Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của các hình thức tổ chức sản xuất tôm sú lúa luân canh ở sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.86 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

DƯƠNG THỊ NGỌC TRANG

PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT TÔM SÚLÚA LUÂN CANH Ở SÓC TRĂNG

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ THỦY SẢN

2014
1


PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KỸ THUẬT VÀ TÀI CHÍNH CỦA
CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT TƠM SÚ-LÚA LN CANH
Ở SÓC TRĂNG
Dương Thị Ngọc Trang
Khoa Thủy Sản - Trường Đại Học Cần Thơ
Email:
ABSTRACT
This study aims to analyze the technology, financial aspects and find out advantages
and disadvantages of rotational rice-shrimp farming systems in the cooperative and
private households in order to improve the sustainability of this farming system. The
study was conducted from August to December in 2014 through interviewing 30
households in rice-shrimp cooperative and 30 private households. The results
showed that the survival rate and a average yield of shrimp of the cooperatives were
44,2% and 534kg/ha/crop, higher than ones of the private households (36.4% and
222 kg/ha/crop. The culture period and shrimp harvest size of shrimp of the
cooperative was 121 day and 51.8 shrimps/kg, meanwhile those of the private


household are 93 days and 91.0 shrimp/kg. Profit and B/C ratio of the cooperative
(48.6 million VND/ha/crop; 0.85 times) were higher than those of private households
(20.5 million VND/ha/crop; 0.63 times). The percentages farms fail in getting benefit
are 6.67% for the cooperative and 56.7% for the private households.
Keywords: rice-shrimp farming system, cooperative, financial, technical
Title: Analysis of technical and financial aspects of the rotational rice-shrimp
farming systems of different firms in Soc Trang province
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm phân tích hiệu quả kỹ thuật và tài chính của mơ hình tơm súlúa ln canh của các nơng hộ tham gia tổ hợp tác (THT) và hộ không tham gia THT
nhằm xác định những thuận lợi và khó khăn làm cơ sở đề xuất một số giải pháp cho
mơ hình phát triển bền vững. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 12
năm 2014 thông qua phỏng vấn 30 hộ trong THT và 30 hộ nông hộ không tham gia
THT. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống và năng suất tơm trung bình của các hộ
tham gia THT là 44,2% và 534 kg/ha/vụ, cao hơn các nông hộ không tham gia
(36,4%; 222 kg/ha/vụ). Thời gian nuôi trung bình và kích cỡ thu hoạch của các hộ
tham gia THT là 121 ngày và 51,8 con/kg trong khi các hộ khơng tham gia có thời
gian ni là 93 ngày và 91,0 con/kg. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của hộ tham gia
THT (48,6 triệu đồng/ha/vụ; 0,85 lần) cao hơn hộ không tham gia (20,5 triệu
đồng/ha/vụ; 0,63 lần). Tỷ lệ số hộ thua lỗ của hộ tham gia THT là 6,67% thấp hơn
các nông hộ không tham gia (56,7%).
Từ khóa: mơ hình tơm-lúa ln canh, tổ hợp tác, tài chính, kỹ thuật
2


1 GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) với nhiều vùng sinh thái đa dạng, đặc biệt nơi
đây có những vùng đất nhiễm mặn theo mùa, nơi mà lúa được trồng vào mùa mưa và
tôm sú nuôi trong mùa khơ. Đối với Sóc Trăng, đây là tỉnh có lợi thế về địa lý, điều
kiện thổ nhưỡng, nguồn nước cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa

dạng. Trong đó, thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh do có thể phát triển
ni trồng thủy sản ở cả 3 vùng sinh thái nước mặn, lợ và ngọt. Hiện nay, việc trồng
một vụ lúa rồi kết hợp luân canh với một vụ tôm được xem là mô hình mang tính bền
vững cao về mặt sinh thái mơi trường. Theo Cục Trồng trọt, Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn, trong khoảng 5 năm gần đây hệ thống canh tác tôm-lúa (T-L)
đã phát triển mạnh ở nhiều tỉnh ven biển ĐBSCL, từ 89.495 ha (năm 2000) đã tăng
lên 153.482 ha (năm 2011), ước đạt 180.000 ha vào năm 2015. Trong đó, Sóc Trăng
là tỉnh có diện tích ni tôm sú-lúa phát triển từ năm 1993 với 917 ha, đến năm 2013
lên đến 9.919 ha. Hệ thống canh tác T-L có tính thân thiện mơi trường cao hơn các
hệ thống chuyên canh vì dễ dàng áp dụng giải pháp “quản lý tổng hợp”, giảm nhu
cầu sử dụng các loại hóa chất trong sản xuất lúa, ít gây hại đến mơi trường tự nhiên.
Mơ hình được thực hiện theo hình thức nông hộ tham gia các Tổ hợp tác (THT) hay
khơng tham gia THT. Tuy nhiên vẫn cịn tồn tại nhiều khó khăn như rủi ro cao, dịch
bệnh nhiều, giá cả thị trường khơng ổn định. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào phân
tích sự khác biệt cũng như tính hiệu quả của hai hình thức tổ chức sản xuất này. Vì
vậy, nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật và tài chính của hai hình thức tổ chức sản xuất tơm
sú-lúa ln canh này ở Sóc Trăng nhằm cung cấp thơng tin để nâng cao hiệu quả sản
xuất, góp phần phát triển mơ hình bền vững là rất cần thiết.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 8 đến tháng 12/2014 tại xã Hịa Tú I, huyện
Mỹ Xun, tỉnh Sóc Trăng. Nội dung nghiên cứu bao gồm: (1) Phân tích các khía
cạnh kỹ thuật của mơ hình T-L đối với các hộ tham gia THT và không tham gia
THT; (2) Phân tích và so sánh hiệu quả tài chính của hai hình thức tổ chức sản xuất;
(3) Phân tích những thuận lợi, khó khăn và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất của mơ hình T-L ở Sóc Trăng.
2.2 Phương pháp thu số liệu
Số liệu thứ cấp được tổng hợp từ các báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, các cơ quan ban ngành địa phương cấp huyện trên địa bàn nghiên cứu.
Nội dung thơng tin gồm cáo báo tình hình và kế hoạch phát triển thủy sản và số liệu

