Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Asean chính sách kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.81 KB, 15 trang )

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I.MỞ RỘNG QUAN HỆ VÀ HỢP TÁC KINH TẾ ĐỐI NGOẠI LÀ ĐÒI
HỎI KHÁCH QUAN VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI.................3
1.1.1.Nền tảng của việc mở rộng hợp tác với các quốc gia trên thế giới........4
1.1.1.1.Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối ngoại........4
1.1.1.2.Truyền thống ngoại giao của dân tộc...............................................................................5

1.1.2.Những đòi hỏi bức thiết của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế đối
ngoại................................................................................................................5
1.1.2.1.Vai trò trụ cột của kinh tế đối với một quốc gia...............................................................5
1.1.2.2.Sự phát triển của xu thế hợp tác kinh tế đối ngoại trên thế giới.....................................6

II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ ASEAN
6
1. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước Đổi mới.........................6
2. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN sau Đổi mới............................7
3. Đánh giá chung về chính sách kinh tế đối ngoại Việt Nam – ASEAN.....10
III. THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG MỞ RỘNG
HỢP TÁC KINH TẾ VỚI ASEAN – XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TÊ
KHU VỰC TRONG TƯƠNG LAI.............................................................12
1. Thành tựu của Việt Nam...........................................................................12
2. Xu hướng hội nhập kinh tế khu vực trong tương lai.................................13
TỔNG KẾT........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................15

LỜI MỞ ĐẦU


2


Trong xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng gia tăng mạnh
mẽ của nền kinh tế thế giới hiện nay, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại
là một tất yếu khách quan. Quá trình này đòi hỏi tất cả các nước phải xây dựng
một chính sách đối ngoại phù hợp trong từng thời kỳ phát triển. Việc hình thành
các phương pháp luận, các chính sách kinh tế đối ngoại của các nước trên thế
giới để vận dụng vào điều kiện của Việt Nam theo phương châm “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” có ý nghĩa to lớn cả về lý luận
và thực tiễn. Trong những năm gần đây, Việt Nam mở rộng quan hệ với rất
nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Đó chính là lý do tại sao nhóm
chúng tôi chọn đề tài cho bài tiểu luận này: “Chính sách kinh tế đồi ngoại giữa
Việt Nam và ASEAN trước và sau Đổi mới”. Đề tài này trả lời cho ba câu hỏi:
Tại sao cần mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế đối ngoại? Chính sách kinh tế
đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước và sau Đổi mới như thế nào? Những thành
tựu đạt được và xu hướng hội nhập kinh tế khu vực tương lai?
Do mở rộng quan hệ và hợp tác kinh tế đối ngoại là một vấn đề hết sức
rộng lớn nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn.

NỘI DUNG
I. MỞ RỘNG QUAN HỆ VÀ HỢP TÁC KINH TẾ ĐỐI NGOẠI LÀ ĐÒI
HỎI KHÁCH QUAN VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
3


