Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Vấn đề nhà ở của sinh viên đang theo học tại Tp.HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.55 KB, 68 trang )

1
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đều biết cuộc sống con người tồn tại trên nền tảng các nhu cầu cơ
bản là ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, giải trí và ước muốn lưu lại cái gì đó cho đời sau
mà ta có. Để có được bảy yếu tố cơ bản đó, con người phải đấu tranh với tự nhiên, và
cả trong cộng đồng xã hội. Cuộc đấu tranh thể hiện trong lao động ở mọi lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh, trong các lĩnh vực nghiên cứu phát triển, sáng tạo ra cái mới, để
không ngừng vươn lên, hay nói một cách khác mỗi người phải tìm cho mình một hoạt
động thích hợp trong xã hội để tồn tại và vươn lên hướng tới ngày mai. Từ đó ra đời
sự cạnh tranh và phát triển của cá nhân, của gia đình, của một cộng đồng xã hội. Và
mục tiêu đó trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Sự tăng trưởng về kinh tế nước ta nói chung, đô thị nói riêng trong những năm
vừa qua đã kéo theo sự phát triển về văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật… nhưng
bên cạnh đó nó cũng tồn tại một số vấn đề xã hội, trong đó đặc biệt là vấn đề nhà ở.
Một cá nhân có thể trở thành người tốt, có phẩm chất và nhân cách khi cá
nhân có điều kiện thực hiện tốt quá trình xã hội hóa. Nếu không được chăm sóc, giáo
dục trong môi trường xã hội lành mạnh, tức là không có điều kiện để xã hội hóa bản
thân, thì cá nhân đó có thể trở thành người xấu, bị tách khỏi chuẩn mực của xã hội.[9,
2006]. Với sinh viên là bộ phận ưu tú về trí tuệ của thanh niên nói chung. Họ là lớp
người đang độ trưởng thành, lại được học tập, sinh hoạt ở thành phố, đô thị lớn nên
có cơ hội tiếp xúc sớm với những tiến bộ xã hội. Sinh viên là nguồn bổ sung trực tiếp
cho lực lượng trí thức của nước nhà. Ngày nay, bước sang thế kỷ 21, khi mà khoa
học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì vai trò của sinh viên càng trở
nên quan trọng. Vì vậy, việc nâng cao đời sống cho sinh viên là việc quan trọng và
hết sức cần thiết, đặc biệt là quan tâm đến nhà ở - đó là một cách quan tâm thiết thực
hơn đến đời sống và sinh hoạt của sinh viên - những trí thức trẻ trong tương lai. Bởi
lẽ, nhà ở là điều kiện đầu tiên để phất triển nguồn lực con người – là nơi sinh viên tự
học tập, tự nghiên cứu sau những giờ lên lớp lên giảng đường, là nơi để sinh viên rèn
luyện thể lực sức khoẻ, đảm bảo cho việc học tập. Nếu sinh viên vẫn phải ăn ở trong
2
nhũng điều kiện tạm bợ, nhếch nhác, môi trường không tốt thì sẽ ảnh hưởng đến quá


trình học tập, cũng như nhân cách của sinh viên.
Vì thế, vấn đề nhà ở cho sinh viên là vấn đề thiết thực và cấp bách, cần được
sự quan tâm của mọi người, nhưng vấn đề này vẫn nhận được ít sự quan tâm từ nhiều
phía: chính sách hỗ trợ từ nhà nước, lãnh đạo các cơ quan ban, nghành, chức năng,
các cơ quan đơn vị trường học, địa phương nơi sinh viên đang sinh sống và học tập,
…hoặc đang nằm trên những dự án cho đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc chưa được
giải quyết.
Thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) hiện nay đang giữ một vai trò hết sức
quan trọng, là một trung tâm đa chức năng của Việt Nam. Không chỉ là một trung tâm
dân cư lớn nhất cả nước (với số dân 6.650.942 Năm 2007) mà còn là nơi hoạt động
kinh tế năng động nhất, đi đầu trong cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế: với tỷ
trọng GDP của thành phó chiếm 1/3 GDP của cả nước.
Đồng thời cũng là trung tâm giáo dục đại học, trung tâm khoa học công nghệ
lớn thứ hai của cả nước, sau thủ đô Hà Nội. Trên địa bàn Tp. HCM hiện nay có trên
khoảng 130 Trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực
đào tạo khác nhau với số sinh viên khổng lồ, trong đó có tới 80% sinh viên là người
ngoại tỉnh, tạo ra một sức ép lớn về chỗ ở, nhà trọ.
Thêm vào đó, theo đề án quy hoạch hệ thống mạng lưới các trường đại học,
cao đẳng Việt Nam đến năm 2020 thì số lượng các trường đại học tại Tp. HCM sẽ
tăng dần lên, cụ thể năm 2010 là 45 trường. Điều này càng khẳng định vị trí trung
tâm giáo dục đào tạo, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp của Thành phố và cũng cho
chúng ta thấy rằng Tp. HCM phải gánh vắc một phần trách nhiệm trong đào tạo
nguồn nhân lực cho cả khu vực phía Nam nói chung và cho cả khu vực đồng bằng
Sông Cửu Long nói riêng [5, 2002].
Như vậy trong tương lai gần số lượng sinh viên đại học, cao đẳng sẽ tăng lên
nhanh chóng, nhưng chỉ một số trường có ký túc xá cho sinh viên với số phòng trọ ít
ỏi, mỗi năm cũng chỉ có thể giải quyết được vài trăm xuất cho sinh viên vào ở với
những chỉ tiêu ưu tiên xét chọn rất kỹ càng như con liệt sĩ, con thương binh, dân tộc
3
thiểu số, khuyết tật nặng, quá nghèo, con em vùng sâu vùng xa, hải đảo. Số lượng lớn

