Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quy chế thương nhân ở việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.7 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***********

NGUYỄN THỊ BÌNH

QUY CHẾ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***********

NGUYỄN THỊ BÌNH

QUY CHẾ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGÔ HUY CƯƠNG

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bình


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
I. Sự cần thiết của đề tài Luận văn.................................................................... 1
II. Tình hình nghiên cứu đề tài.......................................................................... 2
III. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................. 2
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUI CHẾ THƯƠNG NHÂN ...................... 5
1.1. Khái niệm và sự cần thiết của qui chế thương nhân ................................. 5
1.1.1. Khái niệm qui chế thương nhân ........................................................... 5
1.2. Phân loại, đặc điểm, kết cấu và nguồn của qui chế thương nhân ........... 10
1.2.1. Phân loại qui chế thương nhân .......................................................... 10
1.2.2. Đặc điểm của qui chế thương nhân.................................................... 12
1.2.3. Kết cấu và nguồn của qui chế thương nhân ...................................... 13

1.3. Nội dung của qui chế thương nhân .......................................................... 15
1.3.1. Các nguyên tắc trong qui chế thương nhân....................................... 15
1.3.2. Các qui tắc kiểm soát việc vào nghề thương mại của thương nhân thể
nhân và việc thành lập thương nhân pháp nhân ........................................ 20
1.3.3. Các qui tắc ấn định các nghĩa vụ chung cơ bản của thương nhân ... 21
1.3.4. Các qui tắc bảo vệ người tiêu dùng và người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ ........................................................................................................... 42
Chương 2: THỰC TRẠNG QUI CHẾ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM ........ 44
2.1. Thực trạng nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi ngưới tiêu dùng trong qui chế
thương nhân ở Việt Nam ................................................................................. 44
2.1.1. Các qui định pháp luật về nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
....................................................................................................................... 44
2.1.2. Thi hành các nội dung cơ bản về nghĩa vụ của thương nhân trong
việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ......................................................... 50
2.2. Thực trạng về nghĩa vụ đăng ký kinh doanh và các nghĩa vụ khác........ 58
2.2.1. Đánh giá chung về tự do kinh doanh ................................................. 58
2.2.1. Thực trạng về thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương
nhân .............................................................................................................. 63


2.2.3. Thực trạng thi hành các qui định về phần các cơ quan đăng ký kinh
doanh............................................................................................................. 65
2.2.4. Thực trạng các qui định về điều kiện và thủ tục thực hiện nghĩa vụ
cơ bản của thương nhân ............................................................................... 68
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ................ 87
QUI CHẾ THƯƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM ...................................................... 87
3.1. Các định hướng hoàn thiện qui chế thương nhân ở Việt Nam ............... 87
3.2. Kiến nghị các giải pháp ............................................................................. 88
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 97



LỜI MỞ ĐẦU

I. Sự cần thiết của đề tài Luận văn
Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
một chính sách quan trọng trong chủ trương đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Việc chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế thị trường là một quá trình phức tạp, không chỉ đòi
hỏi có sự làm mới tư duy chính trị, tư duy kinh tế và tư duy pháp lý, mà còn
cần sự nỗ lực làm tái hồi lại một tầng lớp không thể thiếu của nền kinh tế thị
trường- đó là tầng lớp thương nhân- trên cơ sở cho phép thương nhân có
quyền sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất.
Trong những năm qua, các doanh nghiệp không ngừng phát triển cả về
số lượng và chất lượng, đã đóng góp không nhỏ cho sự thành công của công
cuộc đổi mới. Để bảo đảm cho sự phát triển của kinh tế tư nhân theo đường
lối đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật và nhiều văn bản dưới luật
tạo hành lang pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp
dân doanh trong sự bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Đời sống kinh
tế, xã hội không ngừng được cải thiện. Trong các đạo luật liên quan được ban
hành phải kể đến Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Luật Doanh
nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Bộ luật Hàng Hải 2005, Luật Hàng không
dân dụng 2006, Luật Cạnh tranh 2005, Luật Bảo vệ môi trường 2005, Luật
Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2011…
Các đạo luật này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành chúng đã góp phần
xây dựng một qui chế thương nhân bước đầu có phát huy tác dụng không nhỏ.
Ý niệm chung về qui chế thương đã được hình thành. Các khía cạnh của qui
chế thương nhân, dù vô tình hay hữu ý, đã được đề cập đến ở các mức độ
khác nhau. Tuy nhiên việc hiểu và xây dựng qui chế thương nhân một cách
đầy đủ còn là vấn đề phải bàn.


1


Qui chế thương nhân có một vai trò quan trọng trong việc tạo lập một
tầng lớp thương nhân, điều chỉnh các hoạt động của họ, và tạo ra một môi
trường kinh doanh lành mạnh, đồng thời bảo vệ xã hội và người dân tránh
khỏi những tác động xấu từ việc lạm dụng hoạt động kinh doanh của thương nhân.
Vì những lẽ đó, tôi xin chọn đề tài “Qui chế thương nhân ở Việt
Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.

