Tải bản đầy đủ (.pptx) (42 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của đồng tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 42 trang )

ĐỀ BÀI: Quá trình hình thành và phát triển của đồng tiền


Quá trình phát triển của đồng tiền
Tiền điện
tệ hàng
danh
tín
dụng
tử
nghĩa
hóa –hóa tệ


1.Thời kỳ hàng đổi hàng



Người cổ đại không dùng tiền để mua bán, trao
đổi hàng hóa. Thay vào đó, họ dùng phương thức
trao đổi hàng lấy hàng, tức là dùng những tài sản cá
nhân để trao đổi lấy những loại hàng hóa khác.

Một người có thể trao đổi 450g táo lấy 450g hạt giống.




Khoảng giữa những năm 9000 – 6000 trước
công nguyên, vật nuôi được xem là đơn vị trao
đổi chủ yếu. Sau đó, khi nền nông nghiệp phát


triển mạnh mẽ thì những loại cây trồng, sản
phẩm từ nông nghiệp lại được sử dụng để trao
đổi một cách phổ biến.

Vỏ sò thường được sử dụng như một món
quà rất giá trị trong lễ cưới.


2.Đồng tiền kim loại đầu tiên


Vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên,
người Trung Quốc bắt đầu sản xuất ra những
đồng tiền xu đầu tiên. Những đồng tiền này
được làm từ kim loại, và có lỗ trống để có thể
xâu thành một chuỗi vòng. Những đồng tiền xu
đầu tiên này được xem như là khởi nguồn của
quá trình phát triển đồng tiền kim loại.

Những đồng tiền xu có lỗ thủng để có thể xâu chuỗi lại thành vòng cổ. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn sử dụng
những công cụ làm từ kim loại như dao, thuổng như một loại tiền tệ.


3.Đồng xu vàng và bạc


Khoảng 500 năm trước công nguyên, những
đồng tiền xu bằng bạc in hình các vị thần, vị
hoàng đế để khẳng định sự thống trị của họ. Ban
đầu những đồng tiền này được sử dụng ở Lydia,

Thổ Nhĩ Kỳ sau đó lan rộng ra Hy Lạp, đế quốc Ba
Tư và cả thành La Mã. Cũng trong thời gian này,
nhiều nước khác bao gồm cả Lydia cũng sử dụng
đồng tiền xu vàng để mua bán hàng hóa.

Những đồng xu vàng có giá trị hơn những đồng xu bạc bởi vì vàng ít phổ biến hơn bạc.


4.Tiền giấy


Đồng tiền giấy đầu tiên được sử dụng bởi người
Trung Quốc từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 19 sau
công nguyên. Tuy nhiên, thời gian này xảy ra hàng
loạt những cuộc khủng hoảng, lạm phát nghiêm
trọng do sự tăng vọt số lượng tiền giấy. Và vào năm
1455 loại tiền này đã không xuất hiện nữa. Nhiều
năm sau đó, những người dân Châu Âu vẫn không sử
dụng loại tiền giấy này.

Tiền giấy gọn nhẹ, dễ mang theo
người hơn là tiền kim loại.


5.Vàng miếng


Người Anh đã đưa ra một tiêu chuẩn vàng xác
định, theo đó, vàng được đo bằng đơn vị ounce.
Mỗi đơn vị tiền tệ được ấn định một lượng vàng

nhất định, do đó ngăn chặn được lạm phát tiền
giấy.

Ngày nay, đơn vị đo vàng chuẩn được
giới.

sử dụng rộng rãi trên toàn thế


6.Thẻ tín dụng



Hầu hết mọi người phải dùng
tiền mặt để chi trả cho tất cả các
loại hàng hóa, dịch vụ mà họ sử
dụng. Điều này đôi khi gây ra
những khó khăn và bất tiện . Tuy
nhiên, mọi chuyện đã được giải
quyết vào năm 1950, khi mà nhà
khoa học Frank X. McNamara
đưa ra ý tưởng mới về một loại
thẻ tín dụng, loại thẻ này có thể
dùng ở nhiều địa điểm khác
nhau, chi trả cho nhiều loại hàng
hóa, dịch vụ khác nhau mà
không cần dùng đến tiền mặt.

