8.46

6.18


Chỉ số giá bình quân năm

3.9

3.2

7.7

8.3

7.5

8.3

23.0

Nguồn TCTK (online)
Cũng như các nền kinh tế khác ở giai đoạn đầu phát triển, thu NSNN của Việt
nam phụ thuộc nhiều vào thu hải quan, thu từ các cơ sở sản xuát kinh doanh. Bên cạnh
đó, là nước xuất khẩu dầu thô, nên thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng
thu của chính phủ. Thu từ tài sản, từ thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí tương đối hạn
chế. Cho tới năm 2008, tỷ trọng thu dầu thô và thu hải quan trong tổng thu NSNN vẫn
chiếm tới 48%, trong đó thu từ dầu thô chiếm 25% và thu hải quan chiếm 23%, cho thấy
thu NSNN phụ thuộc đáng kể vào thị trường thế giới.


Bảng 9: Cơ cấu thu theo khu vực (%)
2002


2003

2004

2005

2006

2007

2008

Thu nội địa

0.51

0.52

0.55

0.52

0.52

0.55

0.51

Thu dầu thô


0.21

0.24

0.25

0.29

0.30

0.24

0.25

thu hải quan

0.25

0.22

0.18

0.17

0.15

0.19

0.23


Thu viện trợ

0.02

0.02

0.02

0.02

0.03

0.01

0.01

Nguồn TCTK (online)
Năm 2008: báo cáo của Bộ Tài chính
Tỷ trọng thu từ các cơ sở kinh tế trong nước năm 2008 chiếm 39% tổng thu
NSNN, trong khi đó thu thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 3%, các khoản phí, lệ phí và thu
từ nhà đất chiếm khoảng 10% tổng thu, do vậy nguồn thu trong nước cũng rất nhạy cảm
với các biến động kinh tế.
1.2.2. Đặc thù chi NSNN và cân đối NSNN
Cũng do nền kinh tế trong giai đoạn đầu phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
còn nhiều bất cập, thể chế tài chính chưa hoàn thiện và do tốc độ tăng giá trong nền kinh
tế tương đối cao,... nên áp lực tăng chi NSNN là rất lớn.
Với các điều kiện tương đối thuận tiện về nguồn thu NSNN, chi NSNN thực tế
cũng tăng nhanh, với tốc độ cũng cao hơn tăng trưởng kinh tế cộng chỉ số giá bình quân
trong năm, trừ năm 2008. Hệ quả là qui mô chi tính theo % GDP từ 24,7% năm 2000 đã
lên tới 32% năm 2008.

Chi đầu tư phát triển, 90% là chi XDCB là đối tượng ưu tiên của chi NSNN. Tuy
nhiên, do các vấn đề xã hội nảy sinh cùng với những biến động về giá cả và tác động của
khủng hoảng tài chính toàn cầu tới các vấn đề xã hội, nên đã có những điều chỉnh đáng
kể trong thời gian trước khủng hoảng. Tuy nhiên, vào năm 2008, chi đầu tư vẫn chiếm tới
¼ tổng chi NSNN.
Bảng 10: Qui mô, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu chi NSNN trước khi khủng hoảng tác
động mạnh
2000
Qui mô (%GDP)

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

24.67 26.96 27.66 29.54 29.94 31.30 31.62 34.92 32.10

Tăng trưởng tổng
chi (%)


19.10 14.21 22.25 18.21 22.65 17.27 29.65 18.7,

Chi đầu tư (% tăng)

