Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thực tiễn hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính chất quốc tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.29 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ………………………………………………………………….1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………………….1
I.

Lí Luận chung………………………………………………………...1

1. Định nghĩa tội phạm có tính chất quốc tế........................................................1
2. Vấn đề về hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm………………………...1
II. Thực tiễn hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính chất quốc
tếcủa Việt Nam…………………………………………………………..2
1. Thực tiễn hợp tác quốc tế về dẫn độ………………………………………...2
2. Thực tiễn hợp tác quốc tế trong việc chuyển giao người bị kết án………….4
3. Thực tiễn trong hợp tác quốc tế trong tương trợ tư pháp về hình sự………..4
4. Thực tiễn trong hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin……………………….5
III. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính chất quốc
tế…………………………………………………………………………..6
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………….7
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………..…………8

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế một cách đa dạng, quá trình hội
nhập của các quốc gia là một tất yếu khách quan nó tạo điều kiện để các quốc gia có thể
giao lưu trong các lĩnh vực khác nhau như : chính trị, văn hóa, kinh tế…Vì vậy mà sự
dịch chuyển hàng hóa, sức lao động, tiền tệ qua biên giới quốc gia trên quy mô lớn đã
tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tội phạm trở nên phức tạp hơn rất nhiều đã đe dọa
nghiêm trọng đến sự ổn định thế giới, khu vực và Việt Nam nói riêng.Vì thế buộc các


nước phải có sự hợp tác để cùng nhau thực hiện phòng chống tội phạm hiệu quả. Việc
hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm hiện nay ở nước ta trong giai đoạn hiện này là
yêu cầu tất yếu và quan trọng.Để hiểu rõ hơn vấn đề, trong phạm vi bài viết nhóm em
xin trình bày về ‘Thực tiễn hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính
chất quốc tế của Việt Nam’.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Lý luận chung :
1. Định nghĩa tội phạm có tính chất quốc tế :
Tội phạm có tính chất quốc tế là tội phạm hình sự chung mà hành vi phạm tội
xâm hại tới không chỉ trật tự pháp lý quốc gia mà cả lợi ích của toàn thể cộng đồng quốc
tế. Cấu thành tội phạm có chưa đựng yếu tố nước ngoài ngày càng có tính tổ chức và
tính quốc tế hóa cao, được luật quốc tế định danh trong điều ước quốc tế nhưng thẩm
quyền xét xử thuộc về quốc gia và theo luật hình sự quốc gia.
Thuộc nhóm tội phạm này là cướp biển, khủng bố quốc tế, tội phạm làm tiền giả,
tội buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, tội buôn bán nô lê, tội buôn
bán phụ nữ và trẻ em vv…
2. Vấn đề về hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm :
Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (TTHS) có ý nghĩa quan trọng về chính trị xã hội cũng như pháp lý, góp phần thể chế hoá và thực hiện đường lối đối ngoại đa
phương hoá, đa dạng hoá, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế đã được ghi nhận trong
các Văn kiện của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị đã xác định: “Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta
đã tham gia. Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp (TTTP) với các nước khác,
trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực… Tăng cường sự phối hợp
chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và
khủng bố”… Tiếp đó, ngày 22/10/2010, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW
2


về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình

hình mới, trong đó nhấn mạnh: “Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác phòng,
chống tội phạm, trước hết là với các nước láng giềng, các nước có quan hệ truyền thống,
các nước trong khu vực ASEAN. Tổ chức thực hiện tốt các công ước quốc tế, hiệp định
TTTP, hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia
nhập. Tiếp tục nghiên cứu tham gia, ký kết các điều ước quốc tế khác liên quan đến
công tác phòng, chống tội phạm”(1).
Trên bình diện pháp lý, hợp tác quốc tế trong TTHS góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội phạm có yếu tố nước ngoài nói riêng. Thông qua hợp tác
quốc tế trong TTHS góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án đối với các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá hiện nay. Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2003 (BLTTHS năm 2003), lần đầu tiên Nhà nước ta quy định về hợp tác
quốc tế trong TTHS, gồm 2 chương (Chương 36, 37) với 7 điều (từ Điều 340 đến Điều
346). Tiếp đó, ngày 21/12/2007, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật TTTP, gồm 7
chương với 72 điều, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2008. Luật đã thể chế hoá chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, quan điểm của Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung, hợp tác quốc tế trong TTHS nói riêng. Luật TTTP được ban hành
đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các cơ quan chức năng của Việt Nam hợp tác với
các đối tác nước ngoài thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong TTHS như: TTTP
về hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, góp phần phục vụ
yêu cầu tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ trên mọi lĩnh vực với các
quốc gia trên thế giới của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
II. Thực tiễn hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính chất quốc tế
của Việt Nam :
1.Thực tiễn hợp tác quốc tế về dẫn độ
Dẫn độ
Theo quy định tại Điều 343 của BLTTHS năm 2003, có thể hiểu dẫn độ là việc một
nước chuyển giao cho nước khác công dân của nước được chuyển giao đang có mặt trên
lãnh thổ nước mình, mà người đó đã có hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền truy cứu
trách nhiệm hình sự của nước được chuyển giao; hoặc đã bị Toà án của nước được

