Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số phương pháp tổ chức, quản lý học sinh của người giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.38 KB, 21 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Ngày nay, xu thế đổi mới giáo dục để đào tạo con người cho thế kỉ XXI
đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất và năng lực, làm thay đổi vai trò
và chức năng của người giáo viên, trong đó có người giáo viên chủ nhiệm lớp.
Vai trò xã hội của họ lớn hơn nhiều so với chức năng truyền đạt tri thức. Ngoài
việc đóng vai trò là giáo viên bộ môn giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, họ trước hết
phải là nhà giáo dục, bằng chính nhân cách của mình tác động tích cực đến sự
hình thành nhân cách của học sinh. Với tư cách là nhà giáo dục, người giáo viên
chủ nhiệm cần có ý thức, trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia vào sự phát triển
cộng đồng, đó là nhân cách của học sinh – thế hệ công dân tương lai, người chủ
nhân của một xã hội mới.
Vai trò của người giáo viên chủ nhiệm còn thể hiện ở chỗ, họ là cầu nối
giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài trường, là người tổ
chức phối hợp các lực lượng giáo dục. Có thể nói, người giáo viên chủ nhiệm là
người đại diện cho quyền lợi chính đáng của học sinh, bảo vệ học sinh về mọi
mặt một cách hợp lí. Họ phản ánh chính xác mọi tâm tư, nguyện vọng, quyền lợi
của học sinh với Ban giám hiệu nhà trường, với các giáo viên bộ môn, với gia
đình học sinh và với các đoàn thể xã hội khác. Hiệu quả của công tác giáo viên
chủ nhiệm lớp ở trường trung học phổ thông (THPT) phụ thuộc nhiều vào các
giải pháp thực hiện liên kết giáo dục với các lực lượng xã hội khác. Huy động có
hiệu quả tiềm năng của các lực lượng xã hội vào công tác giáo dục học sinh
không phải là một công việc đơn giản. Nó đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
không những có ý thức trách nhiệm cao, yêu mến học sinh mà họ còn phải là
một nhà hoạt động xã hội, người giáo viên chủ nhiệm cần có hiểu biết rộng, có
nhu cầu và có khả năng không ngừng tự hoàn thiện bản thân, biết vận động mọi
người cùng thực hiện mục tiêu giáo dục.
Trong lĩnh vực công tác, mỗi giáo viên chủ nhiệm phụ trách một lớp học
sinh. Họ chịu trách nhiệm trước Ban giám hiệu, trước Hội đồng giáo dục nhà
trường về chất lượng đào tạo và ý thức kỉ luật của tập thể học sinh đó. Nói một
cách khác, họ là những người quản lí tầm vi mô của nhà trường. Để quản lí có
hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm không chỉ nắm được những số liệu mang


tính hành chính như họ tên, tuổi, số lượng học sinh, gia cảnh, trình độ học sinh
về học lực và đạo đức, mà họ phải biết được tâm lí, sở thích, tính cách học sinh
qua đó có thể dự báo xu hướng phát triển nhân cách học sinh trong lớp để có
phương hướng tổ chức giáo dục, dạy học phù hợp với điều kiện, khả năng của
mỗi học sinh.
Muốn thực hiện được vai trò này, người giáo viên chủ nhiệm phải có
những tri thức cơ bản về tâm lí học, giáo dục học và phải có hàng loạt các kĩ
năng sư phạm như: kĩ năng tiếp cận học sinh, kĩ năng thiết kế các chương trình
và kế hoạch giáo viên chủ nhiệm, kĩ năng thực hiện kế hoạch giáo dục, kĩ năng
3


