Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.88 KB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Niên khóa (2009-2013)
ĐỀ TÀI:

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền
Bộ môn: Luật tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Neáng Sóc Thônh
MSSV: 5095470
Lớp: Luật Tư Pháp 2-K35

Cần Thơ, Tháng 05/2013


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………..


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................................1

3. Phạm vi nghiên cứu ...............................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................2
5. Bố cục luận văn .....................................................................................................2
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra ........................................................................................................3
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng .............................3
1.1.2. Khái niệm nhà cửa, công trình xây dựng ...........................................................5
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
ra ................................................................................................................................6
1.2. So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ và súc vật gây ra
....................................................................................................................................9
1.3. Lược sử hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà
cửa, công trình xây dựng gây ra .............................................................................11
1.3.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra thời Lê,
Nguyễn ......................................................................................................................11
1.3.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra trong
thời kỳ Pháp thuộc ....................................................................................................13
1.3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra sau Cách
mạng tháng tám năm 1945 đến nay ...........................................................................15
1.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra theo
pháp luật dân sự của một số nước ..........................................................................17
1.5. Ý nghĩa của quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra .....................................................................................19
Chương 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
GÂY RA
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây

dựng gây ra ..............................................................................................................21
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra ...........................................................................................21


2.1.2. Có hành vi trái pháp luật..................................................................................23
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa sự tác động của nhà cửa, công trình xây dựng đối
với thiệt hại xảy ra ....................................................................................................24
2.1.4. Có lỗi của chủ sở hữu, người được giao quản lý, trông coi nhà cửa, công trình xây
dựng...........................................................................................................................25
2.2. Năng lực bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra ........ 26
2.3. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra ..............................................................................................................28
2.3.1. Chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng ...................................................................................................................28
2.3.2. Chủ sở hữu giao nhà cửa, công trình xây dựng cho người khác quản lý, sử dụng
..................................................................................................................................29
2.3.2.1. Chủ sở hữu là Nhà nước giao tài sản thuộc sở hữu nhà nước là nhà cửa, công
trình xây dựng khác cho một số chủ thể là các cơ quan, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình
quản lý và khai thác sử dụng..................................................................................... 29
2.3.2.2. Chủ sở hữu là cộng đồng dân cư giao tài sản thuộc sở hữu cộng đồng là nhà cửa,
công trình xây dựng khác cho những chủ thể khác quản lý, sử dụng .........................29
2.3.2.3. Chủ sở hữu uỷ quyền cho người khác quản lý, trông coi nhà cửa, công trình xây
dựng khác cho mình ..................................................................................................30
2.3.2.4. Chủ sở hữu cho người khác thuê, mượn nhà cửa, công trình xây dựng ........31
2.3.2.5. Trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng bị người khác chiếm hữu bất hợp pháp
................................................................................................................................. 31
2.4. Xác định thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra ...........................32
2.4.1. Xác định thiệt hại về vật chất do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra..........32
2.4.1.1. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm ..................................................................32
2.4.1.2. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm ..............................................................33

2.4.1.3. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm .............................................................36
2.4.2. Xác định thiệt hại về tinh thần do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra .......37
2.4.2.1. Thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm ........................................37
2.4.2.2. Thiệt hại về tinh thần do sức tính mạng bị xâm phạm ...............................38
2.5. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra ....39
2.5.1. Nguyên tắc bồi thường theo thỏa thuận ...........................................................40
2.5.2. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời ......................................................40
2.5.3. Nguyên tắc giảm mức bồi thường ....................................................................41
2.6. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra
..................................................................................................................................42


2.7. Những trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp
luật ...........................................................................................................................43
2.7.1. Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng .......................................................44
2.7.2. Thiệt hại hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại .............................................44
2.8. Thủ tục giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra .......................................................................................................45
Chương 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT - MỘT SÔ BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
3.1. Thực tế giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra......................................................................................51
3.2. Một số bất cập từ quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra và kiến nghị ............................................56
3.2.1. Về mặt nội dụng tại điều 627 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra......................................................................................56
3.2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra........................................................................................................58
3.2.3. Khó khăn trong khâu giám định thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
ra...............................................................................................................................64

KẾT LUẬN


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thị trường, của khoa học kỹ thuật hiện
đại đã đem đến cho con người những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, mặt trái của nó là kéo
theo sự gia tăng các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều
khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người
trong xã hội. Trong đó, nhà cửa, công trình xây dựng là những tài sản tưởng chừng như
chúng có giá trị mang lại cho con người những lợi ích nhất định nhưng chúng cũng là
những nguồn gây thiệt hại đáng kể cho những người xung quanh. Do đó, việc yêu cầu bồi
thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra luôn là một vấn đề phổ biến.
Hiện nay, phần lớn các tranh chấp thường rất phức tạp và kéo dài. Đối với những thiệt hại
không lớn thì các bên có thể tự thỏa thuận được nhưng nếu thiệt hại quá lớn các bên khó
có thể tự thỏa thuận giải quyết được thì đều nhờ đến Tòa án để giải quyết.
Tuy nhiên, về mặt pháp lý thì vấn đề về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng gây ra chỉ được các nhà làm luật dự liệu rất “khiêm tốn”, chỉ trong một
điều luật, đó là điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 và không có văn bản hướng dẫn, giải
thích chi tiết. Điều đó dẫn tới sự thiếu cụ thể, không rõ ràng, chỉ được hiểu như một
nguyên tắc, vì thế gây khó khăn không nhỏ cho những người làm công tác thực tiễn.
Từ những lý do nêu trên, người viết đã chon đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra” để làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn của những quy định của pháp luật
về loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra. Tìm hiểu
quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật liên quan về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây đựng gây ra, qua đó, đối chiếu, so sánh giữa
quy định của pháp luật với thực tiễn về loại trách nhiệm này. Từ đó, đưa ra các kiến nghị,
đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra, góp phần bảo đảm việc nhận thức và áp dụng
quy định của pháp luật được thống nhất trong thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ tên đề tài “trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra” do đó phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào những thiệt hại xảy ra
chủ yếu là do sự tác động của chính nhà cửa, công trình xây dựng gây ra. Chẳng hạn,
trường hợp nhà cửa, công trình xây dựng đã lâu mà không được sửa chữa, phá vỡ, nâng
cấp kịp thời nên bị sụp đổ gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác hoặc
trường hợp công trình xây dựng đang xây dựng gây thiệt hại cho các công trình liền kề
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