Ngày nay, lợi ích đáng kể mà thẻ tín dụng mang lại đã được công nhận trên toàn thế giới.



ĐỀ BÀI:
Quy luật vận động và chức năng của USD


A : Quy luat van dong cua USD
I


I.Đồng dollar trong thời kì bản vị vàng




Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế thế giới được vận hành dưới chế độ bản vị vàng. Đồng tiền của mỗi
quốc gia đều được quy đổi thành vàng theo một tỉ lệ nhất định. Chế độ này tạo ra một hệ thống tỷ giá cố định. Đồng
tiền của một nước có thể được trao đổi với một đồng tiền khác với một tỉ lệ không đổi, phụ thuộc vào giá trị của từng
đồng tiền với vàng. Tỷ giá cố định thúc đẩy thương mại quốc tế bằng cách lọai bỏ hoàng toàn rủi ro tỷ giá



Trong chế độ bản vị vàng, đồng bảng Anh (sperling) là đồng tiền được sử dụng rộng rãi nhất, đựoc coi là đồng tiền
quốc tế lúc bấy giờ. .



Trong khoảng thời gian này, đồng usd chỉ có vai trò là đồng bản vị của nước Mỹ.


II.Đồng dollar trong thời kì hai đại chiến thế giới




Năm 1914, đại chiến thế giới thứ nhất
nổ ra buộc các nước chấm dứt chuyển
đổi đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống
tỷ giá cố định thời kì bản vị vàng phải
nhường chỗ cho chế độ tỷ giá thả nổi.
Chính phủ các nước thay đổi chính sách
tiền tệ tài trợ cho chiến tranh làm cho
lạm phát bùng nổ. Do Mỹ tham chiến
muộn và trung tâm chiến tranh xảy ra ở
châu Âu là cho lạm phát của châu Âu lớn
hơn nhiều so với Mỹ. Kết quả là sức cạnh
tranh của Mỹ tăng lên nhanh chóng, đồng
dollar dẫn xây dựng được vị thế trong hệ
thống tiền tệ thế giới.


Kim ngạch xuất khẩu của Mỹ và Anh trong giai đoạn 1900-1956




Nền kinh tế Mỹ từ 1872 đã vượt Anh về quy mô nhưng phải đến năm 1915, kim ngạch xuất khẩu Mỹ mới có thể
vượt Anh, sau đó tăng mạnh trong suốt thời kì chiến tranh. Cùng với sự phát triển của xuất khẩu, từ 1914 trở đi, Mỹ
chuyền dần từ vị trí người đi vay sang người cho vay. Thêm vào đó, trong khi các nước thả nổi đồng tiền của mình,
Mỹ vẫn duy trì tỷ giá của dollar với vàng. Dollar trở thành đồng tiền duy nhất chuyển đổi sang vàng trong những năm
20.




Tất cả các yếu tố trên đã xây dựng cho vị thế là phương tiện chuyển đổi và phương tiện tích lũy quốc tế của đồng
dollar. Dollar được sử dụng một cách rộng rãi trong những hoạt động tài chính và thương mại quốc tế. Tài sản ghi
bằng đồng dollar trở thành một danh mục đầu tư hấp dẫn. Trong thời gian này, đồng dollar không có chức năng làm
thước đo gía trị vì mặc dù giữ được tỷ lệ cố định so với vàng, nhưng vì các đồng tiển khác đều đươc thả nổi nên thực
chất dollar cũng được thả nổi so với những đồng tiền khác





Tuy nhiên, trong thời kì đại chiến thế giới, đồng bảng Anh vẫn giữ được vị trí cao nhất trong hệ thống tiền tệ quốc tế
Trong vị thế là đồng tiền dự trữ quốc tế, đồng bảng vẫn được tin dùng. Cho đến tận những năm 1940, giá trị của
những giấy tờ có giá bằng bảng vẫn gấp 2 giá trị những giấy tờ có giá bằng USD. Đây là hệ quả sức ỳ hay độ trễ của
quyết định dùng một đồng tiền quốc tế (phân tích mục 1 phần lý thuyết).