sinh viên còn lại - trong đó đa số là sinh viên ngoại tỉnh – là thuộc “trách nhiệm” của
dân gần trường.
Trong khi đó việc xây dựng nhà trọ cho sinh viên trong địa bàn dân cư vẫn
còn mang tính manh mún, tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu trước mắt của sinh viên là
cần có một chỗ trọ mà chưa có một quy chế, quy định rõ ràng của chính quyền thành
phố đối với việc giải quyết vấn đề nhà ở cho sinh viên. Và một thực tế cho thấy nhà
trọ của dân đa phần điều kiện không được tốt lắm, chủ yếu được cơ nới tận dụng diện
tích sẵn có, xây dựng tạm bợ trên những nền đất yếu với những vật liệu thô sơ không
đảm bảo an toàn, vệ sinh, về phòng cháy chữa cũng như sức khỏe cho sinh viên và
môi trường tự học tập của sinh viên ở phòng trọ.
Giá nhà trọ cho sinh viên thông thường rất cao và ngày càng leo thang do nhu
cầu do nhu cầu sinh viên quá lớn. Cộng với việc để giảm chi phí hầu như các chủ nhà
hạn chế tối đa mức đầu tư, vì vậy mà các công trình nhà ở cho sinh viên thường được
xây dựng rất nhanh với các vật liệu rẻ tiền nên chất lượng nhà rất kém, cũng do tận
dụng tối đa nên trong những dãy nhà trọ này công trình phụ và kết cấu bố cục nhà
thường thiếu hợp lý, khoảng không gian chật hẹp, kể cả điện nước sinh hoạt, và các
tiện nghi tối thiểu cần có để phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày cũng không đảm
bảo.Trong lúc các trường đại học và cao đẳng trên thành phố chưa có đủ ký túc xá thì
việc sinh viên ở ngoài nhà dân là điều tất yếu.
Vì thế, một vấn đề nan giải đặt ra là vấn đề nhà ở cho sinh viên. Nên chúng tối
quyết định chọn đề tài “Vấn đề nhà ở của sinh viên đang theo học tại Tp.HCM ”.
Với mục đích tìm hiểu thực trạng nhà ở sinh viên hiện nay, nhu cầu ở của họ
như thế nào? Thực trạng nơi ở như vậy có ảnh hưởng gì tới đời sống (sinh hoạt, quan
hệ cộng đồng) của sinh viên? Nhà trường, địa phương, các ban ngành chức năng đã
quan tâm đến đời sống của sinh viên như thế nào? Từ đó góp phần định hướng cách
nhìn nhận của xã hội đối với vấn đề nhà ở cho sinh viên, góp một tiếng nói cho lời
giải câu hỏi giải quyết bài toán nhà ở cho sinh viên một chỗ ở để có thể an cư học
tập.
4
2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Phần lớn các sinh viên trên đia bàn Tp. HCM là những sinh viên ngoại tỉnh,
bên cạnh đó đa phần trong số họ có cuộc sống ở trọ. Rời xa mái ấm gia đình, họ phải
tự lo toan mọi vấn đề trong cuộc sống của mình, từ việc ăn ở, sinh hoạt đến việc học
tập, đi lại. Gia đình, nhà trường, các tổ chức, chính quyền địa phương thường chỉ
quan tâm đến việc học tập của họ mà ít quan tâm đến việc nâng cao chất lương cuộc
sống cho sinh viên, cụ thể ở đây là vấn đề nhà ở của sinh viên. Bởi lẽ, nhà ở là điều
kiện đầu tiên để phát triển nguồn nhân lực – một yếu tố hết sức quan trọng, có ảnh
hưởng ít nhiều đến kết quả học tập của sinh viên. Đề tài tập trung nghiên cứu thực
trạng nhà ở (nhà trọ, kí túc xá) của sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn
Tp.HCM, với mục đích tìm hiểu thực trạng nhà ở sinh viên hiên nay, ảnh hưởng của
thực trạng nhà ở tới đời sống học tập của sinh viên, và qua đó thấy được nhu cầu ở
của họ. Đồng thời đề tài cũng tìm hiểu về thực trạng đáp ứng của xã hội đối với nhu
cầu ở của sinh viên. Cũng qua việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích góp phần
định hướng cách nhìn nhận của xã hội đối với vấn đề nhà ở của sinh viên. Để từ đó
có những đề xuất mang tính khuyến nghị đối vấn đề nhà ở của sinh viên. Những điều
đó có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy sinh viên học tập tốt, nâng cao chất lượng
đào tạo giáo dục.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, đề tài sẽ tập trung phân tích
các nội dung chủ yếu sau:
• Nghiên cứu mang tính lý thuyết qua các tài liệu có sẵn.
• Phần nghiên cứu thực nghiệm
Đề tài tìm hiểu thực trạng nhà ở của sinh viên hiện nay trên địa bàn Tp. HCM.
Tìm hiểu về nhu cầu ở của sinh viên và thực trạng đáp ứng của xã hội đối với
nhu cầu ở của sinh viên hiện nay
Ảnh hưởng của chất lượng nhà ở đến đời sống của sinh viên (học tập, đời
sống sinh hoạt, mối quan hệ cộng đồng).
5
Mong muốn, đề xuất của sinh viên về vấn đề ở hiện nay như thế nào? Để họ

có thể an tâm học hành, nâng cao chất lượng học tập.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung vào “thực trạng nhà ở” của sinh viên hiện nay, và qua đó
tìm hiểu sự tác động của chất lượng nhà ở đến đời sống sinh hoạt cũng như học tập
của sinh viên.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể cung cấp thông tin sơ cấp cho đề tài nghiên cứu là 240 sinh viên
tại một số trường trên địa bàn Tp.HCM, ngoài ra khách thể của đề tài còn có các đơn
vị nhà trường mà các sinh viên đang theo học, chính quyền địa phương nơi sinh viên
đang tạm cư, và người dân đang cho sinh viên thuê nhà.
3.3. Giới hạn phạm vi khảo sát
Địa điểm được chọn để nghiên cứu trong đề tài là một số trường Đại học trên
địa bàn Tp. HCM.
4. Nguồn dữ liệu và phương pháp phân tích thông tin
4.1. Nguồn dữ liệu
Nghiên cứu này có kế thừa một số nguồn dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu
trước đó có liên quan; đồng thời và chủ yếu là nguồn dữ liệu từ cuộc điều tra xã hội
học độc lập của sinh viên được tiến hành trong tháng 3/2009.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Để đảm bảo tính đầy đủ và xác thực của thông tin, đề tài kết hợp sử dụng các
phương pháp chủ yếu sau, cũng là trình tự của quy trình nghiên cứu.
Để đảm bảo tính đầy đủ và xác thực của thông tin, đề tài kết hợp sử dụng các
phương pháp chủ yếu sau, cũng là trình tự của quy trình nghiên cứu.
Bước 1: Lấy ý kiến chuyên gia, thu thập và tóm tắt tài liệu có sẵn.
Bước 2: Quan sát tham dự và không tham dự
+ Chọn một số khu nhà trọ điển hình để tiến hành quan sát không tham dự (cơ
sở vật chất phòng trọ, môi trường khu trọ…). Bên cạnh đó do là sinh viên cũng có
6
cuộc sống đi ở trọ nên bản thân người nghiên cứu đã có điều kiện quan sát, và cảm

nhận về đời sống sinh hoạt và quá trình học tập của sinh viên.
+Kết hợp phỏng vấn tự do, chụp hình để chuẩn bị xây dựng các công cụ bảng
hỏi
Bước 3: Khảo sát xã hội học (bảng hỏi cấu trúc và bán cấu trúc).
+ Đối với bảng hỏi cấu trúc: đề tài sẽ điều tra một mẫu với dung lượng là 240
trường hợp. Khách thể là các sinh viên thuộc một số trường đại hoc trên địa ban
nghiên cứu của đề tài.
Do tính chất của đề tài nghiên cứu nên chúng tôi chọn mẫu và phân chia như
sau: phân tầng theo năm học: năm I, năm II, năm III, năm IV và chia đều số trường
hợp cho nam và nữ.
+ Đối với bảng hỏi bán cấu trúc: chúng tôi phỏng vấn sâu 7 trường hợp (trong
đó có 4 trường hợp là sinh viên đại diện cho 4 trường, 1 cán bộ trong ban điều hành
ký túc xá, 1 chủ nhà trọ, 1 cán bộ phụ trách sinh viên ở các trường).
4.3. Phương pháp xử lý và phân tích thông tin
- Đối với thông tin định tính: Xử lý bằng tay theo phương pháp phân tích –
tổng hợp và so sánh.
- Đối với thông tin định lượng: Xử lý bằng phần mềm tin học chuyên dụng
trong nghiên cứu xã hội học SPSS. Thông tin chủ yếu được phân tích theo phương
pháp mô tả thống kê, tổng hợp và so sánh.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Trước hết, thông qua đề tài nghiên cứu chúng tôi có cơ hội được làm quen với
các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và giúp cho chúng tôi có điều kiện
được trải nghiệm thực tế.
Tiếp đến đề tài “Vấn đề nhà ở của sinh viên đang theo học tại thành phố Hồ
Chí Minh” cho chúng ta thấy được thực trạng về nhà ở của sinh viên hiện nay, tác
động của chất lượng nhà ở đến đời sống sinh viên, nhu cầu về nhà ở của sinh viên
hiện nay như thế nào? Thực trạng đáp ứng của xã hội đến với nhu cầu nhà ở của sinh
viên hiện nay.
7
Đồng thời, đề tài cũng góp phần cho xã hội nói chung, lãnh đạo các cơ quan