II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qui chế thương nhân là một đề tài hoàn toàn không xa lạ gì đối với các
luật gia ở các nước có nền kinh tế thị trường. Có lẽ có quá nhiều đề tài nghiên
cứu về vấn đề này và đã được ứng dụng khá thành công trong thực tiễn. Tuy
nhiên đây là một đề tài có thể khai thác được ở Việt Nam hiện nay, nhát là với
đề tài luận văn, luật án trong lĩnh vực pháp luật. Dưới các chế độ cũ, qui chế
thương nhân đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng bởi Nhóm dự hoạch của Lê
Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyên Tân được thể hiện qua cuốn sách
“Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải” xuất bản tại Sài Gòn năm 1972. Trong
thời kỳ mới, chưa có một công trình nào nghiên cứu tổng quát về qui chế
thương nhân ở Việt Nam trừ công trình nghiên cứu của PGS. TS. Ngô Huy
Cương được đăng tài trên cuốn “Giáo trình luật thương mại- Phần chung và
thương nhân” xuất bản tại Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013,
mặc dù trước đó Luật Thương mại 1997 đã đề cập tới qui chế thương nhân.
Tuy nhiên các khía cạnh riêng biệt của qui chế thương nhân đã nghiên cứu
khá nhiều, chẳng hạn như các khía cạnh về đăng ký kinh doanh, tên gọi của
thương nhân, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, lưu giữ tài liệu thương mại,
cạnh tranh, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp… Đây là các công trình
nghiên cứu rất hữu ích và là nền tảng quan trọng cho đề tài nghiên cứu này.


III. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
2


Luận văn theo đuổi các mục đích nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, Luận văn cố gắng trình bày các vấn đề lý luận căn bản về qui
chế thương nhân và xác định phạm vi của qui chế đó;
Thứ hai, Luận văn phân tích thực trạng qui chế thương nhân ở Việt
Nam hiện nay để tìm ra các bất cập chủ yếu;
Thứ ba, Luận văn xác định các định hướng cơ bản hoàn thiện qui chế
thương nhân và đưa ra các kiến nghị cho việc hoàn thiện đó.
2. Đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận văn bao gồm việc nghiên
cứu lý luận pháp luật liên quan tới qui chế thương nhân, nghiên cứu cấu trúc
bên trong của qui chế thương nhân và nghiên cứu các qui tắc của luật thực
định và việc thi hành chúng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tổng quát về qui chế thương nhân,
không nghiên cứu vào các khía cạnh cụ thể của qui chế thương nhân. Trong
nghiên cứu tổng quát, Luận văn chủ yếu đề cập tới các vấn đề lớn của qui chế
thương nhân và mối liên hệ giữa chúng để cung cấp các kiến thức và thông tin
có tính cách hệ thống về qui chế thương nhân. Luận văn không đi sâu vào
nghiên cứu lý luận, cũng như không nghiên cứu cụ thể từng vấn đề pháp lý
trong qui chế thương nhân. Chẳng hạn Luận văn không nghiên cứu sâu và cụ
thể về đăng ký kinh doanh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, cạnh tranh, lưu
giữ tài liệu thương mại, nghĩa vụ bảo vệ môi trường… Luận văn cũng không
nghiên cứu qui chế đặc thù của thương nhân mà chỉ nghiên cứu qui chế chung
của thương nhân.


IV. Phương pháp nghiên cứu
Vì qui chế thương nhân là một đề tài rộng, tương đối mới về phần tổng
quát, và với các mục tiêu nghiên cứu như trên, Luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chủ yếu như sau: Phương pháp mô tả hệ thống, mô tả qui
3


phạm; phương pháp phân tích qui phạm, phân tích vụ việc, phân tích lịch sử;
phương pháp so sánh pháp luật; phương pháp liệt kê; phương pháp tổng hợp;
phương pháp thống kê; phương pháp mô hình hóa và điển hình hóa các quan
hệ xã hội.
Các phương pháp này được xây dựng dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các định hướng
xây dựng kinh tế, xã hội Việt Nam theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam.

V. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1. Lý luận chung về qui chế thương nhân
Chương 2. Thực trạng qui chế thương nhân ở Việt Nam
Chương 3. Định hướng và các kiến nghị hoàn thiện qui chế thương
nhân ở Việt Nam hiện nay.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUI CHẾ THƯƠNG NHÂN


1.1. Khái niệm và sự cần thiết của qui chế thương nhân
1.1.1. Khái niệm qui chế thương nhân
Thuật ngữ qui chế pháp lý thông thường được dùng để chỉ tổng thể các
qui phạm pháp luật liên quan tới một đối tượng điều chỉnh nhất định. Chẳng
hạn cuốn “Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp – Việt” do Nhà pháp luật ViệtPháp và Tổ chức pháp ngữ quốc tế soạn thảo giải thích về một số thuật ngữ
như sau: “Qui chế công vụ là tổng thể các qui định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của công chức nhà nước hay của một số loại công chức”; Qui chế
pháp lý nhân thân là “tổng thể các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
về nhân thân và năng lực pháp luật của con người” [18, tr. 855 & 856]. Từ
điển tiếng Việt giải nghĩa chung về thuật ngữ qui chế như sau: Qui chế là
những điều đã được quy định thành chế độ để mọi người theo đó mà thực
hiện trong những hoạt động nhất định nào đó [22, tr. 1260].
Qua các nghiên cứu trên, có thể thấy: qui chế pháp lý là một thuật ngữ
được sử dụng khá nhiều trong khoa học pháp lý. Qui chế pháp lý có nghĩa
khác biệt với nội qui. Một từ được dùng để chỉ tổng thể các qui định được đặt
ta để điều chỉnh một đối tượng nhất định có hiệu lực bao trùm toàn bộ một
cộng đồng chính trị nhất định (qui chế pháp lý). Còn một từ khác được dùng
để chỉ các qui tắc xử sự có tính cách nội bộ trong một tập thể người nhất định
liên quan tới một hoạt động nhất định (nội qui). Tuy nhiên thuật ngữ qui chế
pháp lý đôi khi được hiểu trùng với thuật ngữ chế định pháp luật trong thực
tế. Tuy nhiên thuật ngữ chế định pháp luật có nghĩa liên quan tới cấu trúc bên
trong của pháp luật. Còn thuật ngữ qui chế pháp lý thường ngụ ý về các qui
tắc pháp luật thực định hiện dùng để điều chỉnh một đối tượng cụ thể. Như
vậy trong các qui chế pháp lý thường được nhắc đến có qui chế thương nhân.
Hiểu một cách đơn giản: Qui chế thương nhân là qui chế pháp lý về thương
5