35.82 12.38 31.87 10.88 19.79 11.54 26.96 5.03

Chi thường xuyên

15.75 9.05

22.51 12.94 22.55 22.31 30.95 21.97


(% tăng)
Chi đầu tư (% tổng
chi)
27.19 31

30.51 32.91 30.87 30.15 28.68 28.08 24.84

Chi
thường
xuyên(% tổng chi)
56.74 55.14 52.66 52.77 50.42 50.37 52.54 53.06 54.5
Nguồn TCTK (online)
2008: báo cáo của Bộ Tài chính
Chi thường xuyên chủ yếu mới tâp trung vào việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ
bản, trong đó chi giao dục là khoản chi chính, chiêm tới ¼ chi thường xuyên vào năm
2008. Tiếp đó là chi lương hưu, bảo đảm xã hội; chi quản lý hành chính; chi y tế. Chi an

sinh xã hội chủ yếu là chi lương hưu. Chi cho các đối tượng xã hội do biến động kinh tế
xã hội còn hạn chế và phụ thuộc vào những điều chỉnh cơ chế, chính sách, chế độ chi hơn
là những thay đổi có tính chất tự động.
Mặc dù nguồn thu tăng mạnh, nhưng do nhu cầu chi lớn, nên áp lực cân đối
NSNN là vấn đề thường trực. Cộng với qui trình ngân sách nhà nước truyền thống, theo
năm và giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP, nên mức bội chi thực tế luôn tiệm cận ở giới
hạn cho phép. Nói cách khác, khả năng điều chỉnh ngân sách theo các biến động kinh tế
xã hội trong và ngoài nước rất hạn chế. Chi NSNN nói chung tăng khi điều kiện kinh tế
xã hội thuận lợi và khó tăng để hỗ trợ nền kinh tế trong các giai đoạn kinh tế khó khăn.
2. Tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới NSNN
2.1. Các tác động đối với nền kinh tế
Tác động của khủng hoàng tài chính toàn cầu tới nền kinh tế Việt nam có độ trễ
đáng kể. Trong khi khủng hoảng đã diến ra ở nhiều nền kinh tế công nghiệp phát triển
trên thế giới, thì ở Việt nam, tăng trưởng nóng với chỉ số giá các tháng đầu năm luôn ở
mức cao buộc Chính phủ phải áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát,
hạ nhiệt nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự đảo chiều đã diễn ra vào giữa năm, khi tốc độ tăng chỉ số giá các
tháng bắt đầu giảm (từ tháng 7) và chuyển sang giảm vào những tháng cuối năm. Những
bất thường đã diễn ra trong khu vực hoạt động thương mại, khi kim ngạch xuất khẩu
giảm vào các tháng cuối năm (trừ tháng 12, nhưng kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2008
lại giảm so với cùng kỳ năm trước) trong khi đây thường là thời điểm tăng trong năm.
Tăng trưởng kinh tế các quí 2,3,4 năm 2008 cũng đã giảm hẳn so với mức tăng trưởng
7,49% trong quí 1 của năm, đưa tăng trưởng cả năm 2008 xuống 6,18%, thấp hơn nhiều
so với mức tăng trưởng 8,44% năm 2005; 8,23% năm 2006 và 8,46% năm 2007.
Trước thực trạng đó, chính phủ đã ban hành hàng loạt các chính sách hỗ trợ nền
kinh tế. Đối với chính sách tài khóa, đã có điều chỉnh ở cả chính sách thu và chi theo
hướng giảm bớt gánh nặng đóng góp cho các chủ thể kinh tế, giảm bớt chi phí sản xuất,
kinh doanh; đồng thời tăng chi đầu tư, chi an sinh xã hội (chi tiết xem phụ lục 1).



Mặc dù vậy, suy thoái kinh tế vẫn diễn ra. Theo số liệu ước tính của Bộ công
thương, tính đến cuối tháng 3, trong 13 mặt hàng chủ lực thì kim ngạch xuất khẩu của 12
mặt hàng đều giảm mạnh từ 10 đến trên 20%, như điện tử và linh kiện máy tính, giày
dép, than đá, thủy sản, cà phê, nhân điều, sản phẩm chất dẻo… Trong đó, so với cùng kỳ
năm 2008, dầu thô giảm mạnh nhất với mức giảm 48,6%, kế đến là dây điện và cáp điện
giảm 47,3%, cao su giảm 43,9%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 3 tháng ước chỉ đạt 13497
triệu USD (nếu loại trừ xuất khẩu vàng thì chỉ đạt 11210 triệu USD)… Nhập khẩu cũng
giảm mạnh, với kim ngạch nhập khẩu 3 tháng là 11832 tỷ USD, giảm 42% so với cùng
kỳ năm 2008 .
BẢNG 11: Tốc độ tăng xuất nhập khẩu quý I/2009 so với cùng kỳ các năm ( %)
QI/2005