thống kê.
Số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp cán bộ chủ chốt và nông
hộ.
3


(1) Phỏng vấn cán bộ chủ chốt từ các cấp- ngành, tổ chức như: Chi cục Thủy
sản, Trung tâm khuyến ngư; Lãnh đạo các xã; Lãnh đạo các THT. Nội dung phỏng
vấn gồm: Tình hình tài chính - kỹ thuật mơ hình T-L nói chung; thuận lợi, khó khăn
của các hình thức sản xuất cá thể và THT; tổ chức hoạt động và hiệu quả của các mơ
hình THT, đề xuất phát triển mơ hình.
(2) Phỏng vấn nơng hộ: phỏng vấn trực tiếp 30 nông hộ tham gia các THT, và
30 nông hộ không tham gia THT bằng bảng câu hỏi được soạn sẵn. Các thơng tin
chính được thu thập là: (1) Thơng tin chung: Tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm
ni tơm; (2) Kỹ thuật: diện tích ni, mật độ thả, thời gian nuôi, cỡ tôm thu hoạch,
năng suất; (3) Tài chính: chi phí, danh thu, lợi nhuận và (4) những thuận lợi và khó
khăn.
Một số cơng thức tính hiệu quả tài chính được sử dụng như sau:
Tổng chi phí = Tổng chi phí khấu hao + Tổng chi phí biến đổi
Lợi nhuận = Doanh thu - Tổng chi phí
Tỉ suất lợi nhuận = Tổng lợi nhuận/Tổng chi phí
2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu:
Số liệu sau khi thu thập được nhập vào máy tính, xử lý bằng phần mềm Excel và
SPSS với các phương pháp:
Phương pháp thống kê mô tả (tần suất, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn) để mơ
tả các thơng tin về nơng hộ, các chỉ tiêu kỹ thuật và tài chính trong mơ hình.
Phương pháp kiểm định thống kê (T-test) để so sánh sự khác biệt giữa các chỉ
tiêu kỹ thuật và tài chính ở 2 hình thức tổ chức sản xuất.
3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
3.1 Tình hình chung về mơ hình tơm lúa ln canh ở Sóc Trăng

Huyện Mỹ Xun tỉnh Sóc Trăng nói chung và xã Hịa Tú I nói riêng có điều kiện
khí hậu, thổ nhưỡng và nguồn nước rất thích hợp để canh tác một vụ tơm sú luân
canh với một vụ lúa trên cùng một diện tích đất. Hầu hết các nơng hộ ở xã Hịa Tú
bắt đầu thả tôm sú trên đất trồng lúa vào những năm 1992-1993, cịn trước đó các hộ
chỉ độc canh một vụ lúa vào mùa mưa với nước ngọt, còn mùa khơ khi nước trên
sơng bị nhiễm mặn thì đất bị bỏ trống, điều này gây lãng phí tài nguyên rất lớn.
Độ tuổi trung bình của chủ hộ tham gia THT là 49 tuổi, của hộ không tham gia THT
là 50 tuổi, khác nhau không lớn. Hầu hết (100%) các hộ là có đất sở hữu. Đây là một
thuận lợi vì sẽ tiết kiệm được chi phí th đất, nâng cao mức thu nhập cho nông hộ.
Do đặc thù trong ni trồng thủy sản nên lao động chính chủ yếu là nam giới, nữ giới
thường chỉ giúp người nam trong việc chăm sóc và quản lý tơm. Số lao động trong
gia đình trực tiếp tham gia mơ hình của hộ tham gia THT là 2,37 người, của hộ
không tham gia là 2,23 người. Đa số các hộ nuôi T-L luân canh ở xã Hòa Tú huyện
Mỹ Xuyên sử dụng lao động gia đình là chủ yếu. Kinh nghiệm của hộ sản xuất T-L
4


trung bình là 17 năm đối với hộ tham gia THT, với hộ không tham gia là 19 năm.
Kinh nghiệm nuôi là yếu tố rất quan trọng với người nuôi tơm. Những hộ có kinh
nghiệm lâu năm sẽ có nhiều lợi thế vì họ thành thạo hơn trong việc chăm sóc tơm,
chế độ thay nước và khẩu phần ăn hợp lý, đặc biệt phán đốn trước tình hình và khắc
phục trước một bước, vì vậy ít nhiều tránh được những rủi ro xảy ra dịch bệnh, tôm
chết bất thường.
Bảng 1: Đặc điểm nơng hộ của hai mơ hình
Chỉ tiêu
Tuổi của chủ hộ NTTS (tuổi)
Số lao động tham gia mơ hình (người)
Số năm kinh nghiệm (năm)