1.1.1. Nền tảng của việc mở rộng hợp tác với các quốc gia trên thế
giới
1.1.1.1.


Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai

trò của chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đối ngoại là hệ thống
các quan điểm, nhận thức, luận cứ được thể hiện trong tư duy lý luận và hoạt động
thực tiễn đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn lịch sử. Theo hệ
thống các quan điểm này, chính sách đối ngoại có vai trò hết sức quan trọng đối
với một quốc gia. Trong thời kỳ chiến tranh bảo vệ đất nước, chính sách đối ngoại
là một bộ phận hợp thành chiến lược cách mạng. Khi có đường lối quốc tế rõ ràng,
chính sách đối ngoại phù hợp, cách mạng sẽ đi đến hình thành một hệ thống chủ
trương chiến lược và biện pháp sách lược xử lý những vấn đề tác động đến lợi ích
của sự nghiệp cách mạng. Là một nước nhỏ nhưng chúng ta đã sớm nhận thức
được tầm quan trọng của chính sách đối ngoại. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, khi
một nước nhỏ đối đầu với một nước hùng mạnh hơn thì phái có chiến lược, phải
biến đường lối ngoại giao trở thành vũ khí để góp phần thay đổi tương quan lực
lượng, cục diện chiến đấu. Như vậy, ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong việc
chủ động đề xuất phương hướng chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo để đánh
thằng kẻ thù chính trong từng thời kỳ cách mạng.
Nhận thức về vai trò của vũ khí đối ngoại, kể cả trong những xu hướng mới
của thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Ngày nay ngoại giao ai thuận hơn
thì thắng”. Trong tình hình quốc tế mới, mỗi quốc gia đều có “linh hồn riêng”, có
vận mệnh riêng, và đòi hỏi phải có bản lĩnh, có chính sách đối ngoại của riêng
mình. Đây chính là cách ứng xử của một quốc gia đối với thế giới. Thành công sẽ
đến với quốc gia nào có cách ứng xử thông minh. Từ đó có thể thấy chính sách đối
ngoại có một vị trí rất lớn đối với chiến lược phát triển của một quốc gia, và chú
trọng tới các chính sách đối ngoại là một yêu cầu tối cần thiết.
4



1.1.1.2.

Truyền thống ngoại giao của dân tộc

Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam
luôn phải đối đầu với rất nhiều thiên tai địch họa. Qua những thăng trầm ấy, ngoại
giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa mang đậm bản sắc
dân tộc, vừa kết tinh những tinh hoa của nhân loại để tạo nên một bản sắc riêng
của nền ngoại giao Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam truyền thống bắt nguồn từ ý chí đấu tranh kiên cường
cho độc lập, tự do của dân tộc với nhiều tấm gương điển hình như Lý Thường
Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…và nhiều bài học sâu sắc, bổ ích về quan hệ
với lân bang, ứng xử trong đối ngoại. Lịch sử đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam đã mang lại cho ngoại giao Việt Nam tính chiến đấu
cao, bản chất hòa bình, hòa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, “lấy đại nghĩa thắng
hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
Ngoại giao Việt Nam hiện đại bắt đầu từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời và được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp dẫn dắt. Trải qua những
giai đoạn khác nhau, trong thời chiến cũng như trong thời bình, ngoại giao Việt
Nam hiện đại đã kế thừa xứng đáng truyền thống cha ông, góp phần không nhỏ vào
bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính sách đối ngoại, Việt Nam đã coi các quốc
gia trong khu vực ASEAN là đối tác quan trọng, láng giềng hữu nghị, cùng nhau
hợp tác để phát triển. Đến nay, khu vực ASEAN là một trong những ưu tiên hàng
đầu của ngoại giao Việt Nam hiện đại.

1.1.2. Những đòi hỏi bức thiết của việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh
tế đối ngoại
1.1.2.1.


Vai trò trụ cột của kinh tế đối với một quốc gia

Cùng với chính trị, văn hóa, kinh tế luôn là một trụ cột quan trọng trong việc
phát triển của mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế luôn là mối quan tâm hàng đầu của
5


các nhà hoạch định chính sách. Sự tăng trưởng của kinh tế giúp nâng cao vị thế của
quốc gia. Một đất nước mạnh về kinh tế cũng là một nước mạnh về chính trị, phát
triển về văn hóa. Một nền kinh tế phát triển không chỉ thúc đẩy giáo dục, văn hóa,
xã hội mà còn củng cố an ninh quốc gia, chính trị ổn định. Kinh tế tăng trưởng tạo
điều kiện cho đời sống nhân dân nâng cao, các lĩnh vực văn hóa – xã hội được quan
tâm phát triển. Vì vậy, phát triển kinh tế không chỉ là mục tiêu, mà còn là nhiệm vụ
của mỗi quốc gia.

1.1.2.2.