QI/2006

QI/2007

QI/2008

QI/2009

xuất khẩu

24.44

27.53

22.29

24.33


3.58

nhập khẩu

28.69

8.41

38.66

72.88

-42.00

Nếu không tính tái xuất vàng, thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu quy1/2009 so với cùng kỳ
giảm 13%
Nguồn: Tính toán trên cơ sở số liệu XNK của TCTK
Tổng vốn đầu tư xã hội quí 1 cũng chỉ đạt 116,3 nghìn tỷ đồng; tăng 9% so với
cùng kỳ năm trước (con số đó năm 2008 là 15,9%). Nguyên nhân chính là do đầu tư khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh (giảm 32% so với cùng kỳ; con só đó năm
2008 là tăng 24,1%). Nguồn FDI đăng ký mới trong quí 1 năm 2009 giảm tới 69,7% so
với cùng kỳ.
Tăng trưởng kinh tế quí 1 chỉ đạt 3,1%, mức thấp nhất so với nhiều năm trước đây
và chỉ bằng 41% tốc độ tăng trưởng quí 1 năm 2008.
Nền kinh tế đã có những cải thiện nhất định và được đánh giá là đã vượt qua đáy
của suy giảm kinh tế, với tốc độ tăng trưởng kinh tế quí 2 là 4,5%; quí 3 là 6,04%; quí 4
là 6,9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế cả năm cũng chỉ đạt 5,2%, thấp hơn nhiều so với
dự kiến khi xây dựng dự toán NSNN là 6,5%. Xuất nhập khẩu cũng không đạt dự kiến.
Xuất khẩu cả năm giảm 9,7% (dự kiến tăng 13% ); nhập khẩu giảm 14,7 % (dự kiến tăng
16%).

2.2. Các tác động thu - chi, cân đối NSNN và các vấn đề của tài chính công
Về nguyên tắc, tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu tới NSNN của mỗi
quốc gia diễn ra qua hai kênh:
- Kênh chủ động: Các tác động tới NSNN do thay đổi cơ chế, chính sách nhằm
đối phó với khủng hoảng.
- Kênh bị động (các tác động tự thân tới NSNN, do các yếu tố cấu thành thay đổi
ngay cả khi chưa tính tới các thay đổi cơ chế, chính sách)
Đối với thu NSNN, các tác động chủ động của khủng hoảng tới NSNN chủ yếu là
do việc miễn, giảm, giãn thời hạn thu thuế của chính phủ, nhằm giảm bớt các khó khăn