ban, nghành chức năng, nhà trường, địa phương nơi sinh viên đang sống và học tập
nói riêng thấy được thực trạng và nhu cầu về nhà ở của sinh viên để đề ra những
chương trình, hành động cụ thể, rõ ràng, chất lượng hơn trong việc chăm lo đến đời
sống của sinh viên đặc biệt là vấn đề nhà ở.
Đề tài này còn giúp cho sinh viên đặc biệt là các sinh viên ngoại tỉnh nhìn lại
vấn đề nhà ở của mình để có hướng điều chỉnh lựa chọn sao cho phù hợp từ đó phục
vụ tốt cho công tác học tập của họ.
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH PHÂN TÍCH
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Ở nước ta hiện nay trong giai đoạn đô thị hóa, hiện đại hóa đất nước, nhà ở
đang là vấn đề bức bách, thu hút sự quan tâm đặc biệt của toàn xã hội, và nó đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết bằng những giải pháp đồng bộ và hiệu quả nhất trong sự
phát triển chung của xã hội. Nhà ở là vấn đề kinh tế - xã hội - nghệ thuật và khoa học
kỹ thuật rất rộng lớn, là nhu cầu thiết yếu của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội,
đồng thời là quyền cơ bản của con người, được nhà nước công nhận và chăm lo
thông qua các chính sách, định hướng, hỗ trợ tạo điều kiện để nhân dân tạo lập chỗ ở
cho phù hợp với nhu cầu và khả năng. Chính vì thế nhà ở là một trong những đề tài
mang tính cấp thiết, ở nước ta trong những năm qua có khá nhiều công trình, bài viết
về nhà ở. Sau đây chúng tôi xin tiếp cận một số công trình nghiên cứu về nhà ở như:
Trong nhập môn xã hội học đô thị của TS. Vũ Quang Hà – Th.S Tạ Minh có
đề cập đến một số khía cạnh xã hội học về vấn đề nhà ở quy hoạch xây dựng và quản
lý đô thị các tác giả có nêu: “Sự biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội đã tác động
mạnh đến lĩnh vực nhà ở, quy hoạch xây dựng và quản lý đô thị. Lớp người giàu có,
trung bình khá có khả năng hoạt động và chi phối thị trường nhà đất, lực lượng thiết
kế, xây dựng… làm ảnh hưởng đến công tác quy hoạch đô thị. Lớp người nghèo phải
đương đầu với những khó khăn do giá nhà đất tăng, tạo nên nhiều khu vực nhà ở có
chất lượng thấp kém…”. [13, 2002]
8
Nghiên cứu về nhà ở trong “Phát triển kiến trúc nhà ở tại các đô thị Việt Nam
đến năm 2010 03/03/2009” trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của

GS.TS Nguyễn Mạnh Kiểm. Tác giả đã đề cập đến quá trình phát triển kiến trúc nhà
ở đô thị của một số nước phát triển, đang phát triển, đặc biệt là các nước trong khu
vực để rút kinh nghiệm, áp dụng cho công tác nghiên cứu phát triển kiến trúc nhà ở
tại các đô thị Việt Nam. Tiếp đến đánh giá hiện trạng hệ thống các kiểu mẫu nhà ở đã
được xây dựng tại các đô thị Việt Nam qua các giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. cũng trong đề tài này tác giả cũng nghiên cứu các cơ sở khoa học cho việc
đề xuất tiêu chuẩn, quy chuẩn cho các khu ở, đơn vị ở, căn hộ ở cho các đối tượng ở,
các thành phần ở trong các đô thị Việt Nam. Nghiên cứu đề xuất các mẫu nhà ở thích
hợp áp dụng cho các đô thị hiện tại và các năm tiếp theo cũng như nghiên cứu đề xuất
các chính sách quy định cho nhà ở tại các đô thị Việt Nam. [24]
Nhưng trong khi có khá nhiều công trình nghiên cứu về nhà ở và đời sống cho
các đối tượng như công nhân, người thu nhập thấp, người nghèo, giáo viên,…nhưng
đối với sinh viên thì các nghiên cứu tương tự liên quan còn tương đối hạn chế ở. Đây
là một khó khăn trong quá trình nghiên cứu của chúng tôi. Tuy vậy, chúng tôi xin
tiếp cận một vài nghiên cứu có liên quan.
Trong bài “kích cầu: tập trung cho công nhân và sinh viên”, đăng trên báo lao
động số 29 ngày 15/12/2008, cho biết trọng tâm của gói kích cầu 1 tỉ USD của chính
phủ sẽ tập trung cho các dự án cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội cụ thể là: “sau thời kỳ
tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đang trải qua thời kỳ khó khăn bởi suy giảm kinh
tế trên bình diện toàn cầu. Chính phủ đã nhận định: cần chủ động ngăn chặn đà suy
giảm kinh tế, trong đó thủ tướng chính phủ chỉ đạo, trong giai đoạn này cần có những
khởi động nhằm kích cầu về đầu tư và kích cầu tiêu dung. Trong đó Bộ KH-ĐT đề
xuất gói kích cầu cho các dự án kết cấu hạ tầng để vừa kích cầu đầu tư, đẩy mạnh
tăng trưởng; đồng thời tập trung xây dựng các dự án nhà ở xã hội hướng đến đối
tượng có nhu cầu lớn về nhà ở hiện nay là công nhân trong các KCX, KCN; học sinh,
sinh viên các trường đại học, cao đẳng, đồng thời tác giả cũng nêu lên một khó khăn
là: mặc dù hiện nay đã có quy hoạch dành cho công nhân các KCX, KCN; nhà ở cho
9
HSSV, nhưng nguồn vốn đầu tư rất eo hẹp và không có cơ chế để các doanh nghiệp
bỏ tiền đầu tư cho các khu vực này. Vì thế Với nguồn vốn kích cầu của chính phủ

chúng tôi kiến nghị dành một phần thích đáng cho khu vực này, đồng thời đề xuất cơ
chế hỗ trợ như cho người lao động, HSSV vay vốn không có lãi; nhà đầu tư các dự án
sẽ được hưởng cơ chế như miễn tiền sử dụng đất, vay vốn không phải trả lãi và có
một số cơ chế “dài hơi”… [8, 2008]
Cũng đề cập đến vấn đề nhà ở của sinh viên trong bài viết “Nhọc nhằn chỗ
trọ sinh viên” của Duy Thịnh, tác giả cho rằng sinh viên có nhu cầu rất lớn về chỗ ở,
việc đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên hiện nay là một việc cấp bách. Trong quá
trình nhọc nhằn tìm chỗ trọ của mình, sinh viên vẫn rất trong chờ vào việc xã hội hóa
trong xây dựng các khu ký túc xá được phát triển sâu rộng. Ở đây tác giả đã nêu ra
thực trạng là tại Tp. HCM có khoảng 130 trường đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp với số sinh viên khổng lồ, trong đó có 80% sinh viên là người ngoại
tỉnh, tạo ra một sức ép lớn về chỗ ở, nhà trọ. Tuy nhiên, chỉ số ít sinh viên may mắn
được ở trong làng sinh viên và ký túc xá hoạc tìm được chỗ ở phù hợp. Và nguồn lực
quan trọng giải quyết nơi ở cho sinh viên là từ các doanh nghiệp cũng đang gặp nhiều
trở ngại lớn: giá vật liệu tăng, lãi xuất ngân hàng cao. Nếu phải đi vay ngân hàng để
xây dựng nhà và thu mỗi sinh viên 200.000 đồng/tháng thì nguồn thu cũng chỉ vừa đủ
trả lãi, trong lúc đó, đầu tư cho chung cư cao tầng, khách sạn, nhà biệt thự chắc chắn
sẽ thu lời nhanh hơn nên các doanh nghiệp tỏ ra không mạn mà với việc xây dựng
nhà ở cho sinh viên. Vì vậy trong khi chính sách xây dựng nơi ở cho sinh viên chưa
thu hút được các doanh nghiệp thì việc giải bài toán nhà ở, ký túc xá sinh viên về căn
cơ lâu dài là phải tư nhân hóa cơ sở hạ tầng giáo dục. Để lấy dẫn chúng cho vấn đề
này tác giả đã nêu vừa qua, ĐH Quốc gia Tp. HCM và công ty cổ phần Hưng Á vừa
đưa vào sử dụng và khai thác ký túc xá thuộc ĐH Quốc gia Tp. HCM, với 176 phòng,
giải quyết cho khoảng 1000 sinh viên. Thế nhưng sinh viên ĐH Quốc gia hiện có tới
khoảng 20.000, nên cả ký túc xá ĐH Quốc gia và ký túc xá xã hội hóa cũng giải
quyết được ½, tức là khoảng 10.000 sinh viên. [24]
10
Đề cập đến vấn đề xây dựng quy chế quản lý nhà trọ, ký túc xá sinh viên trong
bài viết: “Khó có thể, thậm chí không thể xây dựng được quy chế quản lý nhà trọ”.
Nội dung bài viết cho biết, khó có thể, thậm chí không thể xây dựng được vì các bộ