nhân. Vì vậy khi muốn làm rõ khái niệm qui chế thương nhân, cần phải làm

rõ khái niệm thương nhân và công việc thường xuyên của họ (đó là tiến hành
các hành vi thương mại), sau khi đã làm rõ khái niệm qui chế pháp lý nói
chung.
Thương nhân là người làm thương mại có các đặc điểm pháp lý như
sau:
(1) chuyên tiến hành các hành vi thương mại (điều kiện cần); và
(2) lấy hành vi thương mại làm nghề nghiệp của mình (điều kiện đủ)
[8].
Bộ luật Thương mại Pháp định nghĩa: “Thương nhân là những người
thực hiện các hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường
xuyên của mình”. Định nghĩa này, theo Giáo sư Roger Houin và Giáo sư
Michel Pédamon, là một định nghĩa kép về thương nhân bao gồm cả thương
nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân [6, tr. 66]. Thương nhân thể nhân có
bản chất là cá nhân kinh doanh. Còn thương nhân pháp nhân chính là các
công ty kinh doanh. Vậy khi nói tới qui chế thương nhân là nói tới qui chế
pháp lý chi phối tới hai loại thương nhân này. PGS. TS Ngô Huy Cương định
nghĩa:
“Tổng thể các qui định pháp luật xác định các điều
kiện để trở thành thương nhân, và xác định, giới hạn các
quyền lợi của thương nhân nói chung được xem là qui chế
thương nhân” [6, tr. 78].
Tuy nhiên giữa thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân có sự
khác biệt đáng kể liên quan tới sự vào nghề làm thương mại. Chẳng hạn thể
nhân vào nghề thương mại khi đã đạt đến một độ tuổi nhất định, trong khi đó
thương nhân pháp nhân chỉ có thể vào nghề khi đã được tổ chức theo một thể
thức nhất định. Mặc dù vậy các quyền lợi và nghĩa vụ của hai loại thương
nhân này có nhiều điểm tương đồng.

6



Qui chế thương nhân có giới hạn trong phạm vi các nguyên tắc và qui
tắc chung liên quan tới tất cả các thương nhân, chứ không bao gồm các qui tắc
riêng liên quan tới từng loại thương nhân cụ thể. Vì vậy thông thường trong
qui chế thương nhân tối thiểu có các nguyên tắc và qui tắc liên quan tới các
vấn đề pháp lý sau:
(1) Điều kiện để trở thành thương nhân;
(2) Nghĩa vụ đăng ký kinh doanh;
(3) Tên gọi của thương nhân;
(4) Nghĩa vụ lưu giữ tài liệu thương mại;
(5) Các nguyên tắc chủ yếu liên quan tới cạnh tranh;
(6) Các nguyên tắc chủ yếu liên quan tới bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng;
(7) Các nguyên tắc cơ bản khác liên quan tới bảo vệ môi trường, trách
nhiệm xã hội của thương nhân…
Có thể thấy qui chế thương nhân là một tập hợp có hệ thống các nguyên
tắc và qui tắc rất đồ sộ liên quan tới thương nhân nói chung mà khó có thể mô
tả một cách đầy đủ trong phạm vi của chỉ một công trình nghiên cứu ở cấp độ
thạc sĩ hoặc tiến sĩ luật học. Ngày nay hầu như các vấn đề của qui chế thương
nhân được pháp điển hóa trong nhiều đạo luật chuyên sâu khác nhau ở hầu hết
các nước. Việt Nam cũng đi theo khuynh hướng này và đã xây dựng các đạo
luật riêng biệt, chẳng hạn như: Luật Cạnh tranh 2004; Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 2011, Luật Bảo vệ môi trường 2010… Tuy nhiên trong một
chừng mực nhất định đạo luật chung về thương mại vẫn phải đề cập tới các
nguyên tắc và qui tắc chủ yếu của các vấn đề pháp lý này để tạo thành một sự
thống nhất trong qui chế thương nhân.
Việc lý giải về khái niệm qui chế thương nhân như trên đã nói, cần phải
tìm hiểu thêm về hành vi thương mại (nghề nghiệp của thương nhân). Tuy
nhiên hành vi thương mại liên quan phần lớn tới kỹ thuật pháp lý. Liên quan
tới vấn đề qui chế thương nhân, người ta thường chỉ nói tới nó ở phương diện

7


sự cần thiết phải thiết lập qui chế thương nhân, có nghĩa là lý giải cho việc tại
sao cần thiết lập qui chế thương nhân. Có lẽ sự khác biệt giữa thương nhân và
người thường nằm ở chỗ thương nhân là người chuyên tiến hành các hành vi
thương mại và lấy chùng làm nghề kiếm sống.