1

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

như làm nghiêng lún, nứt tường,… Qua đó, làm sáng tỏ một số vấn đề như sau: căn cứ
phát sinh, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường, xác định thiệt hại, thủ tục giải quyết,...
Căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về loại trách
nhiệm này, những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu về đề tài này, người viết đã sử dụng một số phương pháp như:
phương pháp sưu tầm tài liệu, phương pháp phân tích luật và phân tích các tài liệu sưu
tầm, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu.
5. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì luận văn gồm
có ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1- Lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng gây ra
Chương 2- Những quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra
Chương 3- Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật – Một số bất cập và hướng
hoàn thiện.
 Do thời gian nghiên cứu và trình độ chuyên môn và kiến thức thực tiễn của tác
giả còn hạn chế, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự
góp ý của quý thầy cô để đề tài luận văn được hoàn thiện hơn. Tác giả xin chân thành
cảm ơn!

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

2

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

Chương 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
NHÀ CỬA, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG GÂY RA
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh

hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân”1; “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm”2. Từ quy định trên,
quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác luôn được pháp
luật bảo vệ. Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta bao gồm nhiều ngành luật, mỗi ngành
luật có vai trò khác nhau trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Khi một chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới các quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ thì chủ thể gây thiệt hại có thể phải gánh
chịu hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi của mình gây ra. Dưới góc độ pháp luật dân sự,
hậu quả pháp lý đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hai do hành vi của mình gây ra cho
người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập rất sớm trong hệ thống pháp luật
của nước ta. Tuy nhiên, chỉ đến khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời thì các quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Tiếp đó, Bộ luật
dân sự năm 2005 hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Cụ thể, điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín tài sản của pháp nhân hoặc của các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy, theo quy định trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp
luật bảo vệ. Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt nếu pháp luật quy định người gây
thiệt hại phải bồi thường kể cả khi không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn

1
2


Điều 58, Hiến pháp năm 1992
Điều 71, Hiến pháp năm 1992

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

3

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

phát sinh kể cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại. Dưới góc độ khoa học pháp lý,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này được gọi là trách nhiệm nâng cao.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
loại trách nhiệm dân sự theo đó người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín tài sản của pháp nhân hoặc của các chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra.
Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng phát sinh trên
cở sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy
định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ
chức khác.
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại
trách nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi một người gây ra tổn
thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một

quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh và được quy định trong Bộ luật dân sự ở Điều
307 và Chương XXI và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự năm 2005.
- Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó
là3: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách
nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ điều kiện trên cụ thể là
trường hợp bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người
khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ,
pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề....
- Về hậu quả: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn mang đến
một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn
thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp
luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực hiện được
3

Mục 1, phần I, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 hướng dẫn một số quy định của Bộ luật
dân sự 2005

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

4

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra


việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được
nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho
người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi
phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
- Về mức bồi thường: bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là
người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời thiệt hại xảy ra. Các bên chủ thể
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể tự do thỏa thuận về mức bồi thường, hình
thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường nột lần hoặc nhiều lần. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường hợp đặc
biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh
tế trước mắt và lâu dài của họ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không chỉ nhằm bảo đảm việc
đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ
tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
1.1.2. Khái niệm nhà cửa, công trình xây dựng
Trong những năm gần đây cùng với tốc độ phát triển của các đô thị, đặc biệt là ở
các thành phố lớn việc đầu tư xây dựng các công trình nhà cao tầng phát triển khá nhanh.
Đây là những tài sản có giá trị, mang lại cho người sử dụng những lợi ích to lớn, nhưng
cũng là những nguồn gây thiệt hại đáng kể cho những người xung quanh. Vì vậy trước
khi tìm hiểu về trách nhiêm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra
thì trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm nhà cửa, công trình xây dựng trong
trường hợp này được hiểu như thế nào.
Luật xây dựng năm 2005 quy định: “Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo
thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt công trình, được
liên kết định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới
mặt nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao
gồm công trình xây dựng công cộng, nhà ở, công trình xây dựng công nghiệp, giao thông,
thủy lợi, năng lượng và các công trình xây dựng khác”4.
Bên cạnh đó, theo Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2013 về

quản lý chất lượng công trình xây dựng thì công trình xây dựng bao gồm các loại công
trình như sau5: công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình giao thông, công
trình nông nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật. Trong đó6:
- Công trình dân dụng bao gồm:
+ Nhà ở gồm có: nhà chung cư và nhà ở riêng lẻ
4

Điều 3 khoản 2 Luật xây dựng năm 2005
Khoản 1, Điều 6, Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2013 về Quản lý chất lượng công trình xây
dựng
6
Phụ lục phân loại công trình (ban hành kèm theo Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2013 của
Chính Phủ).
5