Đại suy thoái 1930 xảy ra chia hệ thống tiền tệ thế giới thành những khối tiền tệ không liên kết trong đó 2 khối lớn
nhất là khối đồng bảng Anh và khối đồng dollar làm đối trọng của nhau.


III.Đồng dollar trong chế độ Bretton Woods hay chế độ bản vị dollar



Hệ thống Bretton Woods ra đời khi
chiến tranh thế giới thứ 2 sắp đến hồi kết
thúc. Năm 1944, 730 đại diện cho 44

nước đồng minh đến dự hội nghị tài
chính-tiền tệ liên hiệp quốc tổ chức tại
khách sạn Mount Washington, New
Hampshire, Mỹ. Nhằm xây dựng một thế
giới hòa bình và ổn định sau chiến tranh,
các nhà lãnh đạo đã thống nhất với nhau
những vấn đề chính và từ đó cho ra đời hệ
thống tiền tệ quốc tế mới: hệ thống
Bretton Woods.









Hoa Kì lúc đó đóng góp một nửa năng lực sản xuất của thế giới và hơn
75% dự trữ vàng, các nhà lãnh đạo quyết định thiết lập hệ thống tiền tệ
quốc tế là chế độ tỷ giá cố dịnh nhưng có thể điều tiết. Mỗi đồng tiền quốc
gia được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép giao động
trong biên độ ±1%. Trong khi đồng dollar được cố định với vàng với tỉ lệ
35 dollar = 1 ouce vàng. Thực chất, hệ thống tiền tệ thế giới mới cũng
giống như hệ thống bản vị vàng nhưng đồng dollar được dùng làm đồng
tiền quốc tế thay cho vàng.
Tháng 3 năm 1947, khi chế độ Bretton Woods chính thức được đưa vào
hoạt động, nhìn chung các đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi. Các nước
rơi vào tình trạng thiếu hụt lớn lượng dollar cần thiết trong khi cán cân
thương mại của Mỹ lại thặng dư lớn. Các ngân hàng trung ương trên thế

giới, đặc biệt là khu vực châu Âu, đều không có đủ lượng dự trữ dollar cần
thiết. Để Bretton Woods được hoạt động, Mỹ phải có trách nhiệm đưa đồng
dollar được sử dụng trên toàn cầu.
Từ 1947 đến 1958, USD được đưa ra thế giới dưới dạng những chương
trình hỗ trợ kinh tế của Mỹ
Cuối những năm 60, . Lòng tin vào dollar Mỹ bị giảm sút. Các ngân hàng
trung ương bắt đầu chuyển dần dự trữ sang vàng, lượng vàng của nước Mỹ
liên tục bị chảy ra khỏi biên giới.


Tỷ lệ “vàng/USD” của Mỹ

Năm

Tỷ lệ “vàng/USD”

Năm

Tỷ lệ “vàng/USD”

1950

2.72

0.58

1952

2.38


0.5

1954

1.84

0.41

1956

1.59

0.31

1958

1.34

0.16

1960

0.92

0.14

1962

0.71


0.22




Thêm vào đó là việc đầu cơ khốc liệt đồng dollar đã gia tăng áp lực buộc tổng thống Mỹ Nixon phải chính thức
tuyên bố đồng dollar không được tiếp tục chuyển đổi sang vàng nữa vào ngày 15 tháng 8 năm 1971. Sau đó, các nước
đã nỗ lực phục hồi Bretton Woods nhưng đều thất bại. Ngày 19 tháng 3 năm 1973, khi thị trường ngoại hối mở cửa
giao dịch trở lại thì đồng tiền các nước châu Âu đã liên kết cùng thả nổi đối với đồng USD. Bretton Woods chính thức
sụp đổ.