Tham gia THT Không tham gia THT

49±13
50±12
2,37±0,96
2,23±0,77
18±5
19±5

Qua khảo sát cho thấy trình độ học vấn của các hộ nuôi T-L luân canh khá thấp, tuy
nhiên không có hộ nào mù chữ. Số chủ hộ có trình độ tiểu học chiếm tỉ lệ cao nhất là
56,7% đối với hộ khơng tham gia THT, trình độ trung học cơ sở đạt 33,3% và chỉ
10% có trình độ trung học phổ thơng, khơng có chủ hộ nào có trình độ trung cấp trở
lên. Đối với chủ hộ tham gia THT, trình độ trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất
53,3%, trình độ tiểu học đạt 33,3%, trình độ phổ thơng đạt 10% và chỉ có 1 chủ hộ
có trình độ cao đẳng đạt 3,3%. Tại khu vực khảo sát, khơng có chủ hộ nào có trình
độ trung cấp hay đại học. Đây là một hạn chế trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật
và công nghệ mới vào ứng dụng sản xuất.
3.3 So sánh thông tin kỹ thuật và hiệu quả tài chính của hai hình thức tổ chức
sản xuất
3.2.1 Các chỉ tiêu kỹ thuật
Diện tích mơ hình ni: Đa số các nơng hộ có diện tích đất nhỏ hơn 1 ha có 1 ao/1
vng canh tác T-L, số hộ này chiếm 60,0% đối với hộ tham gia THT và 53,3% đối
với hộ khơng tham gia. Diện tích đất trung bình của các hộ tham gia THT là 1,42 ha
lớn hơn so với các hộ không tham gia (1,25 ha). Trong đó diện tích trung bình của
khu vực canh tác T-L là 1,04 ha, chiếm 73,2% tổng diện tích của hộ đối với hộ tham
gia THT và 1 ha, chiếm 80,0% đối với hộ không tham gia. Đặc biệt một số hộ có
diện tích mương bao 100%. Về thiết kế, tỷ lệ diện tích mương bao chiếm 30%. Tỷ lệ
diện tích mương bao có vai trị quan trọng vì giúp tơm sú tránh nắng vào ban ngày,
dễ kiểm sốt tơm tăng trọng.
Ao lắng: Đối với nhóm hộ tham gia THT có 16,7% số hộ ni tơm khơng thay nước,
cịn với các hộ khơng tham gia thì có tới 26,7%. Điều đáng quan tâm là chỉ có 6,7%

số hộ không tham gia THT sử dụng nước từ ao lắng, trong khi đó các hộ trong THT
có tỉ lệ này cao hơn (60,0%). Đa số người dân không quan tâm việc sử dụng ao lắng,
diện tích đất ít cũng là một lý do. Chính vì vậy mà mỗi khi có dịch bệnh dễ lây lan
sang các ao của hộ khác do cùng lấy nước trực tiếp từ ngồi sơng.

5


Chuẩn bị ruộng nuôi: sau khi thu hoạch lúa, dọn hết gốc rạ, ruộng được cải tạo bằng
cách tháo nước cho ra vô tự nhiên để rửa phèn và vệ sinh mặt ruộng, hút hết lớp bùn
đáy đối với mương bao, sửa lại bờ cho chắc chắn, rải vôi CaO với liều lượng 50-100
kg/1.000m², diệt tạp, lấy nước vào và gây màu nước trước khi thả tôm giống. Một số
hộ cịn lót bạt xung quanh bờ để hạn chế xói lỡ và giữ nước trong q trình ni.
Mùa vụ: Do đất canh tác ở đây bị nhiễm mặn theo mùa, bắt đầu từ cuối tháng 12 đến
tháng 7 năm sau với độ mặn biến động từ 2‰-17‰. Tùy thuộc vào lượng mưa hằng
năm mà độ mặn sẽ khác nhau. Mùa vụ thả nuôi tôm thường bắt đầu từ tháng 1 đến
tháng 2 cho đến tháng 6 thì bắt đầu thu hoạch và kết thúc vào cuối tháng 7.
Con giống và thả giống: Con giống là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến năng
suất và tỉ lệ sống của tôm. Đa số hộ nuôi mua giống tại các trại giống ngoài tỉnh, chủ
yếu là Bạc Liêu, chiếm 73,3% đối với hộ tham gia THT, 70,0% đối với hộ không
tham gia; số hộ mua giống tại các trại giống trong tỉnh thả ni chiếm tỷ lệ ít và chủ
yếu là từ trại giống Nhu Gia. Theo điều tra, có rất ít hộ nuôi ương giống trước khi thả
nuôi. Thời gian ương trung bình ở cả hai hình thức là 25 ngày.
Mật độ tơm ni được thả khá thưa, trung bình 5,6 con/m2, dao động 3-10 con/m2
với hộ tham gia THT và trung bình 5,3 con, dao động 3-9 con/m2 đối với các hộ
không tham gia THT. Kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Công Thành và ctv (2012) thì mật độ ni tơm lúa khu vực bán đảo Cà Mau trung
bình là 5,14 con/m². Mật độ nuôi phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật, khả năng quản lý
và tài chính của từng nơng hộ.
Chăm sóc - cho ăn: Mực nước trên trảng ruộng thường được duy trì ở mức 0,38m,