Sự phát triển của xu thế hợp tác kinh tế đối ngoại trên

thế giới
Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi
theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và
thế giới, đa phướng, đa chiều, đa lĩnh vực. Gần đây, nhiều quốc gia đã chú trọng
vào xây dựng các liên kết thương mại tự do song phương và khu vực, trong đó có
không ít quốc gia trước đây vốn chỉ dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho cơ chế đa phương
của WTO như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada… Cũng không nằm ngoài xu hướng
đó, Việt Nam ngày càng tích cực tham gia vào các liên kết thương mại trên thế giới
và khu vực, trong đó nổi bật nhất là sự tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới
WTO và sự hợp tác kinh tế với các quốc gia trong khu vực ASEAN. Đây là một
bước tiến phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới.


II. CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ ASEAN
1. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước Đổi mới
Năm 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á được thành lập tại Bangkok,
Thái Lan với sự tham gia của năm thành viên. Trong thời kỳ này, giữa các quốc gia
trong khu vực chưa hợp tác nhiều về mặt kinh tế. ASEAN chỉ tiến hành một số hoạt
động như lập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN (ASEAN CCI 1) năm
1

ASEAN Chambers of Commerce and Industry

6


1972 nhằm tham khảo ý kiến khu vực tư nhân trong hợp tác kinh tế ASEAN; lập
Ủy ban ASEAN tại Geneve năm 1973 để phối hợp chính sách chung của ASEAN,
gồm các vấn đề kinh tế; đồng thời tham gia nhiều diễn đàn khu vực và quốc tế.
Giai đoạn này, Việt Nam chưa phải là một thành viên chính thức của
ASEAN. Phải đến những năm 1975 – 1976, chúng ta mới bắt đầu khôi phục ngoại
giao và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại
giao với các tổ chức và quốc gia trên thế giới, trong đó có các quốc gia trong khu
vực ASEAN. Đây chính là tiền đề cho sự hợp tác về kinh tế đối ngoại sau này của
Việt Nam với các quốc gia trong khu vực.

2. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN sau Đổi mới
Sau Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986), khi Đảng ta đề ra chủ trương đổi mới
toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 13
ngày 20/5/1988 về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới thì ngoại
giao mới đã có bước chuyển biến quan trọng. Với chủ đề “giữ vững hòa bình phát
triển kinh tế”, Nghị quyết khẳng định: “Lợi ích cao nhất của Đảng và nhân dân ta là

phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế, vì
với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết còn đưa ra các chủ trương cụ
thể để thực hiện việc chuyển hướng về đối ngoại, trong đó có việc cải thiện quan hệ
với các nước ASEAN.
Từ sau năm 1986, quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu được cải thiện nhanh
chóng. Trong quan hệ với các nước ASEAN, qua các cuộc đối thoại và tiếp xúc
song phương và đa phương với nước ta, các nước ASEAN nhận thấy giữa ta và họ
có những lợi ích chung trong việc xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình,

7


hữu nghị và hợp tác. Tất cả các yếu tố trên đã thúc đẩy các nước ASEAN thấy cần
đẩy mạnh hơn nữa quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và tách dần
khỏi chính sách của một số nước lớn. Quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN
được khai thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN và
hội nhập khu vực sau đó. Sau khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết, “nút
thắt” đầu tiên trong quan hệ của ta với các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm
phán giữa ta và các nước ASEAN về việc gia nhập ASEAN được đẩy nhanh. Ngày
28/7/1995, chúng ta đã gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức thứ bảy
của tổ chức này.
Tham gia hợp tác vào ASEAN, Việt Nam đã hết sức nỗ lực để hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình, góp phần vào việc tăng cường hơn nữa sự hợp tác ASEAN về
kinh tế, thương mại. Việt Nam đã thành lập cơ quan AFTA quốc gia do Bộ tài
chính chỉ đạo để làm đầu mối của Việt Nam trong việc triển khai những vấn đề liên
quan đến AFTA2. Năm 1996, Việt Nam đã công bố đưa 875 mặt hàng và năm 1997
đưa thêm 621 mặt hàng vốn đã có thuế suất bằng 0-5% hoặc nhỏ hơn 20% vào thực
hiện CEPT/AFTA3, đưa tổng số lên 1496 mặt hàng. Năm 1998-1999, Việt Nam đã