chuyển giao kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật để nước được chuyển giao truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người đó.
Các đặc điểm nêu trên là căn cứ để phân biệt dẫn độ với các hình thức TTTP về hình
sự khác hoặc các biện pháp hợp tác phòng, chống tội phạm như “chuyển giao người bị
kết án”, “trục xuất”, “đẩy trả” “giao nộp”, “áp giải”, “dẫn giải”, “bắt cóc”, “chuyển giao
3


đặc biệt”, “chuyển giao người bị kết án”. Trong thực tế, việc phân biệt các khái niệm
này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho các cơ quan hữu quan có thể áp dụng những thủ
tục, biện pháp phù hợp trong hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm.
Về nguyên tắc, dẫn độ phải tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế
nhưng khi xem xét yêu cầu dẫn độ, các quốc gia thường cân nhắc và áp dụng một số
nguyên tắc phổ biến hình thành trong thực tiễn TTTP hình sự về dẫn độ, quy định trong
nội luật của các quốc gia và các điều ước quốc tế về dẫn độ, hoặc theo cơ chế đơn giản
hoá thủ tục dẫn độ giữa các quốc gia liên quan. Các nguyên tắc này được hình thành từ
những đặc điểm của dẫn độ nên có những nguyên tắc đặc thù như: nguyên tắc tội phạm
kép, không dẫn độ công dân nước mình, nguyên tắc “đặc biệt” (specialty), nguyên tắc
không dẫn độ tội phạm chính trị, không dẫn độ tội phạm bị kết án tử hình.
Tại Điều 343 của BLTTHS năm 2003 cũng chỉ quy định một cách nguyên tắc về
việc dẫn độ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước ta. Hiện nay, vẫn
chưa có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa hoặc hướng dẫn các cơ quan thực hiện
yêu cầu dẫn độ từ phía nước ngoài cũng như việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phía
nước ngoài dẫn độ người có hành vi phạm tội về Việt Nam để truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc thi hành bản án hình sự đã có hiệu lực.
Thực tiễn
Các hoạt động dẫn độ được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam mà đặc biệt là sự đóng góp của Văn phòng INTERPOL Việt Nam đã khẳng định
được vai trò quan trọng của Việt Nam trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm
qua các vụ việc điểm hình như: vụ việc lực lượng an ninh Việt Nam phối hợp với phía

Trung Quốc dẫn độ nguyên đại tá Lê Quốc Thuỵ về nước để xét xử, các vụ việc tại Hải
Phòng, TP. Hồ Chí Minh....
Bộ Công an đã nhận được yêu cầu truy bắt 120 đối tượng truy nã của nước ngoài
bỏ trốn vào Việt Nam và hơn 90 đối tượng truy nã của Việt Nam bỏ trốn ra nước ngoài;
phối hợp với nước ngoài bắt giữ 38 đối tượng truy nã, trong đó đã bắt giữ, đưa về Việt
Nam 11 đối tượng phạm tội tại Việt Nam trốn ra nước ngoài và bắt giữ, bàn giao cho
nước ngoài 27 đối tượng phạm tội tại nước ngoài vào Việt Nam lẩn trốn.
Việc bắt giữ, chuyển giao và tiếp nhận các đối tượng phạm tội hiện vẫn chủ yếu
thực hiện qua kênh hợp tác Interpol và Aseanapol.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam về dẫn độ là chưa cao
và chưa phản ảnh đúng nhu cầu dẫn độ giữa Việt Nam với các nước:
Thứ nhất, Việt Nam chưa có được một văn bản riêng quy định về dẫn độ mà các
quy định về dẫn độ chỉ nằm trong các văn bản luật khác (Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003,
Luật Tương trợ Tư pháp 2007);