cho khu vực sản xuất, kích cầu, ngăn chặn đà giảm sút hoặc phục hồi nền kinh tế. Trong
khi đó các tác động nội tại của khủng hoảng tới thu NSNN chủ yếu là do việc thu hẹp cơ
sở thu. Đối với các sắc thuế có thuế suất lũy tiến từng phần, việc thu hẹp cơ sở thu sẽ đi
kèm với mức thuế suất áp dụng thấp hơn.
Đối với chi NSNN, các tác động chủ động của khủng hoảng nằm ở những điều
chỉnh cơ chế, chính sách, dẫn đến tăng chi, nhằm trực tiếp bù đắp phần nào sự sụt giảm
chi của các khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, nâng đỡ
tổng cầu. Các tác động nội tại phần lớn liên quan tới các chính sách an sinh, xã hội.
Khủng hoảng diễn ra sẽ làm tăng các đối tượng hưởng lợi của các chính sách này. Tổng
chi sẽ tự động tăng ngay cả khi không có thay đổi gì về cơ chế, chính sách của chính phủ.
Trong trường hợp Việt nam, dễ nhận thấy rằng khủng hoảng tác động tới thu
NSNN qua cả hai kênh và mức độ tăng động là đáng kể với các đặc thù kinh tế, nguồn
thu như phân tích ở trên. Tuy nhiên, tác động của khủng hoảng tới chi NSNN chủ yếu
nằm ở kênh chủ động. Mức độ tác động chủ động tới chi NSNN tương đối hạn chế và
khó có thể linh hoạt tức thì do phải điều chỉnh cơ chế, chính sách và phụ thuộc vào giới
hạn thâm hụt ngân sách trong khi thu NS có xu hướng giảm mạnh vào thời kỳ khủng
hoảng.
Tác động tới thu NSNN:
Khủng hoảng trước hết ảnh hưởng tới dự toán thu NSNN. Khác với các năm

trước, dự toán thu NSNN năm 2009 được xây dựng khá khiêm tốn. So với thu NSNN
thực hiện năm 2008, dự toán thu NSNN năm 2009 giảm 2,3%, thu dầu thô giảm 35% và
thu hải quan giảm 3,1%.
Mặc dù dự toán thu NSNN năm 2009 khá khiêm tốn, giảm so với thu NSNN thực
hiện năm 2008 là 9100 tỷ (tương ứng 2,3%), song thực hiện dự toán thu NSNN vẫn rất
khó khăn.
Quí 1 thu NNSN chỉ đạt 18,5% dự toán cả năm, trong đó thu dầu thô đạt mức thấp
nhất, khoảng 16%. Thu dầu thô giảm mạnh là do giá dầu thô trên thị trường thế giới tụt
dốc, bình quân quí 1 chỉ đạt 45USD/thùng (dự toán là 70USD/thùng) mà nguyên nhân là
vì kinh tế thế giới thu hẹp, nhu cầu nhiên liệu giảm mạnh. Thu xuất nhập khẩu quí 1 cũng
chỉ đạt 18,4% dự toán, trong khi dự toán chỉ ở mức 97% thu hải quan thực hiện năm
2008.
Cùng với những tiến triển của nền kinh tế, nguồn thu NSNN cũng được cải thiện.
Thu NSNN quí 2 đạt 43,9% dự toán, quí 3 đạt 70,4% dự toán và cả năm hoàn thành dự
toán thu NSNN. Nguồn thu từ dầu thô cũng có những tiến triển tích cực do giá dầu thô
tăng dần. Tính chung cả năm thu dầu thô đạt 86,7% dự toán. Thu hải quan vượt dự toán
1,5%.
Mặc dù đạt dự toán, song so với kết qủa thu các năm trước, khủng hoảng đã có tác
động rõ rệt tới thu NSNN năm 2009. Trong khi tốc độ tăng trưởng thu NSNN thực hiện
hàng năm trước đó luôn trên 20%/năm (trừ năm 2005 là 19,5%; năm 2007 là 13%), thì
thu NSNN năm 2009 lại giảm 2,1% so với năm 2008. Kết quả này là có thể hiểu được
trong bối cảnh nguồn thu phụ thuộc đáng kể vào thu dầu thô, thu hải quan mà khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã làm thu dầu thô giảm tới 41% so với thu dầu thô thực hiện


năm 2008. Năm 2009 cũng là năm có tốc độ tăng trưởng thu hải quan âm trong nhiều
năm trở lại đây (-4,4%).
Tác động tới chi NSNN:
Mặc dù chưa có tác động rõ ràng, tuy nhiên, do nguồn thu giảm, do các tác động
thu hẹp hoạt động kinh tế xã hội và do mặt bằng giá ở mức tương đối cao, nên dự toán