độ sâu mương bao so với mặt ruộng là 1,12m. Đối với cho ăn, 100% số hộ sử dụng
thức ăn công nghiệp dạng viên. Lượng thức ăn trung bình của các hộ tham gia THT
là 654 kg/ha/vụ, của các hộ không tham gia là 319 kg/ha/vụ, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p<0,05). Các hộ có lượng thức ăn thấp là do tơm chết sớm buộc phải
thu hoạch sớm, ngược lại một số hộ có lượng thức ăn cao là do nuôi tôm với thời
gian dài. Hệ số tiêu tốn thức ăn cuả các hộ tham gia THT là 1,44 và của các hộ không
tham gia THT là 1,49. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của Phạm Minh Đức
và Huỳnh Văn Hiền (2013) với FCR của mơ hình ni T-L của những hộ khơng bị
bệnh trung bình là 1,8 những hộ có bị bệnh là 1,9.
Thời gian nuôi tôm: Thời gian nuôi của các hình thức sản xuất dao động khá lớn, từ
30 đến 200 ngày. Thời gian ni tơm trung bình của các hộ tham gia THT là 121
ngày với kích cỡ thu hoạch trung bình là 51,8 con/kg và của các hộ khơng tham gia
THT là 93 ngày với kích cỡ 91 con/kg, khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Nguyên nhân là do nuôi tôm không lớn, tôm bị bệnh, chủ yếu là bệnh đốm trắng,
hoại tử gan tụy nên giải pháp của các hộ nuôi là thu hoạch sớm và bán với giá rất
thấp, dẫn đến thua lỗ. Mặt khác, thời gian ni tơm cịn tùy thuộc vào nhiều yếu tố
khác như kỹ thuật nuôi tôm để đạt kích cỡ thương phẩm, nhu cầu về cỡ tơm và giá cả
từng cỡ tôm của thị trường mà người nuôi chọn thời điểm thu hoạch.
6


Thu hoạch: Tỷ lệ sống trung bình của tơm khá thấp, chỉ có 36,4% đối với hộ khơng
tham gia THT, các hộ tham gia THT có tỷ lệ sống của tơm cao hơn (44,2%), tuy
nhiên khác biệt này khơng có ý nghĩa thống kê. Trong đó, các hộ tham gia THT có tỷ
lệ sống cao nhất là 90% và tỷ lệ sống thấp nhất là của các hộ không tham gia THT
chỉ có 7%.
Năng suất tơm trung bình của các hộ nuôi tham gia THT cao hơn rất nhiều so với các
hộ không tham gia, lần lượt là 554 kg/ha và 222kg/ha, khác biệt này có ý nghĩa thống
kê. Kết quả này cao hơn so với năng suất tôm nuôi của mơ hình tơm lúa được khảo
sát trước đây là 172,8±157,1 kg/ha/vụ (Nguyễn Công Thành và ctv., 2012).

Bảng 2: Các chỉ tiêu kỹ thuật chính của hai hình thức tổ chức sản xuất
Tham gia THT
(n=30)
1,42±0,64
1,04±0,61
121±29,5a
5,6±2,0
93,2±7,5
51,8±25,9a
PL12-PL17
44,2±20,9
534±406a
654±434a
1,44±0,21
60,0
60,0

Chỉ tiêu
Tổng diện tích đất (ha/hộ)
Diện tích mặt nước ruộng ni (ha/hộ)
Thời gian ni (ngày/vụ)
Mật độ thả (con/m2)
Giá giống bình qn (đồng/con)
Kích cỡ thu hoạch (con/kg)
Kích cỡ con giống (PL)
Tỉ lệ sống (%)
Năng suất (kg/ha)
Lượng thức ăn (kg)
Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) (lần)
Tỷ lệ hộ có ương giống trước khi thả (%)

Tỷ lệ hộ có sử dụng nước từ ao lắng (%)

Khơng tham gia THT
(n=30)
1,25±0,61
1,00±0,51
93±26,9b
5,3±1,6
89,0±8,7
91,0±51,6b
PL12-PL17
36,4±23,3
222±163b
319±340b
1,49±0,24
23,3
6,67

Ghi chú: Các chữ cái trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05)

3.2.2 Phân tích hiệu quả tài chính của hai hình thức tổ chức sản xuất
Tổng chi phí: Thơng số tài chính là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tính hiệu quả
của các hoạt động sản xuất. Qua khảo sát cho thấy tổng chi phí trung bình của các hộ
tham gia THT là 47,0 triệu đồng/ha/vụ cao hơn các hộ không tham gia (26,3 triệu
đồng/ha/vụ), khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên, về giá thành sản
xuất thì các hộ tham gia THT thấp hơn các hộ không tham gia, lần lượt là 93.667
đồng/kg và 100.364 đồng/kg. Nguyên nhân là do năng suất thu hoạch của các hộ
tham gia THT cao hơn, đồng thời quản lý tốt các khâu trong q trình ni góp phần
hạ giá thành. Tổng chi phí sản xuất của các hộ tham gia THT cao hơn các hộ không

tham gia chủ yếu là do chi phí biến đổi cao hơn, chi phí biến đổi trung bình lần lượt
là 44,2 triệu đồng/ha/vụ, chiếm 94,0%; 23,7 triệu đồng/ha/vụ,chiếm 90,1% và khác
biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Chi phí cố định: Chi phí cố định có ảnh hưởng đến tổng chi phí nhưng không cao.
Do ở thời điểm điều tra hộ nuôi đã khấu hao hết chi phí đào ao và thường sau 4 năm,
7