1.1.2. Sự cần thiết của qui chế thương nhân
Con người cần có phương tiện kiếm sống để đáp ứng cho các nhu cầu
vật chất và tinh thần của mình. Một phương tiện hết sức quan trọng và cần
thiết như vậy, nhất là trong xã hội hiện đại, chính là việc tạo lập hay biến
mình thành thương nhân. Đây là một công việc làm biến đổi tính cách thông
thường trong hoạt động thường nhật của con người.
Thương mại luôn luôn có hai mặt trái ngược nhau. Một mặt góp phần
đáp ứng các nhu cầu vật chất tinh thần của xã hội mà có thể gọi đây là mặt
tích cực của thương mại. Mặt khác có khả năng rất lớn gây tác hại cho cộng
đồng, cho xã hội nếu bị lạm dụng mà có thể gọi đây là mặt tiêu cực của
thương mại. Vì vậy để kiểm soát các hoạt động thương mại, phát huy mặt tốt,
tích cực, và hạn chế hay loại bỏ mặt tiêu cực, có hại, cần phải có một qui chế
thương nhân đầy đủ và hiệu quả. Luận giải cho cho những nhận định này,
việc khảo sát hành vi thương mại không thể bỏ qua.
PGS. TS. Ngô Huy Cương quan niệm:
“Trong khoa học pháp lý, hành vi thương mại
thường được phân biệt với hành vi dân sự, có nghĩa chúng
đều là các hành vi pháp lý làm phát sinh ra hậu quả pháp
lý bởi ý chí của đương sự. Như vậy hành vi thương mại là
hành vi pháp lý có tính chất thương mại. Nói cách khác,
hành vi pháp lý làm phát sinh hậu quả pháp lý trong lĩnh
vực thương mại hay làm phát sinh quan hệ pháp luật

thương mại là hành vi thương mại” [10, tr. 106- 107].
Luật Thương mại 2005 không dùng thuật ngữ “hành vi thương mại” mà
8


thay vào đó là thuật ngữ “hoạt động thương mại” nhưng không có nghĩa khác
biệt giữa hai thuật ngữ này về nội dung học thuật. Luật này định nghĩa:
“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lời khác” (Điều 3, khoản 1).
Với cách thức định nghĩa khái niệm theo kiểu liệt kê, Uỷ ban Liên hiệp
quốc về luật thương mại quốc tế viết như sau:
“Thuật ngữ “thương mại”/commerce/cần được diễn
giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ
mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay
không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương
mại /commercial/ bao gồm, nhưng không phải chỉ bảo
gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại
nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả
thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác
hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng
các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình (engineering);
đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai
thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về
hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng
hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt hoặc đường bộ” [19].
Các giải thích khái niệm hành vi thương mại nói trên cho thấy các hành
vi thương mại là các hành vi trao đổi các lợi ích vật chất và tinh thần giữa các

thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân và người thường, có tác
động lớn tới xã hội. Sự tác động ở đây có thể tích cực hoặc tiêu cực. Sự tác
động tích cực bao gồm: (1) việc đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người; (2) thúc đẩy giao lưu dân sự, kinh tế và thương mại giữa các cộng
9


đồng; (3) thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; và (4) tăng cường hợp
tác và hội nhập quốc tế. Sự tác động tiêu cực có thể bao gồm sự lạm dụng
hành vi thương mại gây thiệt hại cho cá nhân người tiêu dùng, cho đối thủ
cạnh tranh, cho trật tự và an toàn xã hội, cho an ninh quốc gia và cho giao lưu
quốc tế. Sự tác động tiêu cực này của các hành vi thương mại là một nguy cơ
lớn hơn so với sự tác động tiêu cực của các hành vi dân sự bởi các hành vi
thương mại được thực hiện một cách chuyên nghiệp, đầu tư lớn, cung cấp một
lượng lớn các sản phẩm và dịch vụ trên một bình diện rộng lớn. Đặc biệt
người thực hiện các hành vi thương mại luôn có một mục tiêu đeo đẳng hay
một ý chí rất mạnh hướng tới một đối tượng- đó là lợi nhuận.
Do đòi hỏi của các hành vi thương mại, luật tố tụng có thể có một số
nguyên tắc và qui tắc riêng liên quan tới các tranh chấp phát sinh từ đó. Ví dụ
như: Các tranh chấp thương mại bị phụ thuộc vào chế độ pháp lý riêng biệt
liên quan tới vấn đề năng lực tố tụng, chứng cứ, nghĩa vụ liên đới, thời hiệu;
và có thể phụ thuộc vào hệ thống tố tụng riêng như thẩm quyền của toà án,
thủ tục tố tụng và phương pháp chấp hành [15, tr. 25-27].
Bởi các lẽ đã phân tích ở trên, việc xây dựng qui chế thương nhân là vô
cùng cần thiết để bảo đảm cho một môi trường kinh doanh, thương mại lành
mạnh ở bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên nó lại càng trở nên cấp thiết đối với
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay trong một nền kinh tế chuyển đổi.