không trực tiếp quản lý sinh viên vì đó là nhu cầu riêng. Hơn nữa phần lớn các
trường chỉ đáp ứng 20-30% chỗ ở cho sinh viên còn 70-80% sinh viên tự tìm chỗ trọ
bên ngoài do đó rất khó quản lý. Tình trạng nhà trọ sinh viên rất phức tạp, lộn xộn,
xuất hiện tệ nạn xã hội mà nhà trường, gia đình rất khó quản lý, nóng nhất là hai
thành phố lớn Hà Nội, Tp. HCM. Đồng thời một thực trang đó là nhà trọ khó tìm giá
thì cứ nhích lên dù đoàn trường đại học Cửu Long có tư vấn tới chỗ trọ cho tân sinh
viên nhưng chỉ giải quyết cho một số nhỏ. Sinh viên cứ mãi lao đao về chuyện chỗ ở
thì không thể yên tâm học hành. Việc xây dựng kí túc xá mới, mở rộng các khu kí túc
xá sẵn có là mong muốn của không ít sinh viên. Thiết nghĩ, lãnh đạo các cơ quan,
ban, ngành chức năng, các cơ quan đơn vị trường học cũng nên quan tâm xây dựng kí
túc xá cho sinh viên để tạo điều kiện cho sinh viên yên tâm học tập. Đó cũng là một
cách quan tâm thiết thực hơn đến đời sống và sinh hoạt của sinh viên-những trí thức
trẻ trong tương lai không xa. [24]
Như vậy các tác giả đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nhà ở đối với con
người và đặc biệt là nhóm người có thu nhập thấp trong đó có sinh viên. Xã hội ngày
càng phát triển thì nhù cầu ở của con người càng nâng cao. Nhà ở của con người
không chỉ là nơi che nắng che mưa, ngả lưng một giấc để ngày mai còn đi làm tiếp
mà còn là biểu tượng tượng trưng cho đẳng cấp xã hội của người sở hữu ngôi nhà, nó
còn hàm chứa cả một cách nhìn về thang bậc bảy yếu tố cơ bản của cuộc sống con
người xã hội. Ở Việt Nam, trong điều kiện kinh tế đất nước hiện nay vấn đề nhà ở là
vấn đề cấp thiết cho nhiều đối tượng trong đó có công nhân và sinh viên nhưng việc
đáp ứng các nhu nhà ở của xã hội nhìn chung chưa được chú trọng. Dẫn đến đời
sống của họ vẫn còn thiếu thốn về nhiều mặt đặc biệt là khía cạnh xã hội.
1.2. Cách tiếp cận chính sử dụng trong đề tài
1.2.1. Các lý thuyết áp dụng trong đề tài
1.2.1.1. Hướng tiếp cận vĩ mô
11
Lý thuyết cấu trúc chức năng (đại diện gồm T. Parson và R. Merton): Lý
thuyết này cho rằng, trong một hệ thống xã hội chứa đựng nhiều tiểu hệ thống với
những cấu trúc và chức năng, địa vị, vai trò nhất định. Các cấu trúc và chức năng có

trật tự phụ thuộc và biến đổi lẫn nhau. Đồng thời để tồn tại một hệ thống hay thiết chế
xã hội nhất định thì nó phải có một cơ cấu vận hành tương thích, sự hỗ trợ cần thiết từ
các thiết chế, tác nhân hành động khác. [9, 2002]
Khác với đối tượng khác, chỗ ở của sinh viên không những là nơi diễn ra đời
sống sinh hoạt (ăn, ở, ngủ, nghỉ) mà còn là nơi sinh viên tự học tập, tự nghiên cứu sau
những giờ lên lớp lên giảng đường, đồng thời là nơi sinh viên rèn luyện sức khỏe sau
những giờ học tập căng thẳng, tạo điều kiện cho sự phát triển về trí tuệ và đảm bảo
kết quả học tập, cũng như nhân cách. Trong đề tài này, lý thuyết cấu trúc chức năng
được áp dụng để phân tích về vai trò của nhà ở đối với đời sống sinh viên và phân
tích mối tương quan giữa các chủ thể chức năng (các cơ quan ban, nghành chức năng,
các cơ quan đơn vị trường học) và vai trò đáp ứng nhu cầu ở cho sinh viên.
1.2.1.2. Hướng tiếp cận vi mô
- Lý thyết lựa chọn hợp lý (Coleman): Hệ thống xã hội phải được lý giải bởi
các yếu tố nội tại, cá nhân, trong đó các hành động của các cá nhân luôn hướng tới
một mục đích, mục tiêu nhất định. Mục tiêu đó (hành động) được định hình bởi giá
trị, sở thích vì vậy các cá nhân cần có sự lựa chọn hợp lý giữa các mục tiêu trong
phạm vi đi từ sự lựa chọn cá thể đến sự lựa chọn tập thể một cách có hệ thống. [9,
2002]
Lý thuyết này được vận dụng nhằm phân tích: Việc sinh viên lựa chọn nhà ở
thường dựa vào các tiêu chí: giá cả, chất lượng nhà ở; các mối quan hệ (đồng hương,
bà con, bạn cùng lớp,...)… sao cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình, cũng như phục
vụ tốt cho công tác học tập.
- Lý thuyết hành vi (Homan): Hay còn gọi là lý thuyết hộp đen của Homan.
Theo ông, hành vi của con người phát sinh từ môi trường. Chính môi trường tác động
lên hành vi của con người tạo nên sự kích thích con người phản ứng. Và hành vi con
12
người tác động ngược trở lại môi trường và từ đó lại tạo ra những hành vi khác của
con người. Môi trường này chủ yếu là môi trường xã hội. [9, 2002]
Sơ đồ lý thuyết hộp đen của Homan như sau:
S R S1 R1

Lý thuyết này được vận dụng trong đề tài nhằm giải thích sự tác động của các
yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, chính sách nhà nước, đia phương… ảnh hưởng đến
thực trạng nhà ở cũng như đời sống của sinh viên. Nó còn phản ánh thực trang đáp
ứng của xã hội đối với nhu cầu ở của sinh viên hiện nay.
.1.2.2. Một số cách tiếp cận cụ thể vấn đề nhà ở của sinh viên
1.2.2.1.Tiếp cận hệ thống
Hệ thống ở đây được hiểu là tổng hòa các thành tố, các thành phần, các bộ
phận và các mối quan hệ giữa chúng theo một kiểu nào đó tạo thành một cấu thể toàn
vẹn và hoàn chỉnh
Dù xem xét ở góc độ vi mô hay vi mô, xã hội bao giờ cũng tồn tại trong sự
toàn vẹn hoàn chỉnh theo một cấu trúc của nó, mỗi sự kiện hiện tượng hay quá trình
xã hội của chủ thể xã hội cấu thành nên hệ thống xã hội đều nằm trên sự phụ thuộc
lẫn nhau theo một cách chặt chẽ, mỗi yếu tố riêng lẻ chỉ có ý nghĩa khi đặt nó trong
một tổng thể. Tương tự như vậy, các mối quan hệ tương tác cơ cấu và trạng thái của
hệ thống cũng phải được đặt trong một tổng thể nếu muốn hiểu rõ các mối quan hệ
này.
Đề tài “Vấn đề nhà ở của sinh viên đang theo học tại thành phố Hồ Chí
Minh” xem xét đời sống của sinh viên như một tiểu hệ thống trong thể thống nhất
của một hệ thống lớn là hệ thống xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
Với tư cách là một bộ phận trong tổng thể xã hội hoàn chỉnh, đời sống của
sinh viên có mối quan hệ qua lại, gắn bó chặt chẽ với đời sống của các thành phần
khác trong xã hội như: công nhân, người dân địa phương, và cơ quan chính quyền nơi
họ đăng tạm trú… ở nhiều khía cạch khác nhau về kinh tế, văn hóa, an ninh, sức
khỏe…và sự kết hợp này tạo điều kiện cho sinh viên có thể ổn định đời sống của
mình cũng như học tập đạt được hiệu quả cao hơn, và chính sự ổn định trong đời
13
sống của họ cũng góp phần vào sự ổn định và phát triển của phường, quận cũng như
toàn thể thành phố.
Xã hội luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống toàn vẹn, xã hội được xem như
là một hệ thống rộng lớn bao chứa các tiểu hệ thống và đến lượt chính các tiểu hệ