các hộ nuôi thuê máy ủi lại ao, sên vét, sửa lại bờ cho chắc chắn nên chi phí cố định
chỉ bao gồm chi phí cho việc sên vét với thời gian khấu hao là 4 năm, máy bơm và
cống cấp thoát nước với thời gian khấu hao 10 năm.
Chi phí biến đổi: Trong chi phí biến đổi thì chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao nhất,
trung bình của các hộ tham gia THT là 30,6 triệu đồng/ha/vụ chiếm 69,2%, cao hơn
các hộ khơng tham gia với chi phí thức ăn trung bình là 14,0 triệu đồng/ha/vụ chiếm
59,1%. Hộ có chi phí thức ăn cao nhất là 125 triệu đồng/ha/vụ với thời gian ni khá
dài 200 ngày có tỉ lệ sống 65% thuộc THT, trong khi hộ có chi phí thức ăn thấp nhất
là 2,43 triệu đồng/ha/vụ với thời gian nuôi 90 ngày với tỉ lệ sống thấp nhất 7% thuộc
hộ khơng tham gia THT. Chi phí cao thứ hai sau chi phí thức ăn là chi phí con giống,
chiếm 11,4% đối với các hộ nuôi tham gia THT và 16,5% đối với các hộ không tham
gia. Các hộ ni trong THT chọn con giống với giá giống bình quân 93,2 đồng/con
cao hơn các hộ không tham gia (89 đồng/con), tuy giá cao nhưng con giống chất
lượng sẽ cho năng suất cao hơn. Chi phí cho thuốc và hóa chất chiếm tỉ lệ tương đối
thấp, trung bình là 3,74 triệu đồng/ha/vụ chiếm 8,46% đối với các hộ tham gia THT
và 1,89 triệu đồng/ha/vụ chiếm 7,97% của các hộ không tham gia THT. Chi phí khác
bao gồm chi phí điện cho máy bơm, chi phí điện thoại, chi phí vận chuyển, những chi
phí này chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Tại khu vực khảo sát, các hộ nuôi chủ yếu sử dụng lao
động gia đình để quản lý và chăm sóc tôm, thương lái tự thu hoạch nên tiết kiệm
được chi phí nhân cơng.
Doanh thu: Tổng doanh thu trung bình của các hộ tham gia THT là 95,6 triệu
đồng/ha/vụ cao hơn và có khác biệt đáng kể so với các hộ khơng tham gia chỉ có 46,7

triệu đồng/ha/vụ. Đồng thời tỉ suất lợi nhuận của các hộ tham gia THT cao hơn
không tham gia, lần lượt là 0,85 lần và 0,63 lần, chênh lệch này có ý nghĩa thống kê.
Đối với mơ hình, ngồi việc ni tơm hiệu quả đạt năng suất cao thì giá bán có ảnh
hưởng rất lớn đến doanh thu. Giá bán tơm trung bình của các hộ tham gia THT là
160 ngàn đồng/kg, của các hộ không tham gia là 110 ngàn đồng/kg. Sự khác biệt này
phụ thuộc vào kích cỡ tơm thu hoạch, chất lượng tơm thương phẩm và đặc biệt là
thời điểm thu hoạch
Lợi nhuận: Lợi nhuận bình quân trên 1 ha mặt nước của các hộ tham gia THT là
48,6 triệu đồng, cao hơn đáng kể so với các hộ không tham gia THT chỉ có 20,5 triệu
đồng. Lợi nhuận cao nhất của hộ nuôi tham gia THT lên đến 324 triệu đồng/ha/vụ
trong khi lợi nhuận cao nhất của các hộ không tham gia THT chỉ có 87,3 triệu
đồng/ha/vụ. Sự khác biệt này phụ thuộc vào tính hiệu quả trong q trình quản lý và
sản xuất của mỗi hình thức.

8


Bảng 3: Đặc điểm chi phí và lợi nhuận của hai hình thức tổ chức sản xuất
Tham gia THT
(n=28)
2,78±0,41
2,00±0,00
0,49±0,26
0,29±0,16
44,2±27,5a
4,07±1,29
30,6±23,4
5,06±1,99
3,74±2,37
0,80±0,56

47,0±27,8a
95,6±89,9a
48,6±63,9a
0,85±0,53
93.667±20.740

Chỉ tiêu
1.CP khấu hao (triệu đồng/ha/vụ)
- Sên vét (triệu đồng/ha/vụ)
- Máy bơm (triệu đồng/ha/vụ)
- Cống cấp thoát nước (triệu đồng/ha/vụ)
2.CP biến đổi (triệu đồng/ha/vụ)
- Cải tạo (triệu đồng/ha/vụ)
- Thức ăn (triệu đồng/ha/vụ)
- Giống (triệu đồng/ha/vụ)
- Thuốc và hóa chất (triệu đồng/ha/vụ)
- Khác (triệu đồng/ha/vụ)
3.Tổng CP (triệu đồng/ha/vụ)
4.Tổng doanh thu
5.Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ)
6.Tỉ suất lợi nhuận (LN/CP) (lần)
7.Giá thành (đồng/kg)

Không tham gia
(n=13)
2,53±0,20
2,00±0,00
0,31±0,14
0,21±0,10
23,7±11,0b

3,56±0,93
14,0±9,7
3,92±1,24
1,89±0,95
0,36±0,16
26,3±11,0b
46,7±37,2b
20,5±28,7b
0,63±0,62
100.364±27.645

Ghi chú: Các chữ cái trên cùng một hàng có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Các thơng tin tài chính được tính dựa trên số liệu các hộ ni thu hoạch có lời.