phối hợp các lực lượng giáo dục, kĩ năng đánh giá kết quả giáo dục và rút ra bài
học kinh nghiệm,...
Để tổ chức một tập thể học tập tốt, tự quản thì người giáo viên chủ nhiệm
phải có phương pháp tổ chức lớp tốt, lựa chọn được đội ngũ cán bộ lớp, chi
Đoàn, tổ trưởng và lực lượng cờ đỏ của lớp có năng lực, có sự say mê, nhiệt
huyết vì tập thể. Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò là người cố vấn trong các
hoạt động, người trọng tài phân xử cho học sinh trong các tình huống khó khăn.
Tức là giáo viên chủ nhiệm không được làm thay các công việc của đội ngũ cán
bộ lớp, chi đoàn mà nhiệm vụ chủ yếu của họ là huấn luyện, bồi dưỡng khả
năng tự quản cho các em, để các em có thể tự trở thành một “lực lượng quản lí
và điều hành” mọi hoạt động của tập thể mình.
Trong nhiều năm liền được Ban giám hiệu nhà trường phân công công tác
giáo viên chủ nhiệm, bản thân tôi thấy mình có sự trưởng thành nhiều, từ một
giáo viên khi mới ra trường ngại tiếp xúc với mọi người, còn ngại ngùng trước
học sinh, xử lí tình huống rất kém,… tôi đã trở thành một giáo viên được nhiều
thế hệ học sinh yêu mến và tôn trọng, được Ban giám hiệu đánh giá cao. Vậy
mỗi giáo viên chủ nhiệm nên có biện pháp tổ chức lớp như thế nào để học sinh
ham học, tích cực xây dựng bài và làm bài, có tinh thần trách nhiệm với tập thể

hơn. Tôi xin được đề xuất một số cách thức tổ chức, quản lí lớp chủ nhiệm của
mình bằng đề tại với nội dung: “Một số phương pháp tổ chức, quản lý học
sinh của người giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học phổ thông”. Hi vọng
rằng với những kinh nghiệm còn khiêm tốn của mình, tôi có thể thay đổi phần
nào hình ảnh người giáo viên chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay, đó là những
con người giàu lòng nhân ái, yêu thương và giúp đỡ học sinh hết lòng.

4


II. NỘI DUNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A. CÔNG TÁC XÂY DỰNG TẬP THỂ TỰ QUẢN.

Trong công tác giáo viên chủ nhiệm, việc xây dựng tập thể tự quản là một
yêu cầu quan trọng, vì tập thể có tự quản tốt, người giáo viên chủ nhiệm mới có
thể tập trung hơn vào việc chỉ đạo, điều hành tốt hoạt động học tập của học sinh.
Ngoài việc tạo cho các em lòng tự giác trước tập thể, tinh thần mình vì mọi
người, cùng phấn đấu xây dựng tập thể, giáo viên chủ nhiệm cần quán xuyến các
hoạt động của học sinh và sát sao trong các mặt nề nếp, hoạt động tập thể và đặc
biệt là tinh thần học tập.
Ngay từ khi được phân công chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm phải nắm
được đầy đủ các thông tin cá nhân của học sinh. Việc điều tra lí lịch của học
sinh giúp người giáo viên chủ nhiệm nắm được nhiều vấn đề về học sinh: hoàn
cảnh gia đình, ước mơ - hoài bão, sở trường - năng lực,... của mỗi học sinh. Xây
dựng các mẫu điều tra là công việc đầu tiên giúp giáo viên chủ nhiệm ổn định tổ
chức cho lớp. Sau đây là mẫu điều tra lí lịch học sinh:
PHIẾU ĐIỀU TRA LÝ LỊCH, THÔNG TIN HỌC SINH
- Họ và tên: ……………………………………………....… Nam (nữ): ………..
- Ngày, tháng, năm sinh: ………………………………………………….............
- Nơi sinh: …………………………………………………………………...........