1.2. Phân loại, đặc điểm, kết cấu và nguồn của qui chế thương nhân
1.2.1. Phân loại qui chế thương nhân

Việc phân loại qui chế thương nhân có ý nghĩa lớn trong việc thiết lập
các qui định pháp luật thích hợp đối với từng loại bởi ngoài tính chất chung
của các thương nhân, mỗi loại thương nhân còn có những đặc điểm riêng. Căn
cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân loại các qui chế thương
nhân. Tuy nhiên có một cách thức phân loại bao trùm là căn cứ vào tính chất

10


chung và sự phong phú của các loại thương nhân, có thể chia qui chế thương
nhân thành hai loại: Qui chế chung; và qui chế đặc thù.
Qui chế chung bao gồm các nguyên tắc và các qui tắc chung nhất cho
tất cả các loại thương nhân. Qui chế này đề cập tới các nguyên tắc và chính
sách pháp luật xác định địa vị pháp lý nói chung của thương nhân mà trong đó
có thể bao gồm: (1) Thể chế hóa đầy đủ và nhất quán chủ trương chính sách
đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhất là về phát triển kinh tế thị trường; (2) coi
khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là chức năng chính của Nhà nước; (3)
tôn trọng tự do thỏa thuận, định đoạt các vấn đề nội bộ của doanh nghiệp; (4)
đơn giản hóa thủ tục; (5) giảm và tiến tới xóa bỏ sự phân biệt giữa đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài; (6) tôn trọng cam kết quốc tế, nhất là các
nguyên tắc cơ bản như “Qui chế đối xử quốc gia” và “Qui chế tối huệ quốc”;
(7) chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động dưới các hình thức công
ty; (8) đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và đổi mới quản lý
doanh nghiệp nhà nước; (9) kế thừa và phát triển những đổi mới và tiến bộ
của pháp luật; (10) mở rộng và phát triển quyền tự do kinh doanh [31, tr. 1618]. Cụ thể trong qui chế đó phải bao gồm các nguyên tắc tạo lập thương
nhân, nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của thương nhân và các
nghĩa vụ cơ bản mà tất cả các thương nhân phải tuân thủ.
Qui chế đặc thù có thể được phân chia nhỏ theo các căn cứ nhất định.
Căn cứ vào phân loại thương nhân nói chung, có thể chia qui chế thương nhân
thành qui chế thương nhân thể nhân và qui chế thương nhân pháp nhân. Hai

qui chế này có sự khác biệt nhau do bản chất của chúng. Trong qui chế
thương nhân thể nhân, cần phải lưu tâm tới tình trạng hôn sản của thương
nhân, độ tuổi vào nghề của thương nhân, tình trạng nhân thân của thương
nhân, lý lịch tư pháp của thương nhân… Còn trong qui chế thương nhân pháp
nhân, cần phải xem xét đến điều kiện thành lập của thương nhân, chế độ trách
nhiệm của các thành viên của thương nhân… Căn cứ vào ngành nghề kinh
doanh, thương mại do thương nhân thực hiện, có thể chia qui chế thương nhân
11


thành qui chế của thương nhân hoạt động trong các lĩnh vực thông thường và
qui chế của thương nhân hoạt động trong những lĩnh vực đặc biệt. Đối với qui
chế thương nhân hoạt động trong các ngành nghề đặc biệt, người ta thường áp
đặt cho thương nhân nhiều điều kiện riêng biệt hoặc ngặt nghèo hơn so với
các thương nhân hoạt động trong những ngành nghề thông thường. Chẳng hạn
trong qui chế thương nhân hoạt động trong các ngành nghề đặc biệt, những
điều kiện đặc biệt thường thấy là: vốn pháp định; năng lực đặc biệt đối với
chủ sở hữu hoặc người quản lý; thủ tục vào nghề đặc biệt; tuân thủ những
nghĩa vụ riêng biệt…

1.2.2. Đặc điểm của qui chế thương nhân
Vì qui chế thương nhân được trải rộng trên nhiều lĩnh vực và đan xen
với nhiều lĩnh vực khác, do đó qui chế thương nhân có các đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất: Qui chế thương nhân là một phức hợp pháp luật
bao gồm cả các qui tắc của cả luật tư và luật công.
Thông thường có thể nói qui chế thương nhân là một chế định của luật
thương mại. Do đó nó mang đặc tính của luật tư. Tuy nhiên trong qui chế đặc
thù của thương nhân, do tính chất đặc biệt của ngành nghề kinh doanh,
thương mại đòi hỏi, Nhà nước can thiệp sâu hơn vào hoạt động của thương
nhân để áp đặt các nghĩa vụ đặc thù nhằm bảo vệ cộng đồng trước sự lạm

dụng nghề nghiệp kinh doanh, thương mại đó. Ví dụ thương nhân hoạt động
trong lĩnh vực y dược phải chịu sự kiểm tra, giám sát gắt gao của Nhà nước
trong mối quan hệ với khách hàng, phải tuân theo các qui trình, thủ tục đặc
biệt trong việc cung cấp các dịch vụ. PGS. TS. Ngô Huy Cương cho rằng: căn
cứ vào tính cưỡng chế, các qui tắc pháp lý được chia thành ba loại “qui tắc
cưỡng chế”, “qui tắc giải thích”, và “qui tắc ấn định”; và trong luật thương
mại “qui chế cưỡng chế” được sử dụng khi nhà nước can thiệp vào quan hệ tư
để bảo vệ trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nguyên tắc thiện chí, trung thực
hoặc quyền lợi của người thứ ba [11, tr. 13]. Mặc dù có cả các qui tắc của luật
12