đưa 3582 mặt hàng vào thực hiện CEPT/AFTA. Việt Nam đã trình danh mục nhạy
cảm hoàn thiện của mình, bao gồm 10 nhóm mặt hàng chính, bước đầu tuyên bố bỏ
23 mặt hàng ra khỏi danh mục loại trừ hoàn toàn (trong tổng số 195 mặt hàng
ASEAN đã loại khỏi danh mục này) và đơn giản hóa được một bước các biện pháp
phi thuế quan.
Bảng 1. Lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Việt Nam giai đoạn
1996 – 2006 (%)

2

ASEAN Free Trade Area

3

Hiệp định quy định việc cắt giảm thuế quan đối với việc mua bán giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á, được ký bởi
các thành viên trong khối ASEAN nhằm thiết lập mối quan hệ buôn bán tự do trong khối ASEAN (AFTA) với mục tiêu giảm
thuế nhập khẩu trên hầu hết hàng hóa buôn bán giữa các nước thành viên xuống mức tối thiểu từ 0-5%.

8


Danh 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
mục
IL

7,0

6,8

5,8


5,6

4,7

3,9

3,8

2,8

2,6

2,5

2,3

TEL

19,9

19,9

19,9

19,9

19,8

19,6


19,4

17,5

13,4

8,9

3,9

Nguồn: Bộ Tài chính Việt Nam. Trích dẫn bởi Đề án, 2006.
Chú thích:
-

IL: Danh mục cắt giảm thuế quan
TEL: Danh mục loại trừ tạm thời. Các số là mức thuế bình quân.
Theo số liệu của Bộ thương mại Việt Nam, năm 1999, Việt Nam xuất khẩu

sang các nước ASEAN 2,436 tỷ USD và nhập khẩu từ các nước 3.329 tỷ USD
trong tổng ngoại thương 11 tỷ USD của Việt Nam năm 1999. Đến thời điểm tháng
3/1999, các nước ASEAN đã đầu tư vào Việt Nam hơn 300 dự án với tổng giá trị
hơn 8,5 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng giá trị đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Việt Nam đã cùng các nước ASEAN xây dựng Nghị định thư về cơ chế giải
quyết tranh chấp và ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN tháng 11/1996,
làm cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện các
Hiệp định kinh tế ASEAN. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan đã triển khai áp dụng
Hành lang xanh (Green lane) cho các hàng hóa CEPT/AFTA. Việt Nam đã tham
gia công ước Kyodo về thủ tục hải quan, làm cơ sở đàm phán với ASEAN về điều
hòa thủ tục hải quan, tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và ký kết Hiệp định

Hải quan ASEAN và tổ chức thành công Hội nghị các Tổng cục trưởng Hải quan
ASEAN lần 3 (tháng 11/1995) tại Việt Nam.
Việt Nam đã tham gia Hiệp định khuyến khích và Bảo hộ đầu tư ASEAN và
đã cùng ASEAN soạn thảo, ký Nghị định thư sửa đổi Hiệp định tại AEM 28, tháng
8/1996, xúc tiến xây dựng và cùng các nước ASEAN thực hiện Hiệp định về khu
vực đầu tư ASEAN (AIA).
Việt Nam đã tham gia Hiệp định hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). Ba
ngành được đề nghị triển khai hợp tác AICO đầu tiên là ô tô, hóa chất và dệt.
9