thống lại chứa các tiểu hệ thống nhỏ hơn nằm trong hệ thống lớn khác, các bộ phận
trong từng tiểu hệ thống đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau theo một kiểu cấu trúc
định chính, vì vậy mỗi sự thay đổi của các bộ phận hay cấu trúc của hệ thống đều dẫn
tới việc thay đổi của cả hệ thống đó.
Là một tiểu hệ thống nằm trong hệ thống lớn là xã hội thành phố Hồ Chí Minh
nên đời sống của sinh viên chịu sự tác động của sự thay đổi và phát triển của thành
phố ở cả tầm vi mô và vĩ mô, nó chứa đựng hai dạng hoạt động chính là hoạt vật chất
(học tập, sinh hoạt) và hoạt động tinh thần, các dạng hoạt động này chịu sự tác động
của xã hội, đó có thể là quá trình CNH-HĐH đất nước, đó có thể là quá trình đô thị
hóa và những chính sách giáo dục, xã hội với sinh viên… và các dạng hoạt động đều
có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Các dạng hoạt động vật chất và tinh thần
giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của họ, sự biến đổi của các hoạt động này
dẫn đến sự biến đổi của các hoạt động khác và ngược lại.Vì vậy tìm hiểu về đời sống
sinh viên cần tìm hiểu mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các hoạt động trong đời
sống của họ.
1.2.2.2. Tiếp cận lối sống.
Lối sống được xem như một bức tranh toàn vẹn về cuộc sống của các cá nhân
trong những điều kiện lịch sử cụ thể, nhất định. Lối sống là một phạm trù thống nhất
các nhân tố chủ quan và khách quan của điều kiện sống. Nhân tố khách quan bao
gồm điều kiện tự nhiên (địa lý, sinh học, sinh thái) và điều kiện xã hội (kinh tế - xã
hội, chính trị - xã hội, văn hóa - xã hội); nhân tố chủ quan bao gồm những nhân tố
thuộc về tình cảm, quan niệm, nhu cầu, động cơ, định hướng giá trị của con người.
[16, 2004]
Butenco đã từng nói: “lối sống là tổng hòa các phương thức hoạt động của cá
nhân, nhóm xã hội hoặc toàn thể xã hội, được quy định trước hết bởi phương thức
14
sản xuất, mức sống, tổng hòa các điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử xã hội, hay bởi các
định hướng giá trị… lối sống cho chúng ta biết con người sống như thế nào? Làm gì?
Và làm vì những mục đích gì?” [19, 2004].
Theo tiến sĩ M.N Rút-kê-vích thì “lối sống là một tổng thể, một hệ thống,

những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã
hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội mà cụ thể là
điều kiện sống, môi trường xã hội đô thị trong tiến trình phát triển xã hội hiện nay”,
vì vậy khi tìm hiểu về lối sống của sinh viên chúng ta phải đặt họ trong mối tương
quan với các điều kiện chủ quan và điều kiện khách quan. [19, 2004]
Khi lý giải về lối sống, người ta thường dựa trên việc tìm hiểu các lĩnh vực
hoạt động sống của cá nhân, các nhóm, các dân tộc… để có thể làm nổi bật lên những
đặc trưng trong lối sống của họ, và các hoạt động sống đó được xem là nền tảng cho
cơ cấu của lối sống đó, nó bao gồm lĩnh vực học tập, sinh hoạt, các hoạt động chính
trị- xã hội và văn hóa – xã hội.
Trong đề tài nghiên cứu này, tìm hiểu về lối sống của sinh viên là tìm hiểu các
hoạt động sống của họ trong điều kiện kinh tế, xã hội nước ta hiện nay, cụ thể là điều
kiện kinh tế xã hội Tp. HCM hiện nay, và các vấn đề đó bao gồm các hoạt động sinh
hoạt, học tập, các hoạt động tinh thần, các hoạt động quan hệ… các hoạt động này
đang bị chi phối và tác động bởi các biến đổi xã hội, trong quá trình đô thị hóa đang
diễn ra một cách mạnh mẽ ở Tp. HCM và trong bối cảnh CNH và HĐH ở nước ta
hiện nay.
1.4. Mô hình phân tích và các giả thuyết nghiên cứu
1.4.1. Mô hình phân tích:
Nhu cầu nhà ở
15
1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên những cơ sở lý thuyết đã nêu ở trên, nghiên cứu của đề tài sẽ đi kiểm
chứng một số giả thuyết như sau:
Thứ nhất: Hiện nay nhu cầu nhà ở của sinh viên là rất lớn, mặc dù vấn đề này
đang nhận được sự quan tâm từ nhiều phía (nhà trường, các cơ quan chức năng…),
nhưng thực tế xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu ở của sinh viên. Xây dựng ký túc xá
cho sinh viên là một giải pháp lâu dài và một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
các trường đại học, cao đẳng trong thành phố, tuy nhiên số lượng các ký túc xá hiện
nay vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của sinh viên.

Thứ hai: Có nhiều yếu tố tác động đến sự lựa chọn nhà ở của sinh viên nhưng
các yếu tố về mối quan hệ xã hội như đồng hương, bà con họ hàng, bạn bè cùng
Sự
lựa
chọn
nhà ở

của
sinh
viên




Đặc
điểm
bản
thân
và gia
đình
Giới tính
Năm theo học
Kinh tế gia đình
Mối quen biết
Mức
độ
đáp
đáp
ứng
Nhà trường sinh viên

theo học
Địa bàn nơi sinh
viên sinh sống
Xã hội
Điều kiện
sinh hoạt
Quan hệ
cộng đồng
Đời sống học tập của
sinh viên
16
trường cùng lớp là một trong những yếu tố quan trọng trong tiêu chí chọn chỗ ở của
họ. Do nhu cầu cuộc sống và học tập phần lớn sinh viên khó có thể có được chỗ ở ổn
định và có nhiều lý do để sinh viên chuyển nơi ở.
Thứ ba: Như vậy giả thuyết thứ ba của chúng tôi được kiểm chứng: Đa số nhà
trọ của sinh viên hiện nay có điều kiện sinh hoạt thiếu thốn và thấp kém vẫn chưa thể
đảm bảo một chỗ học tập, nghỉ ngơi tốt nhất cho sinh viên. Chính vì thế mà chất
lượng đời sống vật (sinh hoạt) của họ vẫn chưa cao.
Thứ tư: Trong mối quan hệ cộng đồng, hầu hết sinh viên có mối quan hệ thân
thiết với bạn cùng phòng, nhưng lại có mối quan hệ bình thường với chủ nhà trọ,
người dân địa phương… nơi họ ở.
CHƯƠNG 2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
1.1. Giới tính, nơi sinh và năm theo học, và tình trạng kinh tế gia đình
Trong đề tài, đối tượng khảo sát là nam và nữ chiếm tỉ lệ ngang nhau là 50%.
Vì đề tài có tiến hành phân tầng giới tính theo từng năm học và theo từng trường.
Biểu đồ 2.1: Nơi xuất cư
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Đa số sinh viên là đối tượng khảo sát của đề tài được sinh ra và lớn lên ở
Duyên Hải Miền Trung chiếm tỉ lệ 31.7%. Tiếp đến là Đông Nam Bộ chiếm tỉ lệ