chi NSNN năm 2009 đã có những điều chỉnh nhất định so với trước đây, theo các nguyên
tắc:
- Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính
sách an sinh xã hội và điều chỉnh tiền lương, các khoản tăng chi theo tiền lương;
- Bố trí tăng chi dự phòng, dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực và chủ
động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; bố trí đảm bảo chi trả nợ theo
đúng cam kết;
- Bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục- đào tạo- dạy nghề, y tế, khoa họccông nghệ, văn hoá thông tin, bảo vệ môi trường, nông nghiệp- nông thôn,... theo các
Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
- Đáp ứng nhu cầu chi cho các nhiệm vụ khác trên tinh thần triệt để tiết kiệm; tiếp
tục rà soát thắt chặt chi đầu tư XDCB, bố trí dự toán chi thường xuyên cho các Bộ, cơ
quan Trung ương và các địa phương cơ bản không tăng so với năm 2008; giảm mức bội
chi NSNN dưới 5% GDP.
Vì vậy, dự toán chi NSNN năm 2009 được xây dựng ở mức tương đối thấp, chỉ
tăng so với thực hiện năm 2008 là 3,6% (trong khi tốc độ tăng chi các năm trước đó rất
cao), chi đầu tư giảm 4,2% so với thực hiện năm 2008, còn chi thường xuyên tăng 4,18%,
trong đó số tăng chi này tập trung cho các nhiệm vụ chính như:
Chi thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các
đối tượng chính sách, như: mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo; nâng
mức chi bảo trợ xã hội; mở rộng đối tượng thực hiện chính sách miễn thuỷ lợi phí; bù
chênh lệch lãi suất cho vay hộ nghèo, học sinh, sinh viên,...
Điều chỉnh tiền lương. Từ 01/01-30/04/2009, tiếp tục thực hiện trợ cấp khó khăn
270.000 đồng/người cho các đối tượng có thu nhập thấp; thực hiện lương hưu, trợ cấp đối
với người có công với cách mạng theo mức đã điều chỉnh tăng 15% từ quý IV/2008. Từ
tháng 5/2009, điều chỉnh lương tối thiểu lên 650.000 đồng/tháng, tăng 20,3%; điều chỉnh
tăng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công thêm 5,3%...
Trong quá trình điều hành, do khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra trầm trọng
hơn nhiều so với các dự đoán ban đầu, Chính phủ đã ban hành các chính sách chi tiêu
kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và
được Quốc hội cho phép tăng bội chi NSNN tới 7%, nên chi NSNN đã được điều chỉnh

tăng, trong đó chi đầu tư phát triển tăng 22.700 tỷ đồng, kinh phí thực hiện các chính sách
an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh tăng 26.705 tỷ đồng (so
với dự toán). Tổng chi NSNN năm 2009 ước đạt 533.005 tỷ đồng, tăng 8,5% (41.705 tỷ
đồng) so với dự toán và tăng 12,4% so với chi thực hiện năm 2008.
Chi đầu tư phát triển: Do đầu tư khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm mạnh,
đầu tư khu vực NN đã được định hướng điều chỉnh tăng nhằm hỗ trợ tổng cầu trong nền