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

5

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

+ Công trình công cộng gồm có: công trình giáo dục; công trình y tế; công
trình thể thao; công trình văn hóa; công trình thương mại và dịch vụ; công trình thông tin,
truyền thông; nhà ga; nhà đa năng, khách sạn, kí túc xá, nhà khách, nhà nghỉ; trụ sở cơ
quan hành chính của nhà nước; trụ sở làm việc của các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp,
các tổ chức chính trị xã hội và tổ chức khác.
- Công trình công nghiệp gồm có: công trình sản xuất vật liệu xây dựng; công

trình khai thác than, quặng; công trình công nghiệp dầu khí; công trình công nghiệp nặng;
công trình năng lượng; công trình công nghiệp hóa chất và hóa dầu; công trình công
nghiệp nhẹ; công trình công nghiệp chế biến thủy sản và đồ hộp.
- Công trình giao thông bao gồm: công trình đường bộ; công trình đường sắt;
công trình đường thủy; cầu; hầm; sân bay.
- Công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn gồm: công trình thủy lợi, công
trình lâm nghiệp, diêm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi.
- Công trình hạ tầng kỹ thuật gồm: công trình cấp nước, thoát nước; công trình
xử lý rác thải; công trình khác.
Tóm lại, từ những định nghĩa được căn cứ từ luật chuyên ngành ta có thể đưa ra
khái niệm về nhà cửa, công trình xây dựng như sau: Ngoài nhà cửa là công trình xây
dựng có tường vách dùng để ở hay dùng vào mục đích khác bao gồm nhà ở, nhà kho, nhà
tranh, nhà ngói… thì công trình xây dựng ở đây cũng được hiểu là một sản phẩm được
tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công
trình, được liên kết, định vị với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần dưới mặt
nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế như công trình dân dụng, công
trình công nghiệp, công trình giao thông, công trình thủy lợi, công trình công cộng,…
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng
gây ra
Theo quy định chung của pháp luật thì công dân và pháp nhân có quyền được
bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp…Trong Hiến pháp năm 1992 quy định “Công dân có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, vốn và tài
sản khác…, Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”7.
Bộ luật dân sự năm 2005 cũng ghi nhận: “cá nhân có quyền nhân thân gắn với tài sản và
quyền nhân thân không gắn với tài sản, quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác
đối với tài sản”8. Pháp luật luôn tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền được
hưởng lợi từ tài sản của các chủ sở hữu, nhưng đồng thời cũng đặt ra cho chủ sở hữu
những nghĩa vụ khi thực hiện các quyền năng pháp lý của họ. Như vậy pháp luật qui
định, khi tài sản của bất kỳ chủ sở hữu nào mà gây thiệt hại trái pháp luật cho chủ thể
7

8

Điều 58, Hiến pháp 1992
Điều 15, Bộ luật dân sự 2005

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

6

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

khác thì Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định nhằm mục đích khắc
phục những hậu quả xấu về tài sản và tinh thần, khôi phục lại tình trạng vốn có ban đầu
cho người bị thiệt hại. Việc khắc phục những tổn hại được áp dụng đối với người có hành
vi vi phạm nghĩa vụ gây ra chính là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trên thực tế, nhiều khi tài sản cũng có thể tự bản thân nó gây ra tổn hại cho người khác ví
dụ như nhà cửa, công trình xây dựng bị sụp đổ; cây cối bị đổ, gẫy; súc vật cắn, húc
người… Do vậy, ngoài trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
thì pháp luật còn quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Tuy
nhiên, trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 lại không có quy định
chung về khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây mà chỉ quy định ở các
trường hợp cụ thể như: bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra; bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra, bồi thường thiệt
hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Qua khái niệm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung ta có thể hiểu: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra là quy định của pháp luật dân sự mà khi áp dụng sẽ phát sinh một quan hệ
dân sự, theo đó chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao cho quản lý, chiếm hữu, sử dụng

tài sản mà để tài sản đó gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác thì
phải bồi thường thiệt hại”9.
Theo Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra được quy định như sau: “Chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng khác phải bồi
thường thiệt hại, nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị sụp đổ, hư hỏng, sụt lở
gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị
thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”. Do đó, từ quy định trên thì về nguyên tắc trách
nhiệm bồi thường sẽ thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu giao quản lý tài
sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm giữ tài sản đó, trừ trường
hợp thiệt hại xảy ra là do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.
Do nhà cửa, công trình xây dựng là một loại tài sản thuộc loại tài sản bất động
sản, có giá trị lớn. Như vậy, có thể dựa vào khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do tài sản gây ra và Điều 627 Bộ luật dân sự năm 2005 để xây dựng khái niệm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra cụ thể như sau: “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra là quy định của pháp
luật dân sự mà khi áp dụng sẽ phát sinh một quan hệ dân sự, theo đó chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao cho quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng đó nếu để nhà

9

TS. Trần Thị Huệ, Tổng quan về trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại . Vấn đề lý luận và thực tiễn,
Truy cập ngày 05/03/2013

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

7

SVTH: Neáng Sóc Thônh



Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

cửa, công trình xây dựng đó gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người khác
thì phải bồi thường thiệt hại ”.
 Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng
gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra là
một dạng cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp nói chung. Vì vậy, nó có
các đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, thiệt hại do nhà cửa công trình xây dựng gây ra chỉ bao gồm thiệt
hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy
tín. Ví dụ: Tường nhà anh A bị đổ xuống đè lên chị E khi chị đi qua làm chị E bị chết.
Trong trường hợp này, anh A phải bồi thường thiệt hại cho tính mạng của chị E và bồi
thường cho các con chị E một khoản bù đắp về tổn thất tinh thần khi chị E chết, riêng
thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín không được bồi thường.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra buộc
người gây thiệt hại phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản của mình nhằm khôi
phục tình trạng ban đầu hoặc bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra là kết
quả tất yếu khi nhà cửa, công trình xây dựng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại như
nhà cửa, công trình xây dựng bị sụp, đổ gây thiệt hại cho người khác,... Ví dụ: Tường xây
bao quanh nhà anh M do xây dựng quá lâu ngày nên tự đổ làm ông B bị thương.
- Lỗi được xem xét với tính chất là lỗi suy đoán, lỗi do sự quản lý, trông coi
không chặt chẽ của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa,
công trình xây dựng để nhà cửa, công trình xây dựng đó gây thiệt hại cho người khác.
1.2. So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
ra và trách nhệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
* Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
* Giống nhau

Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ bao gồm
thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng. Riêng thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín
không thuộc phạm vi tác động của hai loại trách nhiệm này.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra luôn mang lại hậu
quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại như khôi phục lại tình trạng ban đầu của
thiệt hại bằng biện pháp bồi thường. Đồng thời, có ý nghĩa giáo dục mọi người về ý thức
trong việc trông coi, quản lý tài sản,…

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

8

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi
có thiệt hại thực tế xảy ra.
Thứ tư, về đối tượng gây thiệt hại nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại ở hai
loại trách nhiệm này là do sự tự thân tác động của nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do chính
đối tượng là nhà cửa, công trình xây dựng gây ra chứ không phải do hành vi của con
người.
* Khác nhau
- Về căn cứ phát sinh:
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây thì
lỗi được xem xét có thể là lỗi suy đoán dù họ có lỗi vô ý hoặc cố ý.

Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vẫn phải bồi
thường thiệt hại cả khi không có lỗi. Về nguyên tắc chủ sở hữu, người được giao chiếm
hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau: thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi của người
bị thiệt hại; thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Về chủ thể chịu trách nhiệm:
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì
chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường bao gồm chủ sở hữu; người được chủ sở hữu
giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ; người chiếm hữu trái pháp luật nguồn
nguy hiểm cao độ; chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu trái pháp
luật.
Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra chỉ quy định
hai chủ thể chịu trách nhiệm đó là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử
dụng mà không quy định về người chiếm hữu trái pháp luật đối với nhà cửa, công trình
xây dựng. Có lẽ, do đây là những tài sản thuộc dạng bất động sản luôn đặt dưới sự quản
lý của chủ sở hữu nên việc chiếm hữu trái pháp rất ít xảy ra trên thực tế giống như nguồn
nguy hiểm cao độ là tài sản thuộc về động sản như: phương tiện giao thông cơ giới, vũ
khí, chất nổ,…Do đó, so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra thì chủ thể chịu trách nhiệm được quy định hẹp hơn.
- Về trường hợp được miễm trách nhiệm bồi thường:

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

9


SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có
ba trường hợp được miễm trách nhiệm bồi thường đó là: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi
của người bị thiệt hại, do sự kiện bất khả kháng, do tình thế cấp thiết.
Tuy nhiên đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng gây ra ghi nhận hai trường hợp được miễm trách nhiệm bồi thường: thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.
* Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
- Giống nhau
Tương tự như trên, thiêt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra và do súc vật
gây ra bao gồm: thiệt hại về sức khỏe, tài sản, tính mạng. Còn đối với thiệt hại về danh
dự, nhân phẩm, uy tín cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của hai loại trách nhiệm này.
Về hậu quả, cả hại loại trách nhiệm này luôn mang lại hậu quả bất lợi về tài sản
cho người gây thiệt hại như khôi phục lại tình trạng ban đầu của thiệt hại bằng biện pháp
bồi thường khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có ý nghĩa giáo dục mọi người về ý thức
trong việc trông coi, quản lý tài sản,…của mình.
Về nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại là do sự tự thân tác động của chính đối
tượng là súc vật hoặc nhà cửa, công trình xây dựng gây ra không phải do hành vi của con
người.
Về yếu tố lỗi, lỗi được xem xét trong hai loại trách nhiệm này là lỗi suy đoán.
Bởi vì, chủ sở hữu, người được giao quản lý luôn bị xem là có lỗi trong việc trông coi,
quản lý tài sản.
- Khác nhau
Về chủ thể chịu trách nhiệm:
+ Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây ra có hai chủ thể chịu trách nhiệm bao gồm: chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao

quản lý, sử dụng.
+ Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra thì luật chỉ quy
định duy nhất một chủ thể phải chịu trách nhiệm đó là chủ sở hữu. Tuy nhiên, điều luật
lại không quy định người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, quản lý đối với cây cối giống
như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra hoặc do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra. Nhưng trên thực tế thì việc chủ sở hữu giao cây cối cho
người khác quản lý là rất phổ biến, ví dụ: Nhà nước giao cây xanh công cộng cho cơ
quan khác quản lý,…Như vậy, có thể thấy chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường khi
cây cối gây ra hẹp hơn nhiều so với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng gây ra và do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

10

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

1.3. Lược sử hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà
cửa, công trình xây dựng gây ra
Trong lịch sử pháp luật thế giới, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
trong những chế định có sớm nhất của pháp luật dân sự. Trải qua các thời kì lịch sử và ở
những nước khác nhau, quy định về người phải bồi thường, cách thức bồi thường, thiệt
hại phải bồi thường cũng như mức bồi thường cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên, tất cả đều
hướng tới một nguyên tắc thống nhất là người gây ra thiệt hại phải bồi thường.
1.3.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra thời
Lê, Nguyễn
Bồi thường thiệt hại là một chế định dân sự tồn tại song hành với chế định sở

hữu, vì thế hai chế định này phát triển rất sớm trong hệ thống các qui định của pháp luật
mỗi quốc gia. Khi ra đời, để củng cố và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp bóc lột, nhà
nước ban hành pháp luật, qui định những tài sản nào là của nhà nước, tài sản nào thuộc về
cá nhân và đặc biệt qui định các chế tài có tính nghiêm khắc áp dụng đối với những ai có
hành vi trái luật xâm phạm tài sản của người khác.
Ở nước ta, các bộ luật của nhà nước phong kiến như Luật Hồng Đức, Luật Gia
Long có qui định về trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử do tình hình
chính trị - kinh tế - xã hội khác nhau nên mỗi bộ luật qui định không giống nhau về nội
dung các chế định đó.
Trong Luật Hồng Đức, tại chương tạp luật có các qui định về bồi thường thiệt
hại do hành vi của con người gây ra, như: trộm cắp, đánh người và các qui định về trách
nhiệm bồi thường do tài sản gây ra như do súc vật gây ra (điều 581), công trình xây dựng
gây ra,…Trong đó, trách nhiêm bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra được
quy định cụ thể như sau:
Điều 568 Luật Hồng Đức qui định:
“Khi có việc xây dựng hoặc phá huỷ gì mà phòng bị không cẩn thận để đến nỗi
xảy ra chết người thì bị xử biếm một tư và chịu tiền mai táng 5 quan, còn thợ thuyền, chủ
ty thì hình quan sẽ xem xét lỗi vì ai xảy ra mà định tội”10.
Theo quy định của điều luật khi xây dựng nhà ở, công trình xây dựng, chủ sở
hữu phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết đảm bảo an toàn trong xây dựng và có biện
pháp đề phòng các trường hợp có thể gây thiệt hại cho tài sản, tính mạng sức khoẻ của
người khác. Tuy nhiên, nếu xây dựng hoặc phá huỷ công trình xây dựng mà gây thiệt hại
thì chủ sở hữu phải bồi thường. Trường hợp này có hai khả năng xảy ra: Thứ nhất là khi
xây dựng hoặc phá huỷ công trình mà người trực tiếp làm công việc đó có lỗi để gây ra
thiệt hại. Thứ hai, do người chủ không cẩn thận trong việc ngăn ngừa thiệt hại để cho