- Địa chỉ: ………………………………………………- Điện thoại:………….....
- Vào đoàn TNCSHCM: đã vào/chưa. (ngày vào đoàn:…………………………)
- Đã học tại Trường THCS ………………………………………………………
- Đã giữ chức vụ gì trong lớp, liên đội:…………………………………………..
- Họ tên bố: ………………………..….... - nghề nghiệp: ………….…. Tuổi: ….
Nơi công tác: ……………………………………… - ĐT: …………………..
- Họ tên mẹ: .. .………………………….. - nghề nghiệp: …………….. Tuổi: ....
Nơi công tác: …………………………………….... - ĐT: ……………….
- Số anh, chị em: ….. – là con thứ:…… - Hiện nay ở với: ....................................
Lí do: ......................................................................................................................
- Điều kiện kinh tế gia đình: ……………………………………………………...
- Tình trạng sức khỏe của em: …………………………………………………...
- Em có năng khiếu gì? ………………………………………………………….
- Ước mơ của em sau này là theo học ngành/nghề: ……………………............…
- Em có đề nghị với GVCN: ……………………………………………………...
5


Thông qua việc điều tra lí lịch học sinh, giáo viên chủ nhiệm cũng có thể
tham khảo để lựa chọn ra đội ngũ cán bộ lớp, cán sự Đoàn, tổ trưởng dự kiến
(đặc biệt là những học sinh đã từng đảm nhiệm các chức vụ lớp, liên đội khi học
bậc THCS). Giáo viên chủ nhiệm nắm được các thông tin cá nhân như địa chỉ,
điện thoại là cách để phối hợp cùng gia đình giá dục các em khi cần thiết. Cũng
qua việc điều tra đó, người giáo viên chủ nhiệm nắm được phần nào năng khiếu,
sở trường, ước mơ, hoài bão của học sinh để hướng học sinh tới những mục đích
tốt đẹp.
Xây dựng hệ thống cán sự lớp, chi đoàn đủ khả năng tự quản và điều
chỉnh dần để các cá nhân có năng lực, có tâm huyết, có ý thức học tập và kỉ luật
tốt tham gia quản lí, điều hành các mặt của lớp, các phong trào văn nghệ - thể
dục thể thao. Bộ máy tự quản được xây dựng theo sơ đồ sau:

Giáo viên chủ nhiệm

Lớp trưởng
Lớp C
phó
lao động

Bí thư chi đoàn
Lớp phó học tập
kiêm phó bí thư

Các tổ
trưởng

Ủy viên BCH
(thư kí)

Cán sự
môn học

Với cách thức tổ chức tập thể tự quản như trên vừa tránh được quá nhiều
nhân sự cho lực lượng cán bộ lớp và giảm được sự chồng chéo giữa hoạt động
lớp và hoạt động đoàn. Hoạt động học tập, lao động là do cán bộ lớp thực hiện
quản lí, hoạt động văn nghệ, nề nếp là do ban chấp hành (BCH) chi đoàn thực
hiện. Riêng thư kí lớp nằm trong thành phần BCH chi đoàn để tập hợp các nội
dung hoạt động, công tác chung, ghi chép các loại biên bản của lớp. Trong việc
tổ chức tập thể như vậy, lớp trưởng và bí thư chi đoàn là các nhân tố quan trọng
nhất, là đầu tầu trong các hoạt động học tập và phong trào bề nổi của lớp. Việc
tổ chức thêm đội ngũ cán sự môn học để giúp đỡ các học sinh yếu kém vươn lên
và đội cờ đỏ (gồm các tổ trưởng) để tăng cường kiểm tra việc thực hiện các mặt

học tập của học sinh. Làm công tác kiêm nhiệm giữa ủy viên BCH chi đoàn và
thư kí cũng giúp học sinh đó luôn có hoạt động tránh việc bầu ra theo kiểu cơ
cấu nhưng nhiều em lại không hoạt động gì cả. Ngoài ra, để giảm bớt sự chồng
chéo các hoạt động, giảm tải số cán bộ lớp và chi đoàn, chúng tôi còn xây dựng
chức vụ phó bí thư chi đoàn kiêm lớp phó học tập. Tổ chức như vậy sẽ giúp hoạt
động lớp và hoạt động Đoàn luôn thống nhất, giáo viên chủ nhiệm vừa điều
hành, bao quát vừa là cầu nối cho các hoạt động đó. Mô hình tổ chức tập thể tự
6