kinh tế. Tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN thực tế đạt 135.500 tỷ đồng, tăng 20,1%
(22.700 tỷ đồng) so với dự toán, trong đó chi XDCB đạt 128008 tỷ. Để kịp thời hỗ trợ
nền kinh tế, trong quá trình triển khai, Bộ Tài chính đã cải cách quy trình kiểm soát,
thanh toán vốn đầu tư, chuyển từ thẩm tra trước sang kiểm tra sau để tạo điều kiện cho
các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện... Bên cạnh đó, qua chính sách kích cầu đầu
tư, nhất là giải pháp hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng ngân hàng, đã tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp xây dựng đảm bảo được vốn trong quá trình thực hiện các dự án, do đó việc
triển khai các dự án nhìn chung có tiến bộ hơn so với các năm trước.
Cùng với việc đẩy mạnh giải ngân các dự án ODA và mở rộng tín dụng nhà nước,
nguồn vốn đầu tư nhà nước đã tăng mạnh, tới 40,5% so với cùng kỳ năm trước, bù trừ
phần lớn các tác động giảm đầu tư khu vực có vốn nước ngoài. Nhờ vậy, tổng vốn đầu tư
xã hội theo giá thực tế cả năm 2009 vẫn đạt 704,2 tỷ đồng, tương ứng 42,8% GDP.
Chi thường xuyên đạt 332.605 tỷ đồng, tăng 23,5% so với dự toán. Số tăng chi
ngoài dự toán chủ yếu là kinh phí phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
chi bù lỗ kinh doanh dầu năm 2008 chưa xử lý hết, chi hỗ trợ của NSTW cho các địa
phương để bù giảm thu cân đối NSĐP do thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế theo
chương trình kích thích kinh tế và thực hiện chế độ khuyến khích cho các địa phương
hoàn thành vượt dự toán thu theo quy định của Luật NSNN.
rong khi bội chi NSNN dự toán được xây dựng trong giới hạn 5% cho phép của
Luật NSNN, thì việc tăng chi do các chính sách kích thích kinh tế mà nguồn thu không
tăng đã làm cho bội chi NSNN vọt lên 6,9% GDP, tăng 28.600 tỷ đồng so với dự toán.
3. Một số vấn đề NSNN hiện nay

Có thể cho rằng, về cơ bản, việc điều hành chính sách tài khóa năm 2009 đã đáp
ứng được các yêu cầu cấp bách của nền kinh tế. Các giải pháp kích thích kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội đã nhận được sự đồng thuận và tạo niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp
và toàn dân, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, gói kích thích kinh tế đã phát huy tác
dụng, góp phần đưa nền kinh tế vượt qua được khó khăn, bước đầu có những chuyển biến
tích cực và có dấu hiệu phục hồi: tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm ước đạt 4,56%,
quý sau cao hơn quý trước1, dự kiến mức tăng trưởng cả năm đạt 5,2%, cao hơn chỉ tiêu
đề ra (tăng 5%); kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, bảo đảm được các cân đối lớn; sản xuất
công nghiệp, xây dựng dần phục hồi và liên tục tăng; khu vực dịch vụ giữ được tốc độ
tăng trưởng nhanh; tình hình chính trị, xã hội ổn định, công tác an sinh xã hội được chú
trọng, nhất là các lĩnh vực giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững...
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính đã đặt NSNN của Việt nam trước thách
thức lớn trong cân đối NSNN.
Nguồn thu NSNN chưa có khả năng tăng nhanh trở lại. Một mặt do bản chất thu
NSNN có độ trễ, vì thu NSNN hôm nay được tính theo các kết quả hoạt động kinh tế đã
diễn ra trước đó. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự thu hẹp thương mại quốc tế tiếp
tục có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động ngoại thương của Việt nam, tới tăng trưởng kinh
tế Việt nam và các nguồn thu nội địa, thu hải quan. Thêm vào đó, giá dầu vẫn ở mức thấp
so với mức đỉnh điểm năm 2008 và sự suy giảm sản lượng dầu xuất khẩu, nhập khẩu
1

Trong đó: quý I tăng 3,11%, quý II tăng 4,46%, quý III tăng 5,76%, quý IV dự kiến tăng 6,5-6,8%.