27.9%, Tây Nguyên (17.1%), Tây Nam Bộ (13.7%) và ít nhất là ở miền Bắc (4.2%).
17
Điều này cho thấy rằng sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn nghiên cứu đến từ
khắp vùng miền khác nhau của tổ quốc. (Xem biểu đồ 1.1)
Trong số 240 trường hợp nghiên cứu thì thì có sự phân bổ đồng đều giữa các
năm theo học, từ năm nhất đến năm tư là 25%.
Để tìm hiểu thực trạng nhà ở của sinh viên, có hay không mối quan hệ giữa
tình trạng nơi ở, tình trạng kinh tế gia đình sự lựa chọn nhà ở của sinh viên, đề tài
cũng tiến hành tìm hiểu tình trạng nơi ở, tình trạng kinh tế gia đình của đối tượng
khảo sát: Có 75.8% sinh viên xuất thân từ gia đình bình thường (đủ ăn, đủ mặc và chi
trả cho cuộc sống), có tới 13.8% xuất thân từ gia đình khó khăn, 9.6% xuất thân từ
gia đình khá và chỉ có 0.8% xuất thân từ gia đình giàu (2 trường hợp). Tuy không có
tiêu chí cụ thể để đánh giá từng mức độ nhưng kết hợp với một vài câu hỏi khác như
số tiền gia đình gửi và các phương tiện đồ dùng sinh hoạt hiện có cũng thấy được sự
chênh lệch về mức sống của những sinh viên là đối tượng khảo sát của đề tài. (Xem
phụ lục bảng 1.1)
1.2. Tiền gia đình gửi hàng tháng và tiền sinh viên tự kiếm
Hàng tháng, ngoài tiền học phí, sinh viên còn nhân được số tiền hàng tháng từ
gia đình gởi lên để trang trải cho cuộc sống sinh hoạt và học tập. Kết quả khảo sát
cho thấy số tiền trung bình hàng tháng sinh viên nhận 1.333.000 đồng/1 sinh viên/1
tháng, số tiền thấp nhất mà sinh viên được gửi từ gia đình là 500.000 đồng/ sinh
viên/1 tháng, mức cao nhất là 2.500.000 đồng/1 sinh viên/1 tháng. Đa số sinh viên
thuộc địa bàn nghiên cứu được gia đình gửi từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng
chiếm 45.4%. Mức ít nhất là dưới 700.000 đồng chiếm 5.8%. Từ 7.00.000 đồng đến
1.000.000 đồng là 30.8% (74 trường hợp). Trong tổng 240 người trả lời, số sinh viên
được gia đình gửi trên 1.500.000 đồng hàng tháng chiếm tỉ lệ 17.9%. (Xem bảng
1.1).
Bảng 1.1: Tiền gia đình gửi hàng tháng
Tiền gửi từ gia đình Trường hợp Tỉ lệ (%)
Dưới 700 ngàn 14 5.8

Từ 700 ngàn đến 1 triệu 74 30.8
18
Từ 1 triệu đến 1 triệu rưỡi 109 45.4
1 triệu rưỡi trở lên 43 17.9
Tổng 240 100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
Ngoài khoản tiền gia đình gửi hàng tháng, sinh viên còn đi làm thêm để có
thêm nguồn thu nhập trang trải cho cuộc sống học tập và sinh hoạt thường ngày của
mình. Trong tổng số 240 sinh viên thì có 61 sinh viên đi làm thêm (25.4%). Trung
bình mỗi tháng sinh viên kiếm được 743.000 đồng, số tiền mà sinh viên kiếm được ít
nhất là 200.000 đồng, mức tiền cao nhất là 2500.000 đồng/ 1 sinh viên / 1 tháng.
Trong 61 người có đi làm thêm thì có 50.8% có thu nhập từ 200.000 đồng đến
500.000 đồng hàng tháng, 37.7% có thu nhập từ 500.000 đồng đến 1000.000 đồng.
Có 2 trường hợp có thu nhập trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng chiếm 3.3%.
Thu nhập trên triệu rưỡi có 5 trường hợp chiếm 8.2%. (Xem bảng 1.2)
Bảng 1.2: Tiền sinh viên tự kiếm (làm thêm)/đơn vị đồng
Tiền tự kiếm Trường hợp Tỉ lệ (%)
Từ 200 ngàn đến 500 ngàn 31 50.8
Từ 500.000 ngàn đến 1 triệu 23 37.7
Từ 1 triệu đến 1 triệu rưỡi 2 3.3
Trên triệu rưỡi 5 8.2
Tổng 61 100
Nguồn: kết quả khảo sát của chúng tôi tại các trường đại học – tháng 3/2009
2. Vấn đề nhà ở của sinh viên
2.1. Vai trò của nhà ở
Nhà ở là vấn đề kinh tế - xã hội - nghệ thuật và khoa học kỹ thuật rất rộng lớn,
là nhu cầu thiết yếu của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, đồng thời là quyền cơ
bản của con người, nó còn hàm chứa cả một cách nhìn về thang bậc bảy yếu tố cơ
bản của cuộc sống con người xã hội, được nhà nước công nhận và chăm lo thông qua
các chính sách, định hướng, hỗ trợ tạo điều kiện để nhân dân tạo lập chỗ ở cho phù

hợp với nhu cầu và khả năng,.
Do có mối quan hệ mật thiết của nhà ở đối với đời sống gia đình và với cơ
cấu xã hội, nó là rường cột của sự ổn định xã hội, liên quan đến phúc lợi xã hội và sự
thỏa mãn của các nhóm. Việc cung cấp nhà ở sẽ phản ánh hệ thống xã hội cơ bản của
19
quốc gia. Vì vậy chính bản chất tự nhiên của nhà ở làm cho nó mang tính chính trị, và
do đó bị chi phối bởi những áp lực chính trị trên tất cả các bình diện sản xuất, tài
chính và tiêu thụ. Nhà ở biểu hiện bầu không khí chính trị và kinh tế của một xã hội
cũng như trên bất kỳ bình diện nào của đời sống của quốc gia. [12, 2004].
Nhà ở đô thị luôn là một vấn đề lớn, có ý nghĩa kinh tế - chính trị và xã hội
quan trọng trong sự phát triển của một đô thị và của mỗi quốc gia. Giải quyết thành
công vấn đề này sẽ liên quan đến và tác động đến tới nhiều vấn đề kinh tế-xã hội
khác. Đặc biệt khi nước ta trong những năm qua dưới tác động của đường lối đổi
mới, có thể nhận định rằng mọi sự thay đổi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
đều bắt nguồn từ một sự thay đổi cơ bản nhất: chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ
kế hoạch hóa bằng mệnh lệnh hành chính sang phát triển một nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bước chuyển căn bản này không chỉ tạo lập một cơ chế
thị trường bao trùm lên mọi lĩnh vực mà đồng thời cũng tạo ra vô số các thị trường
hàng hóa khác nhau. Trong số các thị trường này, phải kể đến thị trường nhà đất, thị
trường bất động sản. Nhà ở đã trở thành một trong những loại hàng hóa đắt giá nhất.
[12, 2004].
Có thể đặt câu hỏi: vậy ta đã có một thị trường nhà ở chính thức hay chưa? Và
chưa có thì khi nào sẽ có cơ chế hoạt động. Sự điều tiết và can thiệp của nhà nước sẽ
dưới hình thức nào? Và một khi đã nói đến thị trường thì không thể bàn đến cung và
cầu của loại hàng hóa này. Chúng ta đã biết gì và làm gì để nắm bắt được hai yếu tố
quan trọng sống còn này của thị trường nhà ở tại các đô thị. Cung hiện đòi hỏi ở mức
nào, tính đa dạng của nó ra sao?Tiếp đó, để có cung lại cần có xuất, cần có các đầu
vào và đầu ra của quá trình sản xuất nhà ở, các khu vực sản xuất nhà ở (nhà nước, tư
nhân, liên doanh, cá thể hộ gia đình…). [12, 2004].
Và nhà ở của sinh viên cũng là một bộ phận của nhà ở đô thị, nhà ở của sinh