quản như vậy với trọng tâm là lớp trưởng, bí thư chi đoàn và lớp phó học tập
kiêm phó bí thư được gọi là mô hình kiềng ba chân. Nhiều năm làm giáo viên
chủ nhiệm, đã thay đổi nhiều lần cách thức tổ chức đội ngũ cán sự lớp, bản thân
tôi thấy cách này vừa đơn giản, đỡ cồng kềnh, vừa hiệu quả và phân rõ trách
nhiệm cho cán bộ lớp và chi đoàn.
Công việc, trách nhiệm cụ thể của các thành viên trong ban cán sự lớp, chi
đoàn, tổ trưởng và cán sự chức năng khác được quy định rõ khi bổ nhiệm hoặc
sau khi bầu ra như sau:
- Lớp trưởng: tổ chức, theo dõi chung mọi hoạt động tự quản của lớp. Điều
khiển các tiết sinh hoạt cuối tuần; chủ động hội ý cán bộ lớp, tổ chức bàn
bạc các công việc. Tổng hợp, đánh giá kết quả thi đua các mặt của lớp hàng
tuần, hàng tháng, học kì và cả năm học. Bên cạnh các hoạt động đó, lớp
trưởng cũng đóng vai trò là “phát ngôn viên” của lớp trong các mặt hoạt
động, nắm bắt các thông tin do nhà trường, Ban quản sinh thông báo để lớp
và các cá nhân kịp thời thực hiện.
- Bí thư chi đoàn: tổ chức, điều hành các hoạt động đoàn (văn hóa, văn nghệ,
thể dục - thể thao, câu lạc bộ dưới cờ,...). Tham gia đội cờ đỏ của Đoàn
trường chấm điểm thi đua, phát động các phong trào đoàn. Kết hợp với lớp
trưởng tổ chức các hoạt động tập thể. Bí thư chi đoàn cũng là cầu nối giữa
Ban chấp hành Đoàn trường và chi đoàn trong các mặt hoạt động và là người

phản ánh tâm tư nguyện vọng của các đoàn viên, thanh niên với Ban chấp
hành Đoàn trường.
- Lớp phó học tập kiêm phó bí thư: điều khiển các hoạt động tự quản về học
tập của lớp như: tổ chức trao đổi kinh nghiệm học tập, tổ chức các giờ tự học
khi giáo viên vắng, phụ trách các nhóm cán sự môn học, có kế hoạch giúp
đỡ các học sinh yếu vươn lên,… do kiêm nhiệm chức vụ phó bí thư nên chức
vụ này làm kiêm thêm tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục –
thể thao.
Đây là đội ngũ cán sự được xây dựng theo mô hình kiềng ba chân,
là nền tảng trong việc tổ chức các hoạt động và xây dựng tập thể tự quản.
Đội ngũ này sẽ hỗ trợ đắc lực cho GVCN trong mọi hoạt động và báo cáo
kịp thời các vấn đề của tập thể với GVCN. Bên cạnh ba thành viên cực kì
quan trọng đó, trợ giúp cho lớp trưởng thực hiện tốt các công tác của mình,
tôi cũng xây dựng một số chức vụ khác như sau:
- Lớp phó lao động: Phụ trách việc phân công trực nhật, vệ sinh, lao động
của lớp thường xuyên và định kì. Có trách nhiệm kiểm tra và báo cáo kịp
thời về tình hình cơ sở vật chất của lớp với GVCN và nhân viên bảo vệ của
trường. Lớp phó lao động cũng thay lớp trưởng báo cáo sĩ số và các vấn đề
của lớp với GVCN và Ban quản sinh khi lớp trưởng vắng.
- Ủy viên ban chấp hành chi đoàn kiêm thư kí lớp: kết hợp với bí thư, phó bí
thư tham gia các công tác đoàn, tổ chức các hoạt động bề nổi và ghi chép các
biên bản hoạt động của lớp đầy đủ, kịp thời.
- Tổ trưởng: lớp được chia thành các tổ, mỗi tổ từ 12 – 15 học sinh theo địa
bàn dân cư và đứng đầu là tổ trưởng. Tổ trưởng theo dõi, điều khiển chung
7