10

Điều 568 Luật Hồng Đức


GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

11

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

công trình xây dựng gây thiệt hại đẫn đến chết người, trường hợp này lỗi của chủ sở hữu
là gián tiếp cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp trên là lỗi vô ý của
chủ sở hữu hoặc lỗi của người trực tiếp xây dựng, của người nhận thầu công trình và hậu
quả là chết người. Mặc dù lỗi của ai nữa thì suy đoán cũng là lỗi của chủ sở hữu vì người
xây dựng là người làm thuê hoặc làm giúp cho chủ sở hữu, cho nên công việc xây dựng
hoặc phá dỡ là của chủ sở hữu. Vì vậy, chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Nếu chủ
sở hữu có lỗi vô ý vì cẩu thả “không cẩn thận” sẽ bị xử tội biếm và phải bồi thường tiền
mai táng cho nạn nhân là 5 quan tiền.
Khi xây dựng, phá dỡ công trình, việc gây thiệt hại có thể do thợ xây hoặc người
tháo dỡ công trình xây dựng bất cẩn để xảy ra thiệt hại, trước hết chủ sở hữu phải bồi
thường. Nếu những người trực tiếp thực hiện việc xây dựng, phá dỡ có lỗi, thì tuỳ theo
mức độ vi phạm sẽ bị hình phạt tương xứng.
Qua các điều luật trên, Luật Hồng Đức đã qui định tương đối đầy đủ trách nhiệm
dân sự của chủ sở hữu khi các loại tài sản của mình gây thiệt hại cho người khác, cụ thể
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra. Điều này chứng tỏ các
nhà làm luật đã dự liệu được các trường hợp tài sản có thể gây ra thiệt hại và thể hiện cái
nhìn tương đối toàn diện về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội đương thời. Luật Hồng Đức là một bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của ông
cha ta, là di sản lập pháp đỉnh cao của nhà Lê để lại cho hậu thế. Ngày nay chúng ta cần
phải tiếp tục kế thừa và phát triển truyền thống lập pháp đó.

Tuy nhiên, những thành quả đó không được kế thừa trong luật của nhà Nguyễn.
Vấn đề này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do nhà Nguyễn bị ảnh
hưởng, phụ thuộc nhiều vào chế độ phong kiến phương Bắc. Cho nên, trong Hoàng Việt
Luật lệ (Luật Gia Long), cấu trúc của Luật Gia Long hoàn toàn khác so với Luật Hồng
Đức. Trong chế định bồi thường thiệt hại, các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra không qui định cụ thể mà chủ yếu qui định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi con người gây ra (quyển 6 - Hộ luật). Quyển 6 chủ yếu qui
định các hành vi gây thiệt hại về tài sản của Vua hoặc quan lại triều đình mà không có
qui định về bồi thường thiệt hại tài sản của công dân. Điều này có thể được giải thích là
trong xã hội nhà Nguyễn, pháp luật bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị
nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động.
1.3.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra
trong thời kỳ Pháp thuộc
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Pháp đã thi hành chế độ bảo hộ đối
với Việt Nam và các nước Đông Dương, vì vậy các bộ luật dân sự của nước ta thời kỳ
Pháp thuộc do nhà nước Pháp ban hành bằng tiếng Pháp và được dịch ra tiếng Việt. Các
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

12

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

bộ luật này dựa theo Bộ luật dân sự của NAPOLEON nhưng có điều chỉnh phù hợp với
điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
Chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ (DLBK) và Hoàng Việt
Trung Kỳ Hộ luật (DLTK) được chia thành trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài
hợp đồng. Đối với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định