Trong chương trình Hành động Hà Nội được thông qua tại Hội nghị cấp cao
ASEAN VI (tháng 12/1998) Việt Nam đã đưa ra sáng kiến về hợp tác phát triển các
vùng nghèo liên quốc gia dọc hàng lang Đông – Tây thuộc lưu vực sông Mekong ở
Việt Nam, Lào, Campuchia và Đông Bắc Thái Lan nhằm góp phần xóa đói giảm
nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước và các vùng trong Hiệp hội
ASEAN.
Trên cơ sở đó, Việt Nam đã đưa ra dự án phát triển hành lang Đông – Tây tại
lưu vực sông Mekong (WEC), và Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN, tháng
9/1999, tại Singapore, đã thông qua đề nghị lập Nhóm công tác về chương trình này
trong khuôn khổ Ủy ban hợp tác kinh tế và công nghiệp ASEAN – MITI (Nhật
Bản). Việt Nam được cử làm chủ tịch nhóm.
Hiện nay, cùng với các thành viên khác trong Hiệp hội, Việt Nam đang nỗ
lực xây dựng nên một cộng đồng kinh tế chung, đạt mục tiêu xây dựng thành công
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC4) vào năm 2015.

3. Đánh giá chung về chính sách kinh tế đối ngoại Việt Nam – ASEAN
Quan tâm đến phát triển kinh tế luôn là một hướng đi đúng đắn của mỗi quốc
gia. Có thể thấy rằng, sau Đổi mới, Việt Nam đã chú trọng hơn đến việc hoạch định
chính sách kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng. Nếu để so

sánh, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN sau Đổi mới mạnh mẽ và tích cực
hơn thời kỳ trước Đổi mới. Điều đó thể hiện rằng kinh tế và chính trị luôn có một
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước Đổi mới, đặc biệt là những năm 60 (thời
điểm thành lập tổ chức ASEAN), cuộc chiến tranh của Mỹ tiến hành ở Việt Nam
đang ở giai đoạn cao trào và có sự tham gia của một số nước ASEAN. Lúc này giữa
Việt Nam và ASEAN dường như không có quan hệ với nhau, vì thế sự hợp tác kinh
tế cũng chưa đáng kể. Vào những năm 1970, quan hệ Việt Nam – ASEAN dần
được thiết lập và phát triển. Các bên đã bàn về vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh
chính trị... Tuy nhiên, đến cuối những năm 70, nổi bật là các sự kiện liên quan đến
4

ASEAN Economic Community

10


Campuchia đã làm quan hệ hai bên xấu đi, thậm chí là đối đầu. Quan hệ hợp tác
kinh tế cũng bị ảnh hưởng và hạn chế. Sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới đất
nước, và kinh tế là một lĩnh vực hết sức được quan tâm. Đường lối đối ngoại: “Việt
Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” là nhân tố tích cực thúc
đẩy việc Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Quan hệ Việt Nam – ASEAN
bước sang một trang mới.
Sau Đổi mới, Việt Nam đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế song phương và
đa phương, đặc biệt là quan tâm đến các nước ASEAN. Đây là một chính sách linh
hoạt và hợp thời. Việc Việt Nam đặt cao vị trí quan hệ hợp tác hữu nghị với các
nước ASEAN không chỉ đáp ứng yêu cầu tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo những lợi
ích chiến lược thiết thân. Quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện những quan
điểm đúng đắn trong chính sách kinh tế đối ngoại với ASEAN đã góp phần tăng
trưởng kinh tế và nâng cao vị thế, quan hệ Việt Nam với các nước lớn. Thành công

trong quan hệ với ASEAN trở thành một trong những thắng lợi nổi bật của ngoại
giao Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới, cũng là nhân tố quan trọng thúc đẩy quan hệ
ngoại giao không ngừng mở rộng. Vị thế đất nước đang ngày càng được nâng cao
và hứa hẹn sẽ còn có những bước phát triển trong tương lai. Chính sách kinh tế đối
ngoại của Việt Nam với ASEAN là đúng đắn, hợp lý và có vai trò tích cực đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
Tại hội thảo khoa học với chủ đề: “Việt Nam – ASEAN: Quá khứ - Hiện tại
– Tương lai” bàn về Việt Nam trước và sau khi gia nhập ASEAN, những thành tựu
và hạn chế của hợp tác ASEAN, phó Thủ tướng – Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm
Gia Khiêm nhấn mạnh: “Gia nhập ASEAN là một trong những quyết sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới,
góp phần nâng cao vị thế chiến lược của Việt Nam”.