(cùng với sự ra đời của các nàh máy lọc dầu trong nước) cũng hạn chế nguồn thu từ dầu
thô và thu thuế nhập khẩu xăng dầu trong các năm tới (có thể được bù đắp phần nào bằng
nguồn thu từ các nhà máy lọc dầu trong nước).
Trong khi đó, các áp lực chi có xu hướng mạnh hơn. Một mặt, việc triển khai
chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng đã gây áp lực lên việc điều hành chính

sách lãi suất, tỷ giá, tạo nguy cơ lạm phát trong thời gian tới. Nguy cơ lạm phát, đến lượt
nó, lại tạo áp lực đối với tăng chi an sinh xã hội, chi tiền lương. Mặt khác, các mất cân
đối trong mô hình đầu tư theo chiều rộng, với các nút thắt về cơ sở hạ tầng thiết yếu như
giao thông vận tải, điện nước, về lao động có kỹ năng và trình độ quản lý nền kinh tế đặt
ra các yêu cầu chi không thể trì hoãn do các nút thắt này đang tạo áp lực lớn đối với chi
phí sản xuất kinh doanh và chất lượng hàng hóa sản phẩm trong nền kinh tế. Bội chi
NSNN năm 2009 lên tới 6,9% và dư nợ chính phủ lên 40% GDP cũng tạo các áp lực chi
trả nợ lớn hơn trong thời gian tới.
Khủng hoảng tài chính cũng có tác động tiêu cực tới các nỗ lực cải cách và
yếu kém nội tại của khu vực tài chính chính phủ:
Chính sách kích cầu của chính phủ, như đã đề cập, đã có tác dụng tích cực trong
việc bù đắp những sụt giảm về đầu tư nước ngoài và hoạt động thương mại quốc tế, duy
trì tổng cầu và tăng trưởng kinh tế ở mức tương đối cao so với các nước khác trên thế
giới. Tuy nhiên, các chính sách kích cầu và việc mở rộng đầu tư khu vực nhà nước có tác
động nhất định tới quá trình cải cách trong nước. Qui mô đầu tư nhà nước tăng trở lại, từ
28,9% tổng đầu tư xã hội năm 2008 lên 34,8%. Sự gia tăng này sẽ tiếp tục trong vài năm
tới vì nhiều dự án đầu tư là các dự án dài hạn. Vì hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước
thấp nhất trong nền kinh tế và năng lực của cá nhà thầu, các chủ đầu tư cũng nhiều hạn
chế, nên việc gia tăng nguồn vốn đầu tư xã hội vào khu vực kinh tế nhà nước năm 2009
có thể làm trầm trọng hơn tính kém hiệu quả của nền kinh tế hiện nay.


BẢNG 12 : cơ cấu GDP và cơ cấu vốn theo thành phần kinh tế
Đóng góp vào GDP

Cơ cấu vốn Theo thành phần

Tổng

19962000


20012005

2006

2007

19962000

20012005

2006

2007

Nhà nước

0.40

0.39

0.36

0.22

0.54

0.53

0.46


0.40

Khu vực phi nhà nước 0.50

0.47

0.46

0.40

0.24

0.31

0.38

0.35

Khu vực FDI

0.15

0.18

0.38

0.22

0.16


0.16

0.25

0.10

Nguồn : Tính toán từ số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư
Khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng cho thấy rõ hơn các bất cập của khu
vực NSNN Việt nam
- Thứ nhất, quản lý ngân sách ngắn hạn hạn chế khả năng sử dụng công cụ NSNN
trong bình ổn nền kinh tế trước các biến động kinh tế- xã hội trong và ngoài nước.
Việc điều hành NSNN hàng năm, theo đó các quyết định thu - chi được thực hiện ở
giới hạn bội chi tối đa cho phép, hạn chế khả năng tăng chi NSNN hỗ trợ nên kinh tế
khi các điều kiện kinh tế - xã hội trở nên khó khăn. Ngay cả khi Quốc hội đồng ý
cho phép tăng bội chi NSNN, thì việc đề xuất, thảo luận, phê chuẩn của Quốc hội
cũng hạn chế tính kịp thời của công cụ NSNN. Thêm vào đó, việc luôn duy trì bội
chi ở mức cao, khủng hoảng diễn ra với việc tăng hơn nữa bội chi NSNN có thể làm
cho nợ chính phủ trở nên nghiêm trọng.
- Thứ hai, tính tự ổn định của công cụ chi NSNN của Việt nam còn rất hạn chế, do
thiếu vắng các chế độa n sinh xã hội với các điều kiện thụ hưởng tùy thuộc vào các
biến động kinh tế - xã hội.
- Thứ ba, mô hình đầu tư phát triển theo chiều rộng không chỉ làm tăng sự phụ
thuộc của nên kinh tế vào nguồn đầu tư nước ngoài, mà những bất cập về trình độ,
kỹ năng lao động, về chất lượng sản phẩm cũng hạn chế nền kinh tế phục hồi trong
khủng hoảng khi cạnh tranh trở nên gay gắt hơn với các rào cản kỹ thuật được dựng
lên.
- Thứ tư, nguồn thu hạn chế, chưa ổn định vững chắc có ảnh hưởng đáng kể tới
việc quản lý, điều hành chi NSNN, tới hiệu quả, hiệu lực của công cụ NSNN./.