công trong qui chế thương nhân, nhưng đó chỉ là các qui tắc có tính cách bổ
sung cho các qui tắc của luật tư nhằm mục đích kiểm soát các hoạt động của
thương nhân làm lành mạnh môi trường kinh doanh.
Đặc điểm thứ hai: Qui chế thương nhân bao gồm một tập hợp các qui
định của các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau.
Đặc điểm thứ nhất của qui chế thương nhân xuất phát từ phân loại qui
chế thương nhân thành qui chế chung và qui chế đặc thù. Do vậy chính nó
quy định đặc điểm thứ hai của qui chế thương nhân. Riêng trong lĩnh vực luật
tư qui chế thương nhân cũng nằm rải rác trong nhiều đạo luật khác nhau và
nhiều văn bản dưới luật khác nhau. Một bộ luật ở các nước theo truyền thống
Civil Law luôn luôn cố gắng bao quát các qui tắc của ngành luật tương ứng,
tuy nhiên điều đó là khó có thể [8]. Cho nên luật thương mại ở bất kỳ nước
nào cũng đều có nhiều đạo luật liên quan. Chẳng hạn ở Nhật Bản, ngoài Bộ
luật Thương mại, còn có Đạo luật về công ty, Đạo luật về cạnh tranh, Đạo luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… Hơn nữa các qui tắc liên quan tới qui
chế thương nhân còn được tìm thấy trong nhiều đạo luật trong lĩnh vực luật
công như luật hiến pháp, luật hành chính và luật hình sự.


1.2.3. Kết cấu và nguồn của qui chế thương nhân
Là một chế định quan trọng của luật thương mại giúp nhà nước kiểm
soát được việc tổ chức và hoạt động của thương nhân trong việc bảo đảm các
chức năng kinh tế và chức năng xã hội của nhà nước, qui chế thương nhân
thông thường có kết cấu bao gồm:
Thứ nhất, các nguyên tắc chi phối qui chế thương nhân;
Thứ hai, các qui tắc kiểm soát việc vào nghề thương mại của thương
nhân thể nhân và việc thành lập thương nhân pháp nhân;
Thứ ba, các qui tắc ấn định các nghĩa vụ chung cơ bản của thương
nhân;
Thứ tư, các qui tắc bảo vệ môi trường kinh doanh nói chung;
13


Thứ năm, các qui tắc liên quan tới các ngành nghề kinh doanh đặc biệt.
Với kết cấu như trên, mỗi hệ thống pháp luật chọn một cách thức thể
hiện các nguyên tắc và qui tắc đó một cách riêng biệt. Tuy nhiên các hệ thống
pháp luật theo truyền thống Civil Law, nếu pháp điển hóa luật thương mại
trong Bộ luật Thương mại, thường thể hiện: (1) các nguyên tắc chi phối qui
chế thương nhân; (2) các qui tắc kiểm soát việc vào nghề thương mại của
thương nhân thể nhân và việc thành lập thương nhân pháp nhân; (3) các qui
tắc ấn định các nghĩa vụ chung cơ bản của thương nhân; và (4) các qui tắc bảo
vệ môi trường kinh doanh nói chung trong Bộ luật đó, tuy nhiên không tuyệt
đối. Bên cạnh đó còn có những đạo luật riêng lẻ khác cũng nói về các qui tắc
này và các qui tắc liên quan tới các ngành nghề kinh doanh đặc biệt. Đối với
những nước theo truyền thống Civil Law, nhưng hợp nhất luật dân sự và luật
thương mại để xây dựng một bộ luật áp dụng cho cả quan hệ dân sự và quan
hệ thương mại thì trong bộ luật đó có các nguyên tắc và qui tắc nói tại các
điểm từ (1) tới (4) nói trên [5]. Các nước theo truyền thống Common Law,
không có sự phân chia ngành luật giống với các nước theo truyền thống Civil

Law, hoặc không có sự phân biệt giữa thương nhân và phi thương nhân vẫn
có các nguyên tắc và qui tắc liên quan tới qui chế thương nhân bởi quan niệm
về thương nhân không thể bị xóa bỏ trong một vài trường hợp liên quan tới
thuế, phá sản, mua bán hàng hóa và các dịch vụ khác như ngân hàng, cho thuê
tài chính… [9].
Thông thường nguồn pháp luật không thể thể hiện được nguyên vẹn kết
cấu bên trong của pháp luật, có nghĩa là không thể phản ánh đầy đủ các
nguyên tắc và qui tắc của ngành luật hay chế định pháp luật, và cũng khó có
thể phản ánh được hoàn toàn chính xác kết cấu bên trong đó. Vì vậy các văn
bản qui phạm pháp luật và các loại nguồn khác có thể thiếu một hoặc một vài
nguyên tắc hay qui tắc nào đó của qui chế thương nhân. Những khiếm khuyết
này thông thường được bổ sung bởi thực tiễn tư pháp.

14


1.3. Nội dung của qui chế thương nhân
1.3.1. Các nguyên tắc trong qui chế thương nhân
Qui chế thương nhân không chứa đựng hết các nguyên tắc của luật
thương mại mà chỉ chứa đựng một số nguyên tắc liên quan. Các nguyên tắc
đó bao gồm:
1. Nguyên tắc tự do kinh doanh
Nguyên tắc này liên quan trực tiếp tới việc tạo lập doanh nghiệp để trở
thành thương nhân do đó được xếp vào các qui tắc nằm trong qui chế thương
nhân. Điều đó không có nghĩa là các nguyên tắc khác của luật thương mại nói
riêng và của pháp luật nói chung không chi phối qui chế thương nhân. Việc
sắp xếp này chỉ nhằm khái quát một qui chế thương nhân đầy đủ với tính cách
là một chế định riêng của luật thương mại. Tuy nhiên nội hàm của nguyên tắc
tự do kinh doanh hay quyền tự do kinh doanh được hiểu không đồng nhất ở
Việt Nam hiện nay, có thể ở cả phạm vi thế giới.