4


Thứ hai, việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tương trợ Tư pháp
còn chậm;
Thứ ba, nhiều Hiệp định được ký kết trước khi Luật Tương trợ Tư pháp 2007 được
ban hành đã thể hiện sự không phù hợp với quy định của Luật Tương trợ Tư pháp 2007
nhưng chưa thể đàm phán sửa đổi;
Thứ tư, chế độ, chính sách, kinh phí, trang thiết bị cho các hoạt động về tương trợ
tư pháp nói chung và về dẫn độ nói riêng còn rất hạn hẹp;
Thứ năm, đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động dẫn độ tội phạm còn hạn chế về số
lượng và khả năng làm việc;
2.Thực tiễn hợp tác quốc tế trong chuyển giao người bị kết án.
Chuyển giao người bị kết án
Việc bắt giữ, chuyển giao và tiếp nhận các đối tượng phạm tội hiện vẫn chủ yếu thực

hiện qua kênh hợp tác Interpol và Aseanapol.
Thực tiễn
Bộ Công an đã lập hồ sơ chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để xem
xét và ra Quyết định chuyển giao 02 phạm nhân mang quốc tịch Anh hiện đang chấp
hành hình phạt tù tại Việt Nam về Vương quốc Anh để tiếp tục chấp hành án. Hiện nay,
phía Anh đang tiến hành làm thủ tục để thống nhất thời gian, địa điểm chuyển giao.
Bộ Công an cũng đã tiếp nhận nhiều đề nghị chuyển giao người đang chấp hành
hình phạt tù, trong đó chủ yếu là tiếp nhận yêu cầu của Đại sứ quán các nước Ôxtrâylia,
Hàn Quốc, Anh, Pháp, Thái Lan và Lào.
3. Thực tiễn hợp tác quốc tế trong tương trợ tư pháp về hình sự
3.1. Tương trợ tư pháp về hình sự
Theo quy định tại Điều 341 của BLTTHS năm 2003, thì khi thực hiện TTTP, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Việt
Nam áp dụng những quy định của điều ước quốc tế có liên quan mà nước CHXHCN
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của BLTTHS năm 2003.
Đối với các quốc gia mà Nhà nước ta chưa ký kết hiệp định TTTP, chưa ký kết
hoặc gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong TTHS
được thực hiện trên nguyên tắc có đi, có lại không trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam và pháp luật cũng như tập quán quốc tế.
Nội dung của TTTP phụ thuộc vào yêu cầu TTTP của bên hợp tác tương ứng trên
cơ sở điều ước quốc tế ký kết hoặc gia nhập. Thực tiễn ký kết các hiệp định TTTP giữa
Việt Nam với các nước cho thấy, nội dung TTTP trong TTHS thường bao gồm: tiến
hành truy cứu trách nhiệm hình sự; dẫn độ để xét xử hoặc thi hành án; thực hiện các
hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, lấy lời khai, thực hiện khám xét, thu giữ…; cung
5


cấp thông tin, tài liệu, vật chứng, kết luận giám định; tống đạt giấy tờ, tài liệu tố tụng;
trợ giúp việc trình diện của cá nhân tại cơ quan tiến hành tố tụng của quốc gia yêu cầu;
các nội dung tương trợ khác không trái với pháp luật của các quốc gia yêu cầu và thực