3.3 Khía cạnh kỹ thuật và tài chính từ trồng lúa của hai hình thức tổ chức sản
xuất
Vụ lúa thường bắt đầu từ trung tuần tháng 8 đến tháng 12 (dương lịch). Giải pháp
chủ yếu để khắc phục sự ảnh hưởng của việc đất bị nhiễm mặn do vụ tơm trước đó
bằng cách tăng cường công tác rửa mặn trước khi gieo sạ lúa, người dân điều chỉnh
cống cho nước từ sông ra vào thường xuyên trên ruộng nhiều lần hoặc tận dụng nước
mưa để tháo rửa mặn khi thời tiết có mưa nhiều. Đa số người dân đều chọn giống lúa
ST-5 và sử dụng phương pháp gieo sạ, với mật độ 80-100 kg/ha, chỉ số ít người chọn
giống lúa Tài nguyên, thực hiện làm mạ và cấy tay, tuổi mạ cấy từ 30-35 ngày, mật
độ cấy từ 7-9 cây/tầm. Sau khi tiến hành gieo cấy, người dân đưa nước trực tiếp từ
sông chính hoặc từ kênh rạch vào ruộng, giữ mực nước ổn định thường xuyên trên
ruộng. Lượng phân lân để bón cho lúa khoảng 200-250 kg/ha và được bón lót lúc đầu
vụ. Phân NPK, Urê được người dân sử dụng để bón thúc, bón ni địng, bón thúc
địng, bón ni hạt với liều lượng tùy vào sự phát triển của lúa. Có 100% số hộ cho
rằng chất thải của vụ tơm trước đó giúp giảm hàm lượng phân bón khi trồng lúa;
100% số hộ đều lựa chọn thuốc bảo vệ thực vật ít ảnh hưởng đến tơm. Nhìn chung,

sản xuất lúa trong mơ hình T-L có giá thành thấp do giảm lượng phân bón, hạn chế
sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, không cần cày lật. Lúa được thu hoạch chủ yếu vào
tháng 11-12 âm lịch. Giống lúa ST-5 cho sản lượng khá cao với năng suất lúa trung
bình của các hộ tham gia THT là 6,3 tấn/ha/vụ, của hộ không tham gia là 6,25
tấn/ha/vụ, cao nhất lên đến 7 tấn/ha/vụ.
9


Về khía cạnh tài chính, lúa có giá bán trung bình là 6.000 đồng/kg đối với cả hai hình
thức sản xuất. Doanh thu bình quân của các hộ tham gia THT là 37,8 triệu
đồng/ha/vụ, của các hộ không tham gia là 37,5 triệu đồng/ha/vụ, sự chênh lệch này
không đáng kể. Tuy nhiên, sự chênh lệch lợi nhuận giữa các hộ tham gia THT và
không tham gia khá cao, lợi nhuận bình quân của các hộ tham gia THT là 14,2 triệu
đồng/ha/vụ cao hơn so với các hộ không tham gia 11,8 triệu đồng/ha/vụ. Nguyên
nhân của sự khác biệt là do một số hộ trong THT được chọn tham gia các dự án của
tỉnh nên được hỗ trợ 100% lúa giống ST-5 và 30% phân nên giảm được chi phí tăng
lợi nhuận. Tổng chi phí trung bình cho sản xuất lúa của các hộ tham gia THT là 23,6
triệu đồng/ha/vụ, của các hộ khơng tham gia là 25,7 triệu đồng/ha/vụ.
Nhìn chung cả hai hình thức tổ chức sản xuất có tổng chi phí đầu tư cho trồng lúa
thấp hơn so với ni tơm sú, do đó lợi nhuận đạt được từ lúa cũng thấp hơn so với lợi
nhuận từ tôm. Nếu trồng lúa thành cơng đạt năng suất cao nhất thì lợi nhuận cao nhất
là 19,8 triệu đồng/ha/vụ, trong khi nếu ni tơm thành cơng đạt năng suất cao nhất
thì lợi nhuận cao nhất lên đến 324 triệu đồng/ha/vụ, vì vậy mà tơm sú là đối tượng
chủ yếu của mơ hình T-L. Tuy nhiên tỉ lệ rủi ro từ nuôi tôm cao hơn, có 31,7% số hộ
bị thua lỗ và mức lỗ nhiều nhất là -21,13 triệu đồng/ha/vụ của cả hai hình thức sản
xuất, trong khi khơng có hộ nào bị lỗ từ lúa.
3.4 Phân tích rủi ro, thuận lợi và khó khăn của hai hình thức tổ chức sản xuất
3.4.1 Phân tích rủi ro của hai hình thức tổ chức sản xuất
Các hộ nuôi bị thua lỗ chủ yếu là do tình trạng tơm chết sớm, do ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu và thời tiết thất thường, mơi trường ô nhiễm nên xảy ra dịch bệnh, tôm

nuôi không lớn nên phải thu hoạch sớm và bán với giá thấp hoặc tôm thu hoạch với
sản lượng rất thấp. Số hộ nuôi bị thua lỗ chiếm tỉ lệ khá cao đối với các hộ không
tham gia THT là 56,7% trong khi đối với THT, con số này chỉ có 6,67%.
Bảng 4: Phân nhóm số hộ sử dụng ao lắng với tỉ lệ thua lỗ
Phân nhóm
1. Tham gia THT
Có ao lắng
Khơng ao lắng
2. Khơng tham gia
Có ao lắng
Khơng ao lắng