các mặt hoạt động và sinh hoạt của tổ. Đóng vai trò đội cờ đỏ của lớp, theo
dõi, tổng hợp các kết quả hàng tuần về học tập, sĩ số, nề nếp,… của từng
thành viên và dựa vào tiêu chí đánh giá để xếp loại hạnh kiểm hàng tuần,

hàng tháng các thành viên của tổ. Hoạt động của các tổ trưởng có thể thay
đổi, trong các tuần các tổ trưởng có thể hoán vị chức năng cho nhau để theo
dõi chéo nhằm đánh giá các học sinh công bằng và hạn chế được sự bao che,
nể nang của tổ trưởng với các tổ viên của mình.
- Cán sự môn học: gồm những học sinh học tốt các bộ môn văn hóa, những
học sinh này có chức năng tổ chức học nhóm, giúp đỡ các học sinh yếu, kém
về các môn. Dưới sự chỉ đạo và điều hành của lớp phó học tập, lực lượng
này sẽ hoạt động thường xuyên và hiệu quả.
Một số GVCN còn xây dựng một số chức vụ khác như cán sự nề nếp, cán
sự thư viện, cán sự tài chính, cán sự thể thao, văn nghệ,… nhưng theo tôi, nhiều
chức vụ quá sẽ khó tổ chức và hoạt động chồng chéo, vì vậy cần có sự kiêm
nhiệm để hệ thống hoạt động giảm bớt sự cồng kềnh. Vả lại, nhiều học sinh
không thể tham gia được vào các công tác đó mặc dù học rất tốt. Việc giữ quỹ
và chi tiêu quỹ lớp cho các hoạt động được lớp trưởng và bí thư thực hiện trên
cơ sở bàn bạc, thống nhất và báo cáo kịp thời các vấn đề thu chi với giáo viên
chủ nhiệm.
Từ thực tế chủ nhiệm các lớp, cũng như từng đưa ra nhiều cách thức tổ
chức cơ cấu cán sự lớp, chi đoàn khác nhau và qua rút kinh nghiệm từ bản thân
và đồng nghiệp, tôi thấy sự tổ chức như vậy mang lại hiệu quả khá tốt trong việc
tổ chức tập thể tự quản. Những năm gần đây, xu thế sĩ số các lớp giảm xuống
theo hướng chuẩn về sĩ số, việc xây dựng đội ngũ cán sự lớp, chi đoàn quá cồng
kềnh thì có khi đến một nửa số học sinh làm cán bộ lớp, chi đoàn, cán sự chức
năng. Vì vậy, việc tập trung đội ngũ cán sự theo hướng trọng tâm là “kiềng ba
chân” kết hợp với một số nhân tố khác đã giúp tổ chức các lớp được đơn giản
hóa và mang lại hiệu quả, việc kiêm nhiệm một số chức năng như vậy là rất phù
hợp.

B. PHƯƠNG PHÁP KÍCH THÍCH LÒNG SAY MÊ HỌC TẬP VÀ ĐÁNH GIÁ
HỌC SINH.


Học bài thụ động là một thói quen xấu, vừa làm các em thiếu sự suy luận,
tư duy lôgic về các vấn đề khoa học vừa ảnh hưởng đến kĩ năng giao tiếp xã hội
của các em sau này. Hiện nay, trong quan niệm của nhiều học sinh, việc giơ tay
phát biểu xây dựng bài là một việc rất khó khăn. Ngại nghiên cứu và tìm hiểu
các kiến thức là một nguyên nhân khiến tình trạng học sinh lười học, lười xây
dựng bài hay xảy ra. Làm thế nào để đa số học sinh gạt bỏ ý nghĩ không hay nêu
trên để các em thêm tích cực? Trong vấn đề này, người giáo viên chủ nhiệm
đóng một vai trò rất quan trọng. Không chỉ định hướng cho các em việc học,
giáo viên chủ nhiệm phải có cách thức khuyến khích, động viên kịp thời các em
8