trách nhiệm dân sự được qui định tại Điều 711(DLBK) và Điều 763 (DLTK):
“Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn hại tự mình làm ra mà cả về
sự tổn hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay do những vật mình phải trông coi
nữa.
Phàm vật vô hồn mà làm nên tổn hại thì người trông coi vật ấy cho là có lỗi vào
đó, không phân biệt vật đó có tay người động đến hay không, muốn phá sự phỏng đoán
đó thì phải có bằng chứng trái lại mới được.
Bấy nhiêu trường hợp như trên đều có trách nhiệm cả, trừ khi người chịu trách
nhiệm đó có bằng chứng rằng cái việc sinh ra trách nhiệm ấy mình không thể ngăn cấm
được”11.
Đoạn hai của điều luật qui định vật vô hồn là các vật như nhà ở, công trình xây
dựng và các tài sản vô tri, vô giác khác gây thiệt hại trong hai trường hợp: Thứ nhất, do
người quản lý trông coi, sử dụng tài sản mà có lỗi vô ý, quản lý, trông coi hoặc khai thác
sử dụng không cẩn thận để tài sản gây thiệt hại. Thứ hai là tài sản tự nó gây thiệt hại mà
không có hành vi tác động trực tiếp của người quản lý, trông coi. Trường hợp này người
quản lý tài sản có lỗi vô ý gián tiếp là không thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa có
khả năng cho phép, để tài sản gây thiệt hại. Vì vậy, chủ sở hữu hoặc người quản lý trông
coi tài sản phải bồi thường thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của người
quản lý tài sản mà do hành vi trái luật trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ ba thì người
thứ ba phải bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh khi
người quản lý, trông coi tài sản chúng minh được việc gây thiệt hại đó là bất khả kháng.
Vì trường hợp này người quản lý không có lỗi trong việc trông coi tài sản, thiệt hại xảy ra
nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người nên họ không phải chịu trách nhiêm dân sự.
Tài sản lớn có giá trị của cá nhân là nhà ở, tài sản này có thể gây thiệt hại do
hành vi vô ý của chủ nhà, thể hiện trong Điều 716 (DLBK) và Điều 767 (DLTK) như
sau:
“Người chủ nhà mà nhà đổ nát làm thiệt hại cho người ta vì không chịu tu bổ
hay vì làm không chắc chắn phải chịu trách nhiệm về sự tổn hại đó”12.
Khi nhà ở bị đổ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ cho người khác cần
xem xét lỗi của chủ nhà trong việc tu bổ, sửa chữa thường xuyên những hư hỏng thông

11
12

Điều 711 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 763 Dân luật Trung Kỳ
Điều 716 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 767 Dân luật Trung Kỳ

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

13

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

thường. Nếu chủ nhà cố ý hoặc vô ý không tu bổ hư hỏng mà để gây thiệt hại thì đây là
hành vi vô ý của chủ nhà. Trường hợp nhà đổ do xây dựng không đảm bảo an toàn như
chất lượng vật liệu không tốt, kỹ thuật xây dựng kém hoặc làm nhà tạm bợ vì không có
khả năng kinh tế,… Những trường hợp này mà nhà ở gây thiệt hại thì được coi là lỗi gián
tiếp của chủ sở hữu, cần phải biết hoặc buộc phải biết về khả năng nhà có thể đổ nát khi
gặp mưa to, gió lớn, cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hai bộ Dân luật Bắc kỳ
và Dân luật Trung kỳ đều dựa trên căn cứ vào lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián tiếp của của chủ
sở hữu hoặc quản lý sử dụng tài sản. Nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự dựa trên
yếu tố lỗi đảm bảo được việc xác định đúng trách nhiệm dân sự của người có hành vi trái
luật, bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại trong việc khắc phục hậu quả thiệt hại do
người khác gây ra.
Nhìn chung, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra trong thời kỳ này được quy định một cách khá cụ thể. Đây là một điểm
tiến bộ rõ rệt của pháp luật thời kỳ này. Cụ thể, điều luật chỉ ra được chủ thể phải chịu

trách nhiệm khi để cho nhà cửa, công trình xây dựng gây ra thiệt hại và việc loại trừ trách
nhiệm bồi thường của chủ sỡ hữu, người đang quản lý, trông coi tài sản khi họ có được
bằng chứng chứng minh được thiệt hại xảy ra là không thể ngăn chặn được.
1.3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra sau
Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay
Năm 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được ban hành, nhưng vấn đề về
trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do tài sản gây ra vẫn chưa được ghi nhận. Đến bản Hiến pháp 1959 thì vấn đề về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cũng chỉ được được đặt ra đối với Nhà Nước khi trưng mua
hoặc trưng dụng, trưng thu13.
Đến năm 1972, một văn bản được ban hành đầu tiên quy định cụ thể về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây, đó là Thông tư 173/UBTP ngày 23 tháng 02 năm 1972 của Tòa án nhân dân
tối cao về hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Văn bản này ghi nhận
một số trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra như: bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tuy nhiên, văn bản
này không hề đề cập cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng khác gây ra.
Đến năm 1995, Nhà nước ta ban hành Bộ luật dân sự năm 1995, đây là BLDS
đầu tiên ghi nhận khá đầy đủ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung cũng như các

13

Điều 20, Hiến pháp năm 1992

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

14

SVTH: Neáng Sóc Thônh



Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong một số trường hợp cụ thể như14 :
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra, bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra, bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình
xây dựng gây ra. Trong đó, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công
trình xây dựng khác gây ra được quy định cụ thể tại Điều 631 Bộ luật dân sự năm 1995
như sau: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình
xây dựng khác phải bồi thường thiệt hại nếu để nhà cửa, công trình xây dựng khác đó bị
sụp đổ, hư hỏng, sụp lở, gây thiệt hại cho người khác, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng”.
Tiếp theo đó, là Bộ luật Dân sự 2005 được ban hành nhằm sửa đối bổ sung khắc
phục những hạn chế còn sót lại của Bộ luật Dân sự 1995. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra được quy định tại Điều 627
Bộ luật dân sự năm 2005 nhưng vẫn không có điểm khác biệt so với Bộ luật dân sự năm
1995 chỉ có sự thay đổi về số điều luật nhưng nội dụng vẫn giữ nguyên không có gì thay
đổi. Bên cạnh đó, các văn bản dưới luật hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Dân sự 2005 cũng lần lượt được ban hành như: Nghị Quyết số 01/2004/NQ- HĐTP ngày
28/04/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, về hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, nay được thay thế bằng Nghị Quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật dân sự 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra cũng không được giải
thích cụ thể giống như bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Vì vậy,
chỉ căn cứ vào sự điều chỉnh của một số ít văn bản cùng với điều luật như trên thì việc áp
dụng vào thực tiễn để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực xây dựng vấn đề bồi thường thiệt hại do nhà cửa,

công trình xây dựng gây ra cũng được quy định tại văn bản luật và các văn bản dưới luật
như sau: Luật xây dựng năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật nhà ở năm
2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Nghị định số 15/2013/NĐ-CP ngày 06 tháng 02
năm 2013 về quản lý chất lượng công trình xây dựng thay thế Nghị định số
209/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2004 về quản lý chất lượng công trình xây dựng
và Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18 tháng 04 năm 2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2004 về quản
lý chất lượng công trình xây dựng (có hiệu lực ngày 15/04/2013), Nghị định
180/2007/NĐ-CP ngày 07 tháng 12 năm 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật xây dựng về xử lý vi phạm về trật tự xây dựng đô thị, Thông tư số
14

Điều 627, điều 629, điều 630, điều 631 Bộ luật dân sự năm 1995.