viên cũng là một loại hàng hóa, một loại hàng hóa đặc biệt là bộ phận của nhà ở đô
thị có tác động đến sự phát triển và ổn định đô thị. Hiện nay nhu cầu nhà ở sinh viên
ở mức nào, xã hội đáp ứng ở mức nào? Sau đây sẽ là một số kết quả mà chúng tôi thu
thập được.
20
2.2 .Nhu cầu nhà ở và chính sách của nhà nước về nhà ở
2.2.1. Nhu cầu nhà ở của sinh viên.
Thực trạng các nhà trọ, ký túc xá:
Hiện nay trên địa bàn Tp. HCM có hơn 90 trường Đại học, cao đẳng với hơn
350.000 sinh viên đang học tập. Trong số đó chiếm khoảng 70% là học sinh sinh viên
ngoại tỉnh có nhu cầu về chỗ trọ; như vậy là có khoảng 230.000 học sinh sinh viên
đang cần chỗ trọ hiện nay. [1, 2009, 8]
Nâng cao điều kiện sống cho sinh viên là việc quan trọng và rất cần thiết, cần
được sự quan tâm từ nhiều phía. Trong lúc các trường đại học và cao đẳng trên thành
phố chưa có đủ ký túc xá thì việc sinh viên thuê nhà ở ngoài nhà dân cũng là điều tất
yếu. Người dân đã gánh vác một phần trách nhiệm trong sự nghiệp chung của đất
nước, thiết nghĩ các trường đại học cao đẳng và chính quyền thành phố cần có một
chính sách phù hợp trong việc giải quyết bài toán nhà ở cho sinh viên nói chung và
sinh viên khối ngoài công lập nói riêng.
Hiện nay, trong các trường ngoài công lập chỉ quan tâm đến vấn đề hỗ trợ sinh
viên trong việc tìm kiếm nhà trọ nhưng chỉ dừng ở việc giới thiệu nên hiệu quả không
cao. Nhưng công tác theo dõi và giám sát là chưa có mà hoàn toàn buông lỏng trong
việc quản lý sinh viên ngoài giờ lên lớp ở giảng đường. (Trong năm 2004, đại học
dân lập Văn Lang là 1.200 sinh viên có nhu cầu tìm chỗ trọ trong tổng số 7500 sinh
viên của trường nhưng trường cũng chỉ giải quyết được cho 60 sinh viên chiếm tỷ lệ
0.8%. Đại học dân lập Hùng Vương giới thiệu được 200 địa chỉ, cao đẳng bán công
Marketing 100 chỗ, năm 2008 Đại học Văn Hiến giới thiệu được khoảng 613 chỗ…).
Ký túc xá - giải pháp tốt nhất cho sinh viên trong thành phố hiện nay. Xây
dựng ký túc xá cho sinh viên là một giải pháp lâu dài và một trong nhiệm vụ trọng
tâm của các trường Đại học, cao đẳng trong thành phố nhưng số lượng các ký túc xá

hiện nay vẫn còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của sinh viên.
Hiện nay trên toàn thành phố có khoảng trên 40 ký túc xá của các trường đại
học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Trong đó, riêng khu vực đại học Quốc gia
Tp. HCM có khoảng 30.000 sinh viên đang theo học. Tiếp tục chủ trương kêu gọi đầu
21
tư từ địa phương, năm 2004 vừa qua các tỉnh Tây Ninh, Bình Thuận, Khánh Hoà,
Bình Phước tham gia xây dựng thêm 4 đơn nguyên ký túc xá, hai trong số này đã
được đưa vào sử dụng trong năm học 2004 - 2005. Tính đến nay khu ký túc xá Đại
học quốc gia đã có 11 toà nhà (1 của Đại học Quốc gia TP.HCM xây, 2 của UBND
TPHCM tặng, 8 của các tỉnh thành gồm Vũng Tàu, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang,
Bình Thuận, Khánh Hoà, Tây Ninh, Bình Phước xây dựng ký túc xá được gần 46.000
m
2
sàn với tổng kinh phí hơn 80 tỷ đồng. Giải quyết được 5.200 chỗ ăn ơ, sinh hoạt
cho sinh viên thuộc các trường thành viên với giá thuê là 50.000đ/1 sinh viên/1 tháng.
Trường Đại học Bách khoa Tp. HCM đã tiến hành dự án xây dựng ký túc xá
trên nền ký túc xá cũ với kinh phí xây dựng 80 tỷ đồng, và đã hoàn thành vào năm
2008. Trường Đại học sư phạm kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh có dự án xây dựng
ký túc xá với sức chứa 2500 chỗ khu vực Thủ Đức.
Chính phủ vừa phê duyệt dự án xây dựng ký túc xá Đại học Quốc gia Tp.
HCM từ nay đến năm 2020 với tổng số vốn đầu tư là 6.808 tỷ đồng, gồm hệ thống
trung tâm điều hành trường học, thư viện, sân chơi theo tiêu chuẩn quốc tế phục vụ
tốt nhu cầu ăn ở, học tập giải trí cho khoảng 60.000 sinh viên. Ngày 6/5 ký túc xá đầu
tiên nằm trong chương trình xây dựng 100.000 chỗ ở cho sinh viên của Chính phủ tại
Tp. HCM đã được khởi công xây dựng tại khu quy hoạch Đại học Quốc Gia Tp.
HCM có tổng diện tích xây dựng 590m
2
, phục vụ 560-580 sinh viên. Ngoài 117
phòng Ký túc xá còn có các công trình phụ như: phòng giặt ủi, phòng để sinh viên tự
hâm nóng đồ ăn thức uống, phòng thu rác, hệ thống phòng cháy chữa cháy, phòng

xem truyền hình, khu vui chơi thể thao…[24]
Nhưng tính cả các dự án Ký túc xá mà các trường hiện nay đang xây thì chỉ
mới chỉ đáp ứng được hơn 17% nhu cầu chỗ ở của sinh viên. Theo PGS. TS Thái Bá
Cần – Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm kỹ thuật cho biết “chúng ta chưa đầu tư
cho ký túc xá đúng mức. Cái khó chung là thiếu kinh phí”. Những điều kiện ăn ở,
sinh hoạt lý tưởng như trên chỉ đáp ứng một số lượng nhỏ nhu cầu của sinh viên các
trường công lập, còn các trường ngoài dân lập thì sinh viên không còn cách nào khác
hơn là dựa vào nhà trọ của dân.
22
Nhu cầu nhà ở của sinh viên là rất cao biểu hiện cụ thể hiện nay vấn đề đang
nhận quan tâm từ nhiều phía: nhà nước, cơ quan ban ngành chức năng, đặc biệt là
chính bản thân của những sinh viên. Cụ thể như sau:
Về phía nhà nước: Theo số liệu của Cục quản lý nhà (bộ Xây dựng), mỗi năm
diện tích nhà ở tăng thêm khoảng 30 triệu m
2
, riêng trong năm 2008 con số này là 50
triệu m
2
. Tuy nhiên, thị trường nhà ở chỉ chú trọng vào nhóm nhà ở cao cấp, chưa đáp
ứng được nhu cầu ở của những người đang có mức số thấp, trong khi nhu cầu nhà ở
của người dân ngày càng tăng. Chỉ tính riêng khối sinh viên, trong khoảng 600
trường đại học và cao đẳng, dự kiến đến năm 2015, tổng số sinh viên có thể lên đến
con số gần 3 triệu. [25]
Nhận thức được vai trò cũng như thực trạng và nhu cầu nhà ở của sinh viên
hiện nay. Chính vì thế, Quyết định của Chính phủ lần này sẽ tập trung đẩy mạnh xây
nhà cho sinh viên thuê theo hướng xây dựng tập trung thành các cụm công trình. Dự
kiến ở Hà Nội sẽ xây dựng ở Hà Đông, và ở TP.HCM xây dựng phía Tây Bắc. Nguồn
vốn xây dựng sẽ huy động từ trái phiếu Chính phủ, ngân sách hàng năm của các địa
phương, ngân sách địa phương trích từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
Trong 2 năm 2009-2011, Nhà nước sẽ đầu tư xây khoảng 200.000 chỗ ở cho