Phụ lục 1: các định hướng điều hành chính sách tài khóa năm 2009 của
chính phủ
(i) Miễn, giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp của quý IV năm 2008 và của
năm 2009; (ii) Miễn thuế TNCN đối với tất cả các khoản thu nhập có nguồn gốc phát
sinh thu nhập trong 6 tháng đầu năm 2009 và tiếp tục miễn thuế TNCN đối với các loại
thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, từ bản quyền, nhượng quyền thương mại…
đến 31/12/2009; (iii) Hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa xuất khẩu; (iv)
Điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản; (v) Điều
chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào
của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ
nhu cầu đồng thời điều chỉnh tăng thuế trong khuôn khổ cam kết WTO; (vi) Giãn thời
gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm; (vii) Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa,
đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản
xuất, gia công hàng xuất khẩu; (viii) Quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu
được trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu
thuế nhập khẩu…

Về chi, đã có những điều chỉnh tổng thể, cả chi nguồn NSNN, nguồn
trái phiếu chính phủ... theo hướng tạo điều kiện thuận lợi, tăng chi đầu tư,
nhưng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vốn đầu tư cho các dự án, công
trình có hiệu quả, có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2009,
đầu năm 2010; tăng chi cho các đối tượng xã hội:
Đối với các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước,
cho phép tiếp tục giải ngân số vốn còn lại của năm 2008 đến hết tháng
6/2009.
Đối với các dự án, công trình quan trọng, cấp bách nhưng chưa bố trí
được nguồn vốn, trong đó có dự án tái định cư các khu kinh tế, các bộ ngành
và địa phương chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục

đầu tư và chủ động làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xử
lý nguồn vốn, kể cả việc tạm ứng ngân sách nhà nước để thực hiện.
Đối với các dự án, công trình sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ,
cho phép điều chỉnh tổng mức đầu tư đối với các dự án đã có trong danh
mục được Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ giao; trên
cơ sở đó thực hiện việc điều hòa vốn giữa các dự án, công trình và được
thanh toán theo đúng tiến độ. Đồng thời, cho phép tiếp tục giải ngân nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ còn lại của năm 2008 trong năm 2009.
Xem xét, cho phép cấp quyết định đầu tư được chỉ định thầu các dự án
có mức vốn tối đa không quá 5 tỷ đồng/dự án tại các địa bàn miền núi, vùng
sâu, vùng xa, đồng thời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.


Đối với các dự án ODA, tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải
ngân các nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng,
các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn,
những dự án giải quyết việc làm; phấn đấu năm 2009 thực hiện giải ngân các
nguồn vốn trên không thấp hơn mức thực hiện trong năm 2008.
Chính phủ cũng quyết định tiếp tục phát hành trái phiếu năm 2009,
khoảng 36.000 tỷ đồng, để đầu tư các công trình về giao thông, thuỷ lợi,
kiên cố hoá các trường, lớp học và đầu tư xây dựng, nâng cấp các bệnh viện
tuyến huyện, ....



×