TS. Bùi Ngọc Cường, trong một công trình danh tiếng của mình, có
quan niệm cho rằng:
“Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ
quyền chủ thể: quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả
năng hành động một cách có ý thức của cá nhân hay pháp
nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo
nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả
năng mà cá nhân hay pháp nhân có thể xử sự như: tự do
đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp; tự do do chọn
mô hình tỏ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để
thiết lập quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự định đoạt
trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh…” [12, tr. 13].
TS. Bùi Ngọc Cường nhận định chính xác: “Những khả năng này là
thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp nhân) chứ không phải do Nhà nước
15


ban tặng” [17, tr. 13]. Trong khi đó GS. TS. Mai Hồng Quỳ quan niệm hẹp
hơn như sau:
“Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng
hành động, khả năng được lựa chọn và quyết định, một
cách có ý thức của cá nhân hay doanh nghiệp về các vấn
đề liên quan đến và trong hoạt động kinh doanh; chẳng
hạn như tự do quyết định các vấn đề khi thành lập doanh
nghiệp, lựa chọn qui mô và ngành nghề kinh doanh; lựa
chọn địa bàn kinh doanh; tự do hợp đồng, tự do lựa chọn
đối tác, bạn hàng trong kinh doanh; tự do lựa chọn cơ chế
giải quyết tranh chấp…vv.” [29, tr 54].
Mặc dù có những quan niệm rộng hẹp khác nhau, nhưng những quan

niệm này đều có chung một hạt nhân lý luận hợp lý là quyền tự do kinh doanh
mang bản chất quyền con người do nó phải được Hiến pháp nghi nhận. Quyền
tự do kinh doanh là một phương tiện quan trọng để bảo đảm cho “quyền được
sống” và “quyền mưu cầu hạnh phúc” của con người.
Nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh liên quan tới góp vốn
thành lập doanh nghiệp, lựa chọn hình thức công ty, lựa chọn ngành nghề
kinh doanh, thương mại, thuê mướn và sử dụng lao động, quản trị và vận
hành doanh nghiệp, lựa chọn bạn hàng và khách hàng… Các nội dung này
đều phải được tự do. Tuy nhiên nhà nước có thể kiểm soát bằng cách qui định
hạn chế hoặc cấm, nhưng chỉ được làm như vậy khi có lý do chính đáng từ
hiện thực khách quan và phải phù hợp với Hiến pháp bởi bản thân quyền tự
do kinh doanh là một quyền hiến định và liên quan tới quyền con người,
quyền công dân.
Bảo đảm thi hành Hiến pháp 1992 và thực hiện đường lối, chủ trưởng
của Đảng, Điều 50, Bộ luật Dân sự 2005 qui định:
“Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ.
16


Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền
khác phù hợp với quy định của pháp luật”.
Điều luật này không trực tiếp đưa ra định nghĩa về quyền tự do kinh
doanh nhưng có nói tới các nội dung chủ yếu của quyền này, có nghĩa là nói
tương đối rõ nội hàm của nó. Theo điều luật này, quyền tự do kinh doanh bao
hàm trong nó các quyền như:
(1) Tự do thành lập công ty;
(2) Tự do lựa chọn việc tiến hành các hành vi thương mại;
(3) Tự do do hợp đồng; và

(4) Tự do mua bán sức lao động.
Đây có thể xem là các quyền tự do căn bản để có thể tiến hành các hoạt
động kinh doanh, có nghĩa là thiếu một trong các quyền này thì hoạt động
kinh doanh không thể hoặc khó có thể tiến hành.
GS. TS Mai Hồng Quỳ cho rằng:
“Quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động, khả năng
được lựa chọn và quyết định, một cách có ý thức của cá nhân hay doanh
nghiệp về các vấn đề liên quan đến và trong hoạt động kinh doanh; chẳng hạn
như tự do quyết định các vấn đề khi thành lập doanh nghiệp, lựa chọn qui mô
và ngành nghề kinh doanh; lựa chọn địa bàn kinh doanh; tự do hợp đồng, tự
do lựa chọn đối tác, bạn hàng trong kinh doanh; tự do lựa chọn cơ chế giải
quyết tranh chấp…vv.” [22, tr 54].
Định nghĩa này là một định nghĩa khoa học theo logic hình thức kết
hợp với sự liệt kê các thành tố của quyền tự do kinh doanh mà các thành tố
này bao trùm toàn bộ lĩnh vực hoạt động kiếm sống của tư nhân, có lẽ khó có
thể phân biệt nó với các quyền tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội,
tự do định đoạt của các chủ thể của luật tư…
TS. Bùi Ngọc Cường quan niệm:

17


“Theo nghĩa chủ quan hay nhìn nhận dưới góc độ quyền chủ thể: quyền
tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức của cá
nhân hay pháp nhân trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo
nghĩa này, quyền tự do kinh doanh bao hàm những khả năng mà cá nhân hay
pháp nhân có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp;
tự do do chọn mô hình tỏ chức kinh doanh; tự do lựa chọn đối tác để thiết lập
quan hệ kinh tế, tự do cạnh tranh, tự định đoạt trong việc giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh…” [10, tr. 13].