hiện yêu cầu.
3.2. Thực tiễn
Theo tổng kết của Viện kiểm sát nhân dân tối cao với tư cách là cơ quan đầu mối
thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp trong lĩnh vực
này trong thời gian từ năm 2008 đến tháng 5/2011, cụ thể như sau:
- Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự của các cơ quan tư pháp nước
ngoài: Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận 164 hồ sơ yêu cầu TTTP đến từ 28
nước, đã thực hiện xong 102/164 yêu cầu TTTP từ nước ngoài, chiếm 62,2%, trong đó
các nước có nhiều yêu cầu là: Cộng hòa Séc 59 hồ sơ; Cộng hòa Ba Lan 19 hồ sơ; Cộng
hòa Liên bang Đức 08 hồ sơ; Liên bang Nga 06 hồ sơ.
Nội dung chủ yếu của các yêu cầu TTTP là chuyển giao để truy cứu trách nhiệm
hình sự, tống đạt tài liệu, thu thập, cung cấp chứng cứ; xác minh nhân thân, lý lịch... Các
yêu cầu TTTP về hình sự ngày càng đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực và
tội phạm nghiêm trọng như giết người, buôn bán ma túy, tội phạm tham nhũng, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, rửa tiền ...
- Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng Việt Nam
cho nước ngoài: Theo thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đối với các yêu cầu
TTTP về hình sự của Việt Nam ủy thác tư pháp ra nước ngoài, từ năm 2008 đến hết
tháng 5/2011, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận 33 hồ sơ; trong đó đã chuyển
28 hồ sơ đến các cơ quan có thẩm quyền của 18 nước được yêu cầu để giải quyết; có 05
hồ sơ lập chưa đúng yêu cầu, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hướng dẫn cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam lập lại hồ sơ nhưng chưa nhận được hồ sơ mới.
Đến nay, trong số 28 hồ sơ đã chuyển đi, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện
được 15/28 có kết quả, chiếm 53,6%
4. Thực tiễn hợp tác quốc tế về trao đổi thông tin
Trao đổi thông tin
Việc trao đổi thông tin chủ yếu thực hiện qua kênh hợp tác Interpol và Aseanapol
Thực tiễn
Tổng kết hoạt động từ năm 2007 đến nay cho thấy, cơ quan tiến hành tố tụng
trong Công an nhân dân Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý hơn 9.600 lượt thông tin liên

quan đến phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài, làm rõ hàng trăm vụ án hình sự,
các đường dây buôn bán ma tuý, buôn bán phụ nữ xuyên quốc gia; phát hiện ngăn chặn
hàng trăm vụ lừa đảo, xác minh làm rõ nhiều vụ việc đối tượng là người nước ngoài
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài có liên quan đến hoạt động phạm tội, trong
đó cập nhật thông tin gần 170 đối tượng truy nã quốc tế, trong đó có 124 đối tượng Việt
6


Nam nghi trốn ra nước ngoài và 45 đối tượng nước ngoài nghi trốn vào Việt Nam; tổ
chức giải cứu hàng chục nạn nhân bị lừa bán ra nước ngoài.
Những quốc gia thường xuyên có yêu cầu truy nã các đối tượng phạm tội bỏ trốn
vẫn là các quốc gia mà cộng đồng người Việt làm ăn sinh sống, việc quản lý còn rất
phức tạp, như Mỹ, Cộng hoà Séc, Canada, Cộng hoà Liên bang Đức, Nga, Australia...
hoặc các nước mà điều kiện đi lại giữa Việt Nam và nước đó dễ dàng như Đài Loan
(Trung Quốc), Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan... đặc biệt là Đài Loan (Trung Quốc)
và Hàn Quốc (chiếm gần 40% số đối tượng mà các quốc gia yêu cầu).
Các đối tượng sau khi phạm tội ở nước ngoài đã tìm cách vào Việt Nam theo
nhiều con đường khác nhau, dưới nhiều hình thức khác nhau cả hợp pháp và bất hợp
pháp như đi du lịch, đầu tư, làm ăn kinh tế, thăm thân... Địa bàn lẩn trốn của các đối
tượng truy nã thường là các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng... hoặc các tỉnh phía Nam Việt Nam nơi có nhiều người nước ngoài làm ăn sinh
sống. Phần lớn các đối tượng phạm tội hình sự nguy hiểm như giết người, cướp tài sản,
… đều sử dụng giấy tờ, hộ chiếu giả hoặc thay đổi họ tên khi nhập cảnh Việt Nam để
lẩn trốn sự truy tìm của cơ quan chức năng Việt Nam. Ngoài ra, các đối tượng cũng
thường xuyên thay đổi nơi ẩn náu để trốn tránh sự truy tìm của Cảnh sát Việt Nam, đặc
biệt là trong trường hợp các đối tượng là Việt kiều.
Qua thực tế công tác đấu tranh, cho thấy: trong những năm gần đây xuất hiện nhiều
vụ việc các đối tượng truy nã từ nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là các đối tượng
mang quốc tịch Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, các đối tượng là Việt kiều Mỹ,
Anh… có hoạt động câu kết với tội phạm ở trong nước để lẩn trốn hoặc tiếp tục thực