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

15

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

39/2009/TT-BXD ngày 09/12/2009 hướng dẫn về quản lý chất lượng xây dựng nhà ở
riêng lẻ…
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nhà cửa công trình xây dựng khác gây ra nói riêng trong thời gian qua nhưng hiện
nay ở nước ta các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này cũng như việc áp dụng các
quy định đó còn chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, nhất là trong thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa như ngày nay. Chính vì lẽ đó, việc hoàn thiện hơn các quy định
của pháp luật về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra nói riêng là một yêu cầu hết
sức cần thiết trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay.
1.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra theo
pháp luật dân sự của một số nước
Pháp luật luật dân sự của Pháp ảnh hưởng mạnh đến pháp luật dân sự của nhà
nước phong kiến Việt Nam thời kỳ thuộc địa, vì thế các qui định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung trong các Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Dân luật Trung Kỳ đều
giống Bộ luật dân sự Pháp.
Điều 1384 Bộ luật dân sự Pháp quy định:
“Mỗi người phải chịu trách nhiệm không những về thiệt hại do mình gây ra mà
cả thiệt hại do những người mà mình chịu trách nhiệm hoặc những vật mà mình coi giữ
gây ra”15.
Điều 1386 Bộ luật dân sự Pháp qui định: “Chủ sở hữu công trình xây dựng phải
chịu trách nhiệm về thiệt hại gây ra do công trình bị đổ vì thiếu bảo dưỡng hoặc vì
khuyết tật trong khi xây dựng”16. Theo quy định trên, có thể hiểu chủ sở hữu bất động
sản phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do bất động sản của mình bị đổ nát hay bị cháy
gây ra. Sự đổ nát được thể hiện hoặc bằng sự sụp đổ của công trình hoặc bằng sự rơi
rụng một vài vật liệu nào đó gắn với công trình. Sự đổ nát này đặt ra trách nhiệm của chủ
sở hữu nếu như nó có thể quy cho sai sót trong xây dựng hay do thiếu sự tu bổ công trình.
Trong Bộ luật dân sự Nhật Bản, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được qui định
tại Chương V- Hành vi không hợp pháp. Chương này qui định về bồi thường thiệt hại do
hành vi không hợp pháp của con người trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt hại. Người có
hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tài sản
gây thiệt hại thì cần phải xác định người chủ sở hữu, người trực tiếp quản lý, người sử
dụng có lỗi hay không. Nếu thiệt hại xảy ra mà người quản lý, sử dụng hoàn toàn không
có lỗi thì không phải bồi thường. Lỗi của người quản lý tài sản thể hiện trong từng trường
15
16


Điều 1384 Bộ luật dân sự Pháp
Điều 1386 Bộ luật dân sự Pháp

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

16

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

hợp cụ thể khác nhau. Thiệt hại xảy ra có thể do hành vi của con người hoặc do tài sản
nhưng nguyên nhân chính là hành vi cố ý hoặc bất cẩn của con người trong việc quản lý,
sử dụng tài sản.
Điều 709 Bộ luật dân sự Nhật Bản qui định một nguyên tắc chung là: “Một
người vi phạm do cố ý hoặc do vô ý mà vi phạm quyền của người khác thì phải bồi
thường thiệt hại phát sinh từ vi phạm ấy”.
Theo qui định trên quyền của người khác là các quyền dân sự như quyền nhân
thân, quyền tài sản (quyền sở hữu)…Tuỳ thuộc vào loại thiệt hại mà người gây thiệt hại
phải bồi thường theo các mức khác nhau. Điều 709 Bộ luật dân sự Nhật bản qui định hai
cơ sở bồi thường là người gây thiệt hại có lỗi vô ý hoặc cố ý và thiệt hại là xâm phạm
quyền dân sự của các nhân tổ chức. Đây là một qui định mang tính tổng quát, cho nên
không cần thiết phải qui định cụ thể từng trường hợp gây thiệt hại. Tuy nhiên, có những
thiệt hại xảy ra xét về thực tế người phải bồi thường không có lỗi hoặc lỗi của họ là bị
suy đoán như công trình xây dựng gây thiệt hại trong thời gian sử dụng. Lỗi có thể là do
thiết kế, thi công hoặc do các nguyên nhân khác mà không phải là sự kiện bất khả kháng.
Liên quan đến vấn đề này Điều 717 Bộ luật dân sự Nhật Bản qui định: “Nếu việc xẩy ra
thiệt hại đối với người khác vì nguyên nhân sai sót trong xây dựng hoặc bảo quản cấu

trúc trên đất thì người chiếm hữu cấu trúc chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với
bên bị thiệt hại, song nếu như người chiếm hữu đã thể hiện sự quan tâm đúng mức nhằm
ngăn chận việc xảy ra thiệt hại thì chủ của cấu trúc đó phải bồi thường”17.
Theo qui định trên, nếu công trình đang xây dựng mà gây thiệt hại thì phải xác
định lỗi của người đang thi công. trường hợp người thi công có lỗi như vi phạm qui trình
kỹ thuật xây dựng, vô ý để tài sản gây thiệt hại cho người khác thì bên thi công phải bồi
thường thiệt hại. Qui định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi lẽ xây dựng là công
việc thuộc chuyên môn kỹ thuật cao, người làm nghề xây dựng phải có thẻ hành nghề và
mua bảo hiểm nghề nghiệp, vì vậy nếu trong quá trình xây dựng do lỗi của bên thi công
thì bên thi công phải bồi thường thiệt hại và bên thi công có quyền yêu cầu doanh nghiệp
bảo hiểm bồi thường thay.
Trường hợp, các công trình xây dựng hoặc các cấu trúc khác như nhà khung
sắt, nhà gỗ…sụp đổ gây thiệt hại, trước hết xem xét người chiếm hữu cấu trúc đó có lỗi
trong việc sử dụng hay không, nếu người chiếm hữu không có lỗi trong việc cấu trúc gây
thiệt hại thì chủ sở hữu công trình phải bồi thường. Rõ ràng, trường hợp này người chủ sở
hữu không có lỗi trong việc khai thác tài sản, cho nên qui định có tính chất suy đoán
người chủ sở hữu có lỗi nên buộc phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xét về mặt thực
tiễn qui định này có tính hợp lý, thể hiện là công trình xây dựng là những khối bê tông
cốt thép khổng lồ được chôn sâu trong lòng đất, vì công trình xây dựng do con người tạo
17