11


III. THÀNH TỰU VIỆT NAM ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC TRONG MỞ RỘNG HỢP
TÁC KINH TẾ VỚI ASEAN – XU HƯỚNG HỘI NHẬP KINH TÊ KHU
VỰC TRONG TƯƠNG LAI
1. Thành tựu của Việt Nam
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong những năm qua đã có những
chuyển biến tích cực góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng một đất nước công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phát triển mạnh mẽ và thu được nhiều thành tựu to
lớn nhất.
Kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN, kim ngạch
trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã tăng lên nhanh chóng,
đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng như các nước thành
viên của Hiệp hội.

Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, tổng giá trị trao đổi hàng hóa
giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong hai quý đầu năm 2010 tăng 23,9% so với
cùng kỳ năm trước và chiếm 18% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước.
Trong số các nước ASEAN, Singapore luôn là đối tác lớn nhất với tổng trị giá trao
đổi giữa hai nước là 3,25 tỷ USD. Tiếp theo là Thái Lan: 3,12 tỷ USD và Malaysia:
2,43 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong
sáu tháng đầu năm 2010 đạt hơn 5,24 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009
và chiếm 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường ASEAN
vẫn là gạo và dầu thô với trị giá chiếm xấp xỉ 37% tổng kim ngạch hàng hóa Việt
Nam xuất khẩu sang thị trường này. Tuy nhiên hai mặt hàng này đều đạt tốc độ tăng
trưởng âm trong sáu tháng đầu năm.
Con số nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Việt Nam thời gian qua cũng cho
thấy Việt Nam đang nhập siêu từ khu vực này. Việt Nam nhập khẩu từ khu vực này
12


chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu, nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuât trong
nước như: xăng dầu các loại, máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng, máy vi tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện, chất dẻo nguyên liệu, giấy… Trị giá bốn nhóm hàng
này chiếm hơn 37% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ ASEAN. Như vậy
thị trường ASEAN được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng cho xuất khẩu của
Việt Nam.

2. Xu hướng hội nhập kinh tế khu vực trong tương lai
Việc tham gia vào ASEAN mang lại cho chúng ta những cơ hội và cả những
thách thức không nhỏ. Có những thắc mắc, những ý kiến e ngại về khả năng của
Việt Nam – một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so với các nước trong
khu vực lúc bấy giờ? Tham gia vào ASEAN, một mặt giúp gia tăng các liên kết với

nhiều đối tác thương mại quan trọng, mặt khác góp phần tạo ra động lực để chuyển
đổi kinh tế trong nước theo hướng tập trung khai thác các mặt hàng có định hướng
và thế mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên thách thức đặt ra đó là có thể nảy sinh ra sự thiên
lệch bất lợi trong cán cân thương mại. Nguyên nhân là cơ cấu xuất khẩu của nước
ta chủ yếu dựa trên các nông sản chưa chế biến, khoáng sản và một số sản phẩm
công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, hóa mỹ phẩm. Đây là những mặt hàng có
hàm lượng giá trị gia tăng thấp, giá cả không ổn định và khó mang đến một lợi ích
bền vững và làm đà cho sự tăng trưởng. Bên cạnh đó, là một quốc gia đang phát
triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi, sự đổi mới cơ cấu kinh tế kinh tế có thể
gặp phải những trở lực nhất định do sự kém linh hoạt của các yếu tố sản xuất, làm
giảm tốc độ đổi mới và tái cơ cấu kinh tế trong nước, dẫn tới sự đình trệ, thất
nghiệp và các tổn thất khác. Đứng trước tình hình đó, sự chủ động chính là nhân tố
quan trọng nhất. Việt Nam cần thiết thể hiện mình như một nền kinh tế năng động,
tiếp tục tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm rút ngắn thời gian chuyển đổi nền
kinh tế, tạo lập một môi trường kinh doanh, đầu tư hấp dẫn, thuận lợi cho các doanh
nghiệp và các nhà đầu tư quốc tế./.
13