trong quá trình học tập của mình. Một giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm là
người biết tôn trọng học sinh, tìm hiểu tâm tư, tình cảm của học sinh, qua đó sẽ
có hướng tác động hợp lí tới từng em. Trước tập thể học sinh, người giáo viên
chủ nhiệm phải có cách thức phù hợp để các em thấy được tầm quan trọng của
việc xây dựng bài, học bài như thế nào là tốt nhất.
Học sinh muốn đạt được kết quả cao trong học tập trước hết phải say mê,
yêu thích môn học và có động lực để phấn đấu. Một cách mà bản thân tôi thực
hiện có hiệu quả trong việc kích thích học sinh tích cực học bài và xây dựng bài
chính là đánh giá hạnh kiểm học sinh bằng điểm số và xây dựng quỹ khen
thưởng cho học sinh hàng tháng.
Đánh giá, xếp loại học sinh là một hoạt động không thể thiếu được trong
công tác của người giáo viên chủ nhiệm lớp. Nó lại càng có ý nghĩa quan trọng
trong giai đoạn hiện nay đối với quá trình học tập, rèn luyện, phát triển nhân
cách của học sinh. Nó đòi hỏi sự khách quan, chính xác, tính công bằng và trung
thực của người giáo viên chủ nhiệm. Nếu đánh giá đúng mức sẽ có tác dụng
thiết thực đến từng cá nhân học sinh, đến tập thể lớp và đồng thời với cả công
tác giáo dục của người giáo viên chủ nhiệm.
Đối với học sinh, việc đánh giá chính là tạo cơ hội để các em tự khẳng

định mình trước tập thể về quan điểm, năng lực nhận thức cũng như năng lực
hành động. Nếu đánh giá từ phía người giáo viên chủ nhiệm là công bằng, khách
quan thì sẽ nâng cao sự tự tin ở học sinh, kích thích tính tích cực cá nhân, tạo sự
lạc quan cho các em, phát triển khả năng sáng tạo trong mỗi học sinh. Đối với
tập thể lớp, sự đánh giá công bằng và chính xác của giáo viên sẽ giúp tập thể lớp
biết tự điều chỉnh được công tác tổ chức các hoạt động của tập thể mình. Mặt
khác, đó cũng là điều kiện, là động lực để tăng cường sự giao lưu tích cực giữa
các thành viên với nhau, giúp cho mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, giữa
thầy và trò ngày một tốt đẹp hơn.
Việc xây dựng một thang điểm chung để đánh giá học sinh là một yêu cầu
quan trọng. Đa số học sinh nghĩ rằng chỉ cần đảm bảo đủ các quy định của
trường, lớp như trật tự nghe giảng, đi học đúng giờ, nghiêm túc, lễ phép,... là đã
đảm bảo được xếp loại hạnh kiểm tốt. Tuy nhiên, nhiều học sinh vì thế mà thiếu
ý thức xây dựng bài, tạo cho mình thói quen không tốt, làm hạn chế khả năng
giao tiếp xã hội của chính mình. Bản thân các em thiếu sự tư duy trong một tiết
học, hạn chế tầm hiểu biết sâu rộng các vấn đề. Ngược lại, nhiều học sinh
thường có tính ganh đua nhau trong học tập, đại đa số các em lại không bao giờ
muốn mình bị xếp loại hạnh kiểm không tốt, cũng không muốn các bạn hơn
mình. Dựa vào đặc điểm đó của học sinh, bản thân tôi suy nghĩ và đưa ra một
thang điểm để đánh giá hạnh kiểm cho học sinh đồng thời xây dựng một quỹ
phần thưởng để trao tặng cho các em có thành tích tốt nhất trong các tháng. Phần
thưởng được xây dựng dựa trên những đóng góp do chi hội phụ huynh họp
thống nhất và có kêu gọi các bậc phụ huynh nhiệt tình ủng hộ thêm. Thang điểm
được xây dựng gồm hai phần, điểm trừ (với các vi phạm) và điểm cộng (với các
9