Theo quan niệm này, nghĩa của quyền tự do kinh doanh rất rộng, không
chỉ đơn thuần bao gồm những vấn đề liên quan trực tiếp tới tổ chức hoạt động
kinh doanh, mà còn bao trùm cả những vấn đề lớn khác có liên quan tới nền
tảng pháp lý, kinh tế căn bản bảo đảm cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh,
quản trị doanh nghiệp và bảo đảm hiệu quả, cũng như các khúc mắc của
doanh nghiệp trong quá trình tham gia thị trường. TS. Bùi Ngọc Cường cho
rằng: “Những khả năng này là thuộc tính tự nhiên của cá nhân (hay pháp
nhân) chứ không phải do Nhà nước ban tặng”. Tuy nhiên theo ông khả năng
này chỉ có thể trở thành hiện thực khi Nhà nước thể chế hóa chúng thành pháp
luật, vì vậy theo nghĩa khách quan, quyền tự do kinh doanh là một chế định
pháp luật qui định về các quyền tự do nói trên [10, tr. 13- 14].
Terry Miller và Anthory b. Kim cho rằng: “Tự do kinh doanh được
hiểu là quyền của cá nhân trong việc thành lập và vận hành doanh nghiệp mà
không bị sự can thiệp, cản trở, nhũng nhiễu từ phía nhà nước” [22, tr. 54].
Đây là một cách thức tiếp cận từ góc độ đối lập giữa nhà nước với xã hội dân
sự và nhấn mạnh tới tính chất tự nhiên của quyền tự do kinh doanh.
Các khảo sát trên cho thấy mấy vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh là một quyền tự nhiên được nhận
thức và được hiến định và được luật hóa;

18


Thứ hai, các qui định của Hiến pháp và pháp luật không đưa ra định
nghĩa quyền này theo logic hình thức mà chỉ khẳng định hoặc mô tả các thành
tố của nó;
Thứ ba, các học giả trong và ngoài nước nhận thức tương đối đồng nhất
về bản chất tự nhiên của quyền này, tuy nhiên quan niệm về các thành tố của
nó có mức độ rộng hẹp khác nhau;
Thứ tư, khó có sự phân biệt thật rạch ròi giữa quyền này với các quyền

tự do khác như tự do hợp đồng, tự do lập hội, tự do định đoạt…
Tóm lại, liên quan tới đề tài Luận văn này, quyền tự do kinh doanh
được hiểu là quyền tự nhiên của con người đã được hiến định và luật hóa để
bảo đảm cho đời sống của con người và bao gồm các quyền tự do góp vốn
thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn hình thức doanh nghiệp, tự do lựa
chọn ngành nghề kinh doanh, tự do thuê mướn và sử dụng lao động, tự do
quản trị doanh nghiệp và tự do lựa chọn đối tác để giao dịch.

2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên lý pháp lý khách quan- Đó là hệ
quả của quyền con người nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng. Con
người, từ tự nhiên đi ra, tất cả đều tự do, bình đẳng và độc lập, và không một
ai có thể bị đưa ra khỏi tình trạng này, và như vậy tự do là sự vắng bóng của
những hạn chế và cưỡng chế, là trạng thái mà con người hành động hoàn toàn
theo chủ ý của mình [14, tr. 48]. Quyền con người hay các quyền tự nhiên của
con người như vậy xuất phát từ nhân phẩm. Do đó PGS. TS. Ngô Huy Cương
lập luận rằng:
“Không ai có nhân phẩm cao hơn ai, do đó không có
dân tộc nào có nhân phẩm cao hơn dân tộc nào, cho nên
không ai có quyền áp bức ai và không dân tộc nào có
quyền áp bức dân tộc nào. Cũng như vậy người cai trị
không có nhân phẩm cao hơn người bị trị. Vì vậy họ
19


không thể lạm dụng vị trí của mình để tước đi cái quyền tự
do của người khác” [13, tr. 8].
Vì vậy quyền con người có các đặc tính: “phổ biến”, “cơ bản”, và
“tuyệt đối”. Đặc tính “phổ biến” thể hiện ở chỗ: không kể chủng tộc, nòi
giống, giới tính, quốc tịch hay địa vị xã hội…, mọi người đều có quyền như

nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Đặc tính “cơ bản” thể hiện ở chỗ: các quyền đó
không thể chuyển nhượng được, dù chúng có thể bị từ chối hay bị vi phạm.
Đặc tính “tuyệt đối” thể hiện ở chỗ: các quyền này là nền tảng căn bản nhất
của đời sống con người mà không thể bị hạn chế hay giảm bớt [26, tr. 84].
Quyền tự do kinh doanh có bản chất là quyền tự nhiên của con người. Do đó
nó dẫn đến một hệ luận quan trọng là mọi thương nhân dù ở thành phần kinh
tế nào đều phải được đối xử bình đẳng trước pháp luật.
Quyền bình đẳng trước pháp luật của thương nhân yêu cầu qui chế
thương nhân phải ghi nhận các quyền và nghĩa vụ chung nhất của mọi thương
nhân trong qui chế chung của thương nhân. Qui chế đặc thù liên quan tới các
thương nhân trong thành phần kinh tế nhà nước chỉ vừa đủ để nhà nước kiểm
soát các thương nhân này không gây tổn hại cho ngân sách nhà nước, cho xã
hội, và không thể đặt ra một đặc ưu nào cho các thương nhân này nếu không
có mục đích bảo đảm cho sự tồn tại chung của cộng đồng. Tuy nhiên các đặc
ưu này phải chính đáng, hợp lý, công khai, minh bạch và có thể giải trình
được.

1.3.2. Các qui tắc kiểm soát việc vào nghề thương mại của thương
nhân thể nhân và việc thành lập thương nhân pháp nhân
1. Năng lực trở thành thương nhân
Thương nhân phải có năng lực vào nghề thương mại do pháp luật qui
định. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam luôn luôn cổ vũ cho việc tạo lập doanh
nghiệp và kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 tại Điều 18, khoản 1 qui định
tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập
20


×