TỔNG KẾT

Có thể nói rằng, 15 năm là khoảng thời gian không dài so với chiều dài
lịch sử của dân tộc, nhưng Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò và tầm
quan trọng của mình trong ASEAN. 15 năm gắn bó và đồng hành cùng ASEAN,
Việt Nam đã chủ động tham gia, đóng góp tích cực vì sự phát triển và lớn mạnh
của Hiệp hôi, đồng thời thu được những lợi ích thiết thực để hỗ trợ cho công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những thành tựu đạt được của Việt Nam
trong thời kỳ Đổi mới đã khẳng định sự đúng đắn của chính sách kinh tế đối
ngoại quốc gia. Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào các diễn đàn hợp tác
kinh tế ASEAN, và thực tế chính sách kinh tế đối ngoại này đã đạt được những

thành công đáng ghi nhận. Cùng với phát triển kinh tế, sự tích cực, chủ động hội
nhập khu vực và thế giới, vị thế của Việt Nam đang ngày càng được khẳng định.
Việt Nam đang là một trong những quốc gia tiên phong, đi đầu trong ASEAN.
Trong vai trò chủ tịch ASEAN năm 2010, Việt Nam đã và đang thực hiện tốt vai
trò của mình khi tham gia các diễn đàn quốc tế quan trọng như Hội nghị Bộ
trưởng ngoại giao ASEAN – EU, Hội nghị ASEAN – Hội đồng hợp tác vùng
Vịnh, Diễn đàn kinh tế thế giới Đông Á… Nỗ lực và tích cực, Việt Nam đang cố
gắng nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của mình, đề cao hình ảnh một nước Việt
Nam đổi mới và năng động, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hợp tác và phát triển. Đó chính là minh chứng rõ nét nhất về đường lối đối ngoại
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là một bộ phận hữu cơ, không tách rời của ASEAN, Việt Nam sẽ tiếp tục
đồng hành cùng ASEAN, cùng hướng tới tương lai tươi sáng của Cộng đồng.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 13 ( 20/5/1988) - Bộ Chính trị
2. “Chính sách đối ngoại Việt Nam 1975-2006” – Tài liệu tham khảo phục
vụ giảng dạy, Học viện Quan hệ quốc tế, TS Nguyễn Vũ Tùng (biên
soạn)
3. “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002)”, Học
viện Quan hệ quốc tế, TS Vũ Dương Huân (chủ biên)
4. “Hợp tác kinh tế Việt Nam với ASEAN và ASEAN mở rộng” (Bộ sách
hội nhập kinh tế quốc tế), NXB Công thương, năm 2010
5. “Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN +3”, Viện khoa học xã hội
Việt Nam – Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội,
Nguyễn Thu Mỹ (chủ biên)
6. “AFTA và ảnh hưởng đối với nền kinh tế Việt Nam”, Nguyễn Hữu Đạt,

Tạp chí nghiên cứu quốc tế, năm 1997
7. “Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020” – NXB Chính
trị quốc gia, Nguyễn Bình Minh (chủ biên)
8. Bài viết “Quan hệ Việt Nam – ASEAN và những vấn đề đặt ra trong
tương lai” của tác giả Nguyễn Phương Bình
9. Trang web chính thức của Học viện ngoại giao Việt Nam:
hocvienngoaigiao.org.vn
10.Trang web “Việt Nam tôi yêu và tự hào”: netdepviet.org
11.Trang web Thông tấn xã Việt Nam: vietnamplus.vn

15



×