thành tích tốt, các việc làm tốt, kể cả việc tham gia các hoạt động tập thể). Mỗi
học sinh phải đảm bảo đủ các điểm số nhất định mới được xếp loại hạnh kiểm
khá, tốt. Sau khi đưa ra thang điểm chung để đánh giá hạnh kiểm học sinh, giáo

viên chủ nhiệm tập hợp đội ngũ cán bộ lớp, tổ trưởng để hướng dẫn cách thực
hiện theo dõi, đánh giá. Việc thực hiện đánh giá học sinh bằng điểm số cũng
được công bố cho toàn thể học sinh nắm được trước khi thực hiện để đảm bảo
tính minh bạch, công khai, dân chủ trong tập thể. Bằng sự nhạy bén, sát sao của
giáo viên chủ nhiệm và sự nhiệt tình, công minh của đội ngũ cán sự lớp, việc
thực hiện đánh giá mỗi học sinh bằng điểm số sẽ mang lại hiệu quả cao. Thang
điểm được xây dựng theo quan điểm chủ quan của tôi như sau:

 Những lỗi trừ vào điểm thi đua/1 lần vi phạm
STT Lỗi vi phạm
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

21
22
23
24
25
26
27

- Đi học muộn (học chính khóa, học thể dục & GDQP).
- Không mặc đồng phục, không sơ vin theo quy định.
- Nghỉ học (có lí do - viết giấy phép có chữ kí và phụ huynh gọi điện báo).
- Nghỉ học không lí do (không có giấy phép hoặc giấy phép không hợp lệ).
- Bỏ học 1 tiết, nam để tóc dài (tính từ khi nhắc nhỏ, trừ theo ngày).
- Nói chuyện trong giờ học, sinh hoạt lớp (Giáo viên nhắc nhở).
- Nói tục, chửi bậy (kể cả ngoài giờ học mà GV thấy hoặc bạn bè tố cáo).
- Tự ý đổi chỗ trong giờ học, ngả ngốn hoặc ngủ trong lớp.
- Làm mất vệ sinh lớp, ăn quà trong lớp (kể cả ra chơi).
- Bị điểm yếu/kém (0→4), không làm được bài tập, hoặc thiếu bài soạn.
- Bị ghi vào số đầu bài do ý thức kém; vô lễ với GV, những người lớn tuổi.
- Gây xích mích với bạn bè trong và ngoài trường, lớp.
- Ra thể dục giữa giờ, chào cờ, sinh hoạt tập thể muộn, lộn xộn trong hàng.
- Bỏ thể dục giữa giờ, chào cờ, đi xe đạp trong sân trường.
- Nghỉ thể dục giữa giờ, chào cờ (có lí do, báo cáo).
- Bỏ sinh hoạt tập thể (các ngày lễ, kỉ niệm, cắm trại,…).
- Nghỉ sinh hoạt tập thể (có ý kiến của phụ huynh và giấy phép hợp lệ).
- Vi phạm giờ truy bài (lộn xộn, nói chuyện, không học bài, đi lại tự do).
- Bỏ lao động, trực ban, trực nhật được phân công (phạt gấp đôi).
- Lao động không tích cực (hoặc thiếu dụng cụ), trực nhật bẩn.
- Vị trí của bàn có giấy rác, bàn ghế lộn xộn (trừ mỗi người trong bàn).
- Thực hiện không tốt nhiệm vụ được giao (bàn giao cơ sở vật chất, lấy ghế,