Chế độ Bretton Woods đã đưa đồng dollar trở thành đồng tiền trao đổi quốc tế, sau chiến tranh, nhiều nước, đặc
biệt là khu vực Tây Âu có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu từ Mỹ trang thiết bị máy móc, nguyên vật liệu phục vụ cho
công cuộc tái thiết nền kinh tế. Nhờ đó, thương mại của Mỹ ngày càng mở rộng làm tăng phạm vị sử dụng USD.


IV.Đồng dollar trong thời kì hậu chế độ Bretton Woods


Tháng 3 năm 1973, các quốc gia lớn nhất thế giới ngồi lại với nhau tại thủ đô Washington và tất cả
đồng ý cho phép đồng tiền của họ lưu hành tự do qua lại lẫn nhau. Một chỉ số mới sinh ra để do giá trị đồng
USD là chỉ số USD (USD index). Chỉ số USD đo tương quan của đồng USD so với 6 loại tiền tệ lớn khác
trên thế giới đó là đồng Euro(EUR), đồng yên Nhật (JPY), đồng bảng Anh (GBP), đồng USD Canada
(CAD), đồng franc Pháp (F??) và đồng Sek (SEK) Thụy Điển. chỉ số USD cho biết diễn biến về thay đổi giá
trị của đồng USD đối với các loại tiền tệ khác. Chỉ số USD(USDX) thể hiện được điều này thông qua mối
tương quan đối với 6 loại tiền tệ lớn khác trong rổ tiền tệ.



Biểu đồ chỉ số USD từ năm 1973-2010

Từ năm 1973 đến nay, USD index biến đổi liên tục đáng chú ý nhất là giai đoạn tăng giá mạnh 1980-1985, giai đoạn sụt giảm liên tục
2002-nay


IV.I.Giá trị đồng dollar giai đoạn 1980-1985



Trong khoàng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng USD không ngừng tăng giá. Tỷ giá danh
nghĩa cũng như tỷ giá thực của USD tăng gần 50%.



Nguyên nhân chính khiến cho đồng USD tăng giá mạnh mẽ là do chính sách vĩ mổ của Mỹ và các nước châu Âu
được điều chỉnh khác nhau. Các ngân hàng châu Âu áp dụng chính sách thắt chặt đồng thời cả tiền tệ lẫn tài khóa.
Trong khi đó, Mỹ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng nới lỏng tài khóa. Kết quả là thâm hụt ngân sách tăng từ
$16 tỷ năm 1979 lên đến $204 tỷ năm 1986. Chính sách mở rộng tài khóa quá mức làm cho mức lãi suất thực của Mỹ
cao hơn của châu Âu, dẫn đến luồng vốn đổ vào Mỹ ngày càng lớn. Nhờ đó, giá trị của đồng USD ngày càng được
nâng cao.




Tháng 5 năm 1985, hiệp định Plaza được hình thành. Nội dung của hiệp định nói lên rằng tỷ giá của USD không
phản ành đúng thay đổi của các thông số kinh tế cơ bản. Chính phủ Mỹ cam kết sẽ giảm thâm hụt ngân sách và Nhật
sẽ tìm kiếm các biện pháp kích cầu nền kinh tế. Các nước cam kết hợp tác với nhau chặt chẽ hơn nữa để khiến cho
USD tiếp tục giảm giá. Để làm được điều này, các chính phủ mua mark, yên vào và bán dollar ra.




Sau hiệp định Plaza, dollar giảm giá liên tục theo chiều thằng đứng trong suốt năm 1986. Giá trị dollar giảm nhanh
đến mức năm 1987, các nước G-7 tiến hành họp tại Paris công bố hiệp định Louvre. Trong hiệp định, các nước đặt ra
mục tiêu duy trì sự giao động tỷ giá USD với mark và yên trong biên độ 5%. Tuy nhiên, thảo thuận này không được
công bố.



Sau hiệp đinh Louvre, tỷ giá được duy trì tương đối ổn định


×