sinh viên thuê, đến năm 2015 có thể đáp ứng được 60% chỗ ở cho sinh viên. Chính
phủ vừa ban hành Nghị Quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về cơ chế, chính sách
cho chương trình nhà ở cho sinh viên, công nhân và người thu nhập thấp, cùng với
ban hành Quyết định số 65/QĐ-TTg ngày 24/9/2009 về phát triển nhà ở cho sinh
viên. [24]
Quỹ đất xây dựng nhà ở cho sinh viên được xác định thông qua việc rà soát,
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và được xây tập trung thành
một khu, cụm các trường Đại học, Cao đẳng phù hợp với quy hoạch. Có thể sử dụng
quỹ đất 20% tại các dự án nhà ở thương mại, khu đô thị để xây nhà cho sinh viên nếu
hợp quy hoạch. Nhưng đến năm 2015 cũng có thể đáp ứng được 60% chỗ ở cho sinh
viên.
23
Đối với thành phố Hồ Chí Minh: Lao động nhập cư và sinh viên các nơi khác
đến Tp. HCM để học đã tạo nên 1 áp lực lớn cho chính quyền thành phố trong việc
giải quyết chỗ ở, công ăn việc làm, lưu thông hàng hoá cũng như các vấn đề về an
sinh xã hội. Chính quyền thành phố có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề này như:
xây dựng nhà ở, xây dựng ký túc xá, mở rộng ĐH Quốc gia, cung cấp một số diện
tích đất để di dời ra khỏi trung tâm thành phố. Một trong những nội dung của chủ
trương xã hội hoá giáo dục là huy động tài chính và con người để giải quyết vấn đề
nhà ở cho sinh viên.
“Thành ủy, UBND TP xác định Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên là
công tác trọng tâm trong Chương trình phát triển nhà ở trên địa bàn thành phố từ nay
đến 2010 cũng như các năm tiếp theo…”. Đó là kết luận của Bí thư Thành ủy
TP.HCM Lê Thanh Hải và Chủ tịch UBND TP Lê Hoàng Quân. [24]
Cụ thể, lãnh đạo Tp thống nhất cơ bản kế hoạch số 1960 (ngày 25.3.2009) của
Sở Xây dựng về triển khai thực hiện Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên trên
địa bàn thành phố; đồng thời giao Đại học Quốc gia Tp.HCM liên hệ các cơ quan
chức năng để khẩn trương thực hiện điều chỉnh quy hoạch chi tiết 1/500 khu đất dự
trữ 5 ha tại khu A và khu B (nằm tại làng đại học Thủ Đức) để đáp ứng nhu cầu chỗ ở
cho sinh viên từ năm 2009 đến 2015. Giao Sở Quy hoạch - Kiến trúc khẩn trương

hoàn thiện quy hoạch định hướng quỹ đất cho các trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn thành phố theo hướng sử dụng đất hiệu quả, hợp lý, theo từng cụm các trường
đại học, không bố trí khu ký túc xá riêng lẻ cho từng trường. Trước mắt, lãnh đạo Tp
yêu cầu Sở Quy hoạch - Kiến trúc và UBND Q.9 và các cơ quan liên quan làm việc
ngay với các trường đại học Luật, Kinh tế, Kiến trúc... để xây dựng cụ thể kế hoạch,
lịch trình di dời khỏi nội thành; hoàn thiện ngay quy hoạch các trường tại P.Long
Phước (Q.9), với diện tích khoảng 16 ha; đồng thời tiến hành công tác xây dựng
phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư cho người dân... [24]
Lãnh đạo TP thống nhất chủ trương thành lập Ban chỉ đạo Chương trình xây
dựng ký túc xá sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề trên địa bàn thành phố do ông Nguyễn Thành Tài, Phó chủ tịch thường trực
24
UBND TP làm trưởng ban; Giám đốc Sở Xây dựng và Giám đốc Đại học Quốc gia
TP.HCM làm phó trưởng ban; mời UBND tỉnh Bình Dương làm thành viên. Trên cơ
sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương tại buổi
làm việc với thành phố ngày 14.3.2009, TP giao Sở Xây dựng khẩn trương hoàn thiện
kế hoạch thực hiện Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên trình UBND TP ban
hành kế hoạch trong đầu tháng 4.2009. [24]
Theo kế hoạch của Sở Xây dựng, giai đoạn 2009 - 2010, TP sẽ hoàn thành 28
khối ký túc xá, đáp ứng khoảng 30.000 chỗ ở cho sinh viên (khoảng 7,5m2/chỗ ở),
với tổng mức đầu tư 1.229 tỉ đồng (trong đó có 88,7 tỉ đồng do các tỉnh đầu tư); giai
đoạn 2011 - 2015 sẽ xây dựng hoàn thành thêm 43 khối ký túc xá, đáp ứng khoảng
70.000 chỗ ở với tổng đầu tư 2.856 tỉ đồng.
Nếu cộng thêm khoảng 10.000 chỗ ở cho sinh viên đã được xây dựng trong
giai đoạn 2007 - 2009 (tổng vốn đầu tư khoảng 180 tỉ đồng) thì đến năm 2015, Tp sẽ
có khoảng 110.000 chỗ ở cho sinh viên của các trường thuộc Đại học Quốc gia
Tp.HCM, như: Bách khoa, Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội và nhân văn... và các
trường đại học khác, như: Nông Lâm, Sư phạm kỹ thuật... thuộc khu quy hoạch Đại
học Quốc gia. [24]
Về phía các nhà trường trên địa bàn nghiên cứu: Mặc dù cũng có những sự

cố gắng quan tâm đến đời sống sinh viên đặc biệt là vấn đề nhà ở cho sinh viên
nhưng thực tế do nhu cầu sinh viên quá lớn, nên các trường Đại học, Cao đẳng trên
địa bàn nghiên cứu chỉ có thể đáp ứng được lượng nhỏ nhu cầu chỗ ở cho các sinh
viên đang theo học tại trường. Đa số còn lại là trách nhiệm của dân gần trường và
một số khu vực khác.
Trường đại học Bách Khoa có 50.000 học sinh sinh viên đang theo học các
bậc đào tạo. Khánh thành vào tháng 3/2008, Ký túc xá Đại học Bách Khoa Có 307
phòng dành cho sinh viên Việt Nam, tổng sức chứa là 2.456 người. Ngoài ra, ký túc
xá còn có 20 phòng ở tầng 11 dành cho sinh viên nước ngoài với sức chứa là 80
người, đầy đủ tiện nghi. Như vậy cũng giải quyêt được khoảng 5% chỗ ở trong tổng
số sinh viên của trường.
25
“Năm 2008 – 2009 theo thống kê chưa đầy đủ thì trường Đại học Văn Hiến
có khoảng trên 2000 tân sinh viên theo hoc, năm 2008 – 2009 vừa qua chúng tôi có
tủ chức đợt hỗ trợ tìm và giới thiệu được khoảng 600 chỗ ở cho sinh viên. Tức là giải
quyết khoảng 25% nhu cầu ở của sinh viên…”
“Tuy nhiên chúng tôi chỉ hỗ trợ cho sinh viên chỗ ở nếu sinh viên nào chịu ở
thì thôi, nếu không đồng ý nơi ở đó thì sẽ quay lại trường chúng tôi sẽ giới thiệu cho
nơi khác… còn chúng tôi không quản lý về sau việc sinh viên có tiếp tục ở nơi đó hay
không”.
(N.T.P chủ tịch hội sinh viên trường Đại học Văn Hiến)
“Hiện trường có 6 cơ sở, trong đó có 3 cơ sở có ký túc xá sinh viện, Cơ sở
chính nằm chính tại thành phố Hồ Chí Minh cũng có ký túc xá. Ký túc xá hiện có 218
phòng (phòng có diện tích lớn thì cho 24 sinh viên ở, diện tích vừa thì cho 18 sinh
viên ở, nhỏ thì có 16 sinh viên), cung cấp khoảng 5.000 chỗ ở cho sinh viên cho tất
cả các đối tượng, ưu tiên cho sinh viên năm nhất và sinh viên nữ… nhu cầu khoảng
15.000 sinh viên, như vậy chỉ đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu của sinh viên”.
(Thầy Hà, trưởng ban quản lý ký túc xá Đại học Công nghiệp)
Về phía sinh viên: Qua khảo sát ý kiến của sinh viên chúng tôi thấy rằng hiện
nay nhu cầu nhà ở đang trở nên bức thiết đối với sinh viên, nó phản ánh chính nhu

cầu của họ chính vì thế họ rất quan tâm đến vấn đề này có 92.9% sinh viên trong mẫu
nghiên cứu quan tâm đến nhu cầu nhà ở của họ và có 79.4% trong số họ cho rằng nhu
cầu nhà ở của sinh viên rất cao. Ngoài ra, họ còn cho rằng thực tế xã hội (nhà trường,
địa phương, các đơn vị chức năng…) chưa có sự quan tâm đúng đắn cũng như chua
đáp ứng được nhu cầu của họ. Qua khỏa sát ý kiến của sinh viên thì có 80% sinh viên
cho rằng xã hội chưa đáp ứng đủ cũng như chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề nhà
ở của họ.
Ngoài ra nhu câu nhà ở của sinh viên còn được thể hiên qua những mong
muốn đề xuất của họ về nhà ở của sinh viên mà chúng tôi đề cập trong phần đề xuất
và mong muốn của sinh viên về nhà ở.

×