hiện hành vi phạm tội.
III/ Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự có tính chất quốc
tế:
Thứ nhất, phải tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế, phối hợp chặt chẽ với các
nước láng giềng. Tăng cường hội nhập quốc tế về lĩnh vực phòng, chống tội phạm, nhất
là lĩnh vực tương trợ tư pháp hình sự, dẫn độ bảo đảm chủ động phòng ngừa và hợp tác
có hiệu quả trong đấu tranh trấn áp tội phạm xuyên quốc gia ở Việt Nam. Tăng cường
việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế đa phương, song phương về phòng, chống tội
phạm xuyên quốc gia.
Thứ hai, phải tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật để nâng cao
hiệu quả cao nhất trong việc phòng chống tội buôn bán phụ nữ - trẻ em, ma túy, khủng
bố.
Thứ ba, kiện toàn hành lang pháp lý. Hệ thống pháp luật trong nước ngày một
hoàn thiện, nhưng chưa thực sự đồng bộ, chưa thay đổi kịp so với những diễn biến và sự
7


phát triển của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; chưa tạo được hành lang pháp lý thật
sự thuận lợi cho các lực lượng thi hành pháp luật trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy cần
kiến nghị để các cơ quan lập pháp sửa đổi bổ sung nhằm kiện toàn hành lang pháp lý
giúp nâng cao hiệu quả đấu tranh và phòng ngừa tội phạm có tính quốc tế này.
Tiếp tục bổ sung hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, đảm bảo thực hiện có hiệu quả Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
Nhà nước cần sớm ban hành Luật đấu tranh chống tội phạm có tổ chức như nhiều
nước đã làm, trong đó cần có những biện pháp trừng trị những kẻ là thành viên của các
tổ chức tội phạm, dù mới chỉ tham gia tổ chức, chưa trực tiếp thực hiện những hành vi
phạm tội. Đây là công cụ hữu hiệu nhất vừa để phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện
nhen nhóm câu kết thành những băng nhóm với mục đích phạm tội. vừa để trừng trị một

cách nghiêm khắc những kẻ cố tình tham gia tổ chức, những kẻ cầm đầu, chỉ huy mà
khó tìm thấy chứng cứ phạm tội của chúng.
Thứ tư, cần hỗ trợ, quản lý chặt chẽ các đối tượng và nạn nhân sau khi trở về.
Thứ năm, phải có sự phối hợp của các cấp các ngành trong việc phòng chống tội
phạm buôn bán phụ nữ-trẻ em,ma túy, khủng bố.
Thứ sáu, cần hành động thiết thực hơn về vấn đề phòng đi đôi với chống tội phạm
ma tú, mua bán phụ nữ-trẻ em, khủng bố.
Thứ bảy, phải thực hiện nhiều chính sách tổng hợp đi đôi với nhau để nâng cao
hiệu quả cao nhất trong việc phòng chống tội phạm.
Thứ tám, cần tập trung đào tạo lực lượng chuyên trách có chiều sâu và đồng bộ.
KẾT LUẬN
Trong những năm tới đây dự báo tình hình tội phạm có tính chất quốc tế sẽ ngày
càng hoạt động phức tạp hơn, chính vì thế nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm có tính
chất quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay có tầm quan trọng
rất lớn, muốn làm được điều đó, chúng ta phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác đấu
tranh phòng chống tội phạm này, góp phần bảo đảm sự ổn định và phát triển đất nước.

8


Tài liệu tham khảo
Nguồn:
- Dẫn độ tội phạm trong Luật quốc tế và liên hệ
thực tiễn Việt Nam, Hà Thanh Hòa, Luận văn ThS, Khoa Luật, Năm 2012.
-Giáo trình luật quốc tế, trường DHL hà nội, Nxb công an nhân dân
- Lê Mai Anh & Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2001.
- Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. ĐHQG, Hà Nội,
1997.
Wedside:

Sinhvienluat.vn
Café.luathoc.vn

và các tài liệu khác……..

9



×