Tỉ lệ số hộ thua lỗ (%)
6,67
3,33
3,33
56,7
3,33
53,3

Bảng 5: Phân nhóm số hộ có ương giống với tỉ lệ thua lỗ
Phân nhóm
1. Tham gia THT
Có ương giống
Khơng ương giống
2. Khơng tham gia
Có ương giống
Khơng ương giống

Ti lệ số hộ thua lỗ (%)

6,67
3,33
3,33
56,7
13,3
43,3
10


Đa số các hộ không tham gia THT lấy nước trực tiếp từ ngồi sơng khơng qua xử lý
từ ao lắng, vì vậy tỉ lệ tơm bị nhiễm bệnh rất cao, dẫn đến tình trạng thu hoạch sớm
và thua lỗ, có đến 53,3% số hộ khơng sử dụng ao lắng và bị thua lỗ trong 56,7%
những hộ bị thua lỗ.
Đa số các hộ khi mua giống PL15 là thả lan ra ruộng nuôi nên tỷ lệ hao hụt rất cao.
Các hộ khơng tham gia THT có tỷ lệ số hộ khơng ương giống khá cao 76,7% và có
đến 43,3% thuộc nhóm này bị thua lỗ trong 56,7% số hộ bị thua lỗ. Đối với các hộ
tham gia THT, tỷ lệ số hộ không ương giống thấp hơn chiếm 40%. Để hạn chế rủi ro
về dịch bệnh trên tôm, các hộ ni cần tn thủ đúng quy trình sản xuất, đặc biệt chú
ý vấn đề sử dụng nước qua ao lắng trước khi cung cấp cho ruộng nuôi.
3.4.2 Thuận lợi và khó khăn chung
Thuận lợi: Do nhu cầu về sản phẩm thủy sản ngày càng tăng nên mặt hàng tôm sú dễ
dàng tiêu thụ và giá bán có xu hướng tăng giúp các hộ ni n tâm về khâu tiêu thụ.
Ngồi ra mơ hình cịn tận dụng được nguồn lao động sẵn có từ gia đình nên giảm
thiểu được chi phí th mướn nhân cơng. Huyện Mỹ Xun tỉnh Sóc Trăng là vùng
có nhiều lợi thế để phát triển mơ hình T-L nên được Nhà nước, chính quyền địa
phương quan tâm, quy hoạch phát triển, thu hút nhiều nghiên cứu, dự án phát triển
mơ hình.
Khó khăn: Khi diễn biến thời tiết bất thường như mưa lớn, mưa trái mùa, mùa khô
nhiệt độ cao hay độ mặn không ổn định gây ảnh hưởng xấu tới cả tôm và lúa hay dẫn
đến dịch bệnh, tôm chết hàng loạt gây hoang mang cho người nuôi. Mặt khác yêu

cầu về kỹ thuật thể hiện qua các tiêu chí của sản phẩm đầu ra ngày càng cao, đòi hỏi
sản phẩm cần đạt các chứng nhận sản phẩm sản xuất theo kỹ thuật tiên tiến (GAP,
ASC).
3.4.3 Thuận lợi và khó khăn của các hộ khơng tham gia THT
Các hộ không tham gia THT chiếm 77%, phần lớn lý do là vì đất canh tác của họ
khơng liền canh với nhiều hộ khác nên khơng có điều kiện để thành lập và tham gia
THT, chỉ có 10% số hộ không tham gia THT là do ràng buộc về thời gian hội họp và
họ cảm thấy chủ động hơn khi tự làm cá nhân, 10% chưa tham gia là vì chưa được
vận động và 3% số hộ đã tham gia THT nhưng sau đó THT bị bãi bỏ. Hầu hết các hộ
khơng tham gia THT đều có kinh nghiệm lâu năm trong sản xuất luân canh T-L, họ
chủ động tự tổ chức sản xuất dựa trên điều kiện kinh tế, dễ dàng ra các quyết định cá
nhân về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, khó khăn chủ yếu cho các hộ khơng tham gia THT chính là các hộ có ít
cơ hội cập nhật kỹ thuật mới, ít được hỗ trợ về kỹ thuật. Thêm vào đó, họ khó tiếp
cận các nguồn tài chính xã hội như vay vốn ngân hàng, các nguồn tài trợ từ các dự án
trong tỉnh.
Giải pháp đặt ra cho các hộ không tham gia THT là chủ động tìm kiếm, cập nhật
những thông tin về diễn biến thời tiết và khuyến cáo về lịch thời vụ được tuyên
11


truyền qua các báo đài, tự giác tuân thủ lịch thời vụ chung theo khuyến cáo của
ngành chức năng. Chú ý xây dựng hệ thống ao lắng, làm tốt hơn khâu cải tạo ruông
nuôi, sử dụng giống tốt, chất lượng cao.
3.4.4 Thuận lợi và khó khăn của các hộ tham gia THT
Số hộ tham gia THT do được vận động chiếm 20%, các hộ còn lại chủ động tham gia
THT với lý do trao đổi kinh nghiệm và cùng nhau hợp tác sản xuất. THT giữ vai trò
là một tổ chức liên kết cộng đồng, trong quá trình sản xuất, những thông tin được
chia sẻ qua các cuộc hội họp.
Các hộ tham gia THT cùng trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tăng cơ hội cập nhật kỹ