Điều 717 Bộ luật dân sự Nhật Bản

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

17

SVTH: Neáng Sóc Thônh



Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

ra, do vậy mọi tính toán của con người đều không thể đúng một cách tuyệt đối, cho nên
có thể dẫn đến thiếu sót trong thăm dò địa chất, thiết kế, hoặc thi công dẫn đến gây thiệt
hại cho người khác, vì vậy cần phải buộc chủ sở hữu bồi thường cho người bị thiệt hại là
phù hợp. Mặt khác, pháp luật qui định như vậy để buộc chủ sở hữu phải mua bảo hiểm
các công trình xây dựng, nếu xảy ra thiệt hại thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường
thay.
Nhìn chung, những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Pháp và
Nhật Bản so với luật Việt Nam trong việc xác định chủ thể phải đứng ra chịu trách nhiệm
bồi thường đều có một điểm chung đó là ngoài việc phải chịu trách nhiệm bồi thường do
mình gây ra mà còn phải chịu trách nhiệm do người của mình gây ra, đặc biệt là phải chịu
trách nhiệm do vật của mình gây ra. Để xác định được chủ thể phải chịu trách nhiệm đều
dựa trên yếu tố lỗi, cụ thể tại các điều luật đều quy định rõ trường hợp chủ thể phải chịu
trách nhiệm khi có lỗi hoặc không có lỗi.
1.5. Ý nghĩa của quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa,
công trình xây dựng gây ra
Trong thực tế hiện nay ngoài những thiệt hại do hành vi của con người gây ra,
còn có nhiều thiệt hại do tài sản của con người là nguồn nguy hiểm cao độ, nhà cửa, công
trình xây dựng, súc vật, cây cối... gây ra. Vấn đề xác định trách nhiệm dân sự của chủ sở
hữu, người chiếm hữu, sử dụng, người có trách nhiệm trong việc quản lý đối với các thiệt
hại do tài sản thuộc sở hữu, thuộc trách nhiệm quản lý... của mình gây ra ngày càng có ý
nghĩa pháp lý, ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây
dựng gây ra đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến
thiệt hại mà nhà cửa, công trình xây dựng là nguyên nhân trực tiếp gây ra. Ngoài ra, cơ sở
của trách nhiệm dân sự nói chung còn được xây dựng trên nguyên tắc lỗi. Theo nguyên lý
truyền thống, người bị thiệt hại muốn được bồi thường còn phải dẫn chứng lỗi của người
gây thiệt hại; ngoài ra họ còn có trách nhiệm chứng minh sự thiệt hại do người có hành vi
vi phạm pháp luật gây ra phải gánh chịu khi do chính lỗi của người đó gây ra. Trách

nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra đã mở ra một hướng
giải quyết tranh chấp, theo đó, khi nhà cửa, công trình xây dựng gây ra thiệt hại, chủ sở
hữu, người đang quản lý, sử dụng nhà cửa, công trình xây dựng đương nhiên bị coi là có
lỗi. Với quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra, quyền lợi của người bị thiệt hại được bảo đảm. Việc xác định trách nhiệm
trên nguyên tắc lỗi và trách nhiệm chứng minh của người có quyền, lợi ích bị xâm phạm
nhiều khi rất phức tạp và có thể còn có những bất lợi cho người bị thiệt hại. Nhiều trường
hợp tai nạn xảy ra do nhà cửa, công trình xây dựng bị sụp đổ hoặc do bị lún, nứt…nhưng
thiệt hại thực tế đã xảy ra nhưng không do lỗi của ai. Vì vậy, trong những trường hợp
GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

18

SVTH: Neáng Sóc Thônh


Đề tài: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra

này, nếu bắt buộc người bị thiệt hại phải dẫn chứng lỗi tức là đã gián tiếp hạn chế quyền
được đòi bồi thường của họ, nhất là những trong trường hợp này thiệt hại không phải do
con người gây ra mà chỉ do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra cũng
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ sở hữu, người sử dụng, quản lý nhà cửa, công
trình xây dựng. Chủ sở hữu, người sử dụng, quản lý nhà cửa, công trình xây dựng có
nghĩa vụ trông coi, quản lý, không để nhà cửa, công trình xây dựng của mình gây thiệt
hại cho người khác. Để thực hiện nghĩa vụ đó, họ phải tuân thủ các quy tắc trong việc sử
dụng, bảo quản,... kịp thời phát hiện nguy cơ nhà cửa, công trình xây dựng có thể gây
thiệt hại cho những người xung quanh để có biện pháp phòng ngừa, khắc phục thích hợp.
Khi tài sản gây ra thiệt hại, chủ sở hữu, người quản lý tài sản bị suy đoán là có lỗi, trừ
trường hợp họ chứng minh được lỗi thuộc về người khác.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra cũng
góp phần làm minh thị các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản nói chung giúp pháp luật
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Và cũng góp phần làm minh
thị hơn những phán quyết của Tòa án làm tăng thêm niềm tin vào cơ quan xét xử của
nhân dân.

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Ngọc Tuyền

19

SVTH: Neáng Sóc Thônh


×