thuật. Các thành viên của THT được hỗ trợ kỹ thuật thông qua các lớp tập huấn,
được ưu tiên tiếp cận các nguồn vốn xã hội, dự án đầu tư. Khi tham gia các dự án, hộ
nuôi sẽ được tài trợ về giống lúa, thức ăn, phân bón giúp giảm chi phí nâng cao lợi
nhuận. Ngồi ra, các thành viên trong THT cịn tổ chức góp vốn để hỗ trợ cho thành
viên sản xuất thua lỗ hoặc thiếu vốn sản xuất, việc hỗ trợ được tổ chức xoay vòng
cho tất cả các thành viên trong THT.
Tuy nhiên, các thành viên THT chưa liên kết được điều kiện đất, vốn để cùng nhau
sản xuất. Đồng thời THT chưa có vai trị là đại diện liên kết với các cơ sở cung cấp
dịch vụ, bao tiêu trước sản phẩm để chủ động các yếu tố đầu vào và đầu ra. Mặt
khác, do được hỗ trợ về kỹ thuật, ni tơm đạt năng suất cao nên có nhiều hộ chỉ
ni tơm quanh năm, phá vỡ mơ hình.
Giải pháp đối với THT trước tiên là phải quản lý tốt tổ chức từ đó nâng cao sức mạnh
và tăng sự liên kết giữa những thành viên về các điều kiện sản xuất. Tổ chức tập
huấn kỹ thuật, hỗ trợ, hướng dẫn các hộ ni tiếp cận quy trình chứng nhận sản phẩm
được sản xuất theo kỹ thuật tiên tiến (GAP, ASC). Chủ động xây dựng các phương
án làm dịch vụ đầu vào, liên kết chặt chẽ với các trại sản xuất giống, công ty, đại lý
cung cấp thức ăn và cơng ty chế biến thủy sản qua hình thức ký kết hợp đồng cung
cấp, tìm đối tác bao tiêu sản phẩm theo giá thị trường nhằm hạn chế tình trạng
thương lái ép giá. Song song đó, phải đảm bảo hài hòa giữa lợi nhuận trong sản xuất
và bảo vệ mơi trường, tránh tình trạng chạy theo lợi nhuận từ tơm mà phá vỡ mơ hình
sản xuất.
4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1 Kết luận
Các hộ tham gia THT có thời gian ni trung bình dài hơn và tỉ lệ sống của tôm cao
hơn (121 ngày; 44,2%) so với các hộ khơng tham gia THT (93 ngày; 36,4%). Hộ
ni có sử dụng ao lắng và ương giống trước khi thả thì có tỉ lệ số hộ thua lỗ thấp
hơn so với khơng có ao lắng hay ương giống.
Năng suất trung bình của các hộ tham gia THT là 534 kg/ha/vụ cao hơn so với các hộ
không tham gia THT (222 kg/ha/vụ). Các hộ tham gia THT có lợi nhuận cao hơn các
hộ không tham gia THT, lần lượt là 48,6 triệu đồng/ha/vụ và 20,5 triệu đồng/ha/vụ,

12


có 6,67% số hộ tham gia THT bị thua lỗ trong khi có đến 56,7% số hộ bị thua lỗ
thuộc nhóm khơng tham gia THT.
Khó khăn chung cho mơ hình là vấn đề dịch bệnh khi diễn biến thời tiết bất thường,
các yêu cầu về chứng nhận chất lượng sản phẩm. Các hộ tham gia THT ở Hòa Tú I,
Mỹ Xuyên, Sóc Trăng chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau trong sản xuất.
4.2 Đề xuất
Khuyến khích nơng dân tham gia THT hoặc liên kết theo từng cụm để dễ dàng trong
công tác tập huấn kỹ thuật. Đẩy mạnh liên kết giữa các thành viên trong THT, đồng
thời tăng cường phát triển mối liên kết giữa nhà nước-nhà doanh nghiệp-nông dân.
Các trường, viện cần nghiên cứu thêm về kỹ thuật phịng và trị bệnh trên tơm, lúa,
những cảnh báo cụ thể về mơi trường, biến đổi khí hậu nhằm hạn chế rủi ro về dịch
bệnh, nâng cao hiệu quả sản xuất trong mơ hình tơm sú-lúa kết hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cổng thơng tin điện tử tỉnh Sóc Trăng, 2012. Giới thiệu về Sóc Trăng.
. Truy cập ngày 04-11-2014.
Nguyễn Cơng Thành, Nguyễn Văn Hảo, Lê Xuân Sinh và Đặng Thị Phượng, 2012.
Phân tích những rủi ro và hạn chế của mơ hình ln canh tơm lúa đang áp dụng
trên vùng bán đảo Cà Mau. Kỷ yếu hội nghị toàn quốc Đại học Nơng Lâm
Thành phố Hồ Chí Minh, trang 96-106.
Phạm Minh Đức và Huỳnh Văn Hiền, 2013. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tình
hình quản lý bệnh trong mơ hình ni ln canh tơm sú lúa ở Sóc Trăng. Tuyển
tập Hội nghị khoa học trẻ Ngành thủy sản tồn quốc lần thứ IV, Trường ĐH
Nơng Lâm, Tp. Hồ Chí Minh, trang 489-494.
Thương mại thủy sản, 2012. Tơm- Lúa: Mơ hình sản xuất hiệu quả và bền vững.
. Truy cập ngày 04-11-2014.

13




×