quản lí lao động và các việc chuyên trách khác…)
- Cán bộ lớp, Đoàn, tổ trưởng thực hiện không đúng nhiệm vụ.
- Cả tuần không phát biểu, xây dựng bài lần nào.
- Làm hỏng cơ sở vật chất (bị phạt tiền theo quy định nhà trường).
- Uống rượu, bia, hút thuốc, đốt pháo, đánh nhau, nhuộm tóc khác màu đen.
- Cán bộ lớp, Đoàn, tổ trưởng không hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Điểm
trừ
- 15
- 20
- 10
- 30
- 25
- 15
- 25
- 15
- 20
- 10→14
- 30
- 25
-10
- 30
-5
- 45
- 20
- 15
- 20
- 10
- 10

-5
-5
- 10
- 30
- 40
-5

10


 Những thành tích được cộng điểm

STT Những thành tích, ưu điểm
1
2
3
4
5
6
7
8
9

- Hăng hái xây dựng bài (tính theo số lần phát biểu/tuần).
- Được điểm miệng từ 7 điểm trở lên.
- Được điểm kiểm tra viết 8, 9, 10.
- Có những việc làm tốt được tập thể, thầy (cô) khen ngợi, biểu dương.
- Tham gia các phong trào (văn nghệ, TDTT, các hoạt động khác) của lớp,
của trường.
- Tham gia các phong trào có thành tích (được giải: nhất, nhì, ba)

- Cả tuần không vi phạm các điều trên phần I (trừ mục 3, 15) và có XD bài.
- Cán bộ bàn giao cơ sở vật chất hoàn thành tốt nhiệm vụ
- Cán bộ lớp, Đoàn, tổ trưởng hoàn thành tốt công việc được giao.

Điểm
cộng
+4
+ 5→8
+ 5→7
+ 15
+ 10
+10→20
+ 10
+5
+5

 Cách xếp loại hạnh kiểm
Mỗi HS có 90 điểm trong một tuần, số điểm tuần = 90 + (điểm cộng) – (điểm trừ).
- Tổng điểm 100 điểm trở lên: xếp loại Tốt.
- Từ 75 – 99 điểm: xếp loại Khá.
- Từ 60 – 74 điểm: xếp loại Trung bình.
- Từ 30 – 60 điểm: xếp loại Yếu, còn lại xếp loại Kém.

 Khen thưởng
- Điểm trong tuần dùng để xếp loại hạnh kiểm theo tuần, làm cơ sở để xếp hạnh
kiểm tháng. Trong tháng có một tuần hạnh kiểm trung bình thì cả tháng không
được xếp loại tốt. Tương tự với những học sinh vi phạm bị xếp loại yếu trong
tuần thì tháng đó không được xếp loại khá.
- Tổng điểm các tuần trong tháng được dùng để xét khen thưởng hàng tháng (2 3 học sinh).
- Học sinh có ý thức học tập tốt, thành tích công tác và hoạt động tốt, tích cực

học bài và xây dựng bài sẽ có tổng điểm cao. Cuối mỗi tháng, GVCN mời đại
diện chi hội phụ huynh đến giao lưu và phát phần thưởng. Cán bộ Đoàn, lớp, tổ
trưởng thực hiện tốt công tác sẽ có phần thưởng riêng vào đợt khen thưởng cuối
năm. Việc mua, trao phần thưởng do bác chi hội trưởng hội cha mẹ học sinh
thực hiện (phối hợp với giáo viên chủ nhiệm).

Như vậy, một học sinh không muốn mình thua kém bạn bè hoặc hạnh
kiểm không tốt thì phải phấn đấu trong từng mặt hoạt động của mình. Học sinh
chỉ cần hơn kém nhau một vài điểm là đã thấy mình phải cố gắng hơn. Qua cách
làm đó, tôi đã tổ chức được một lớp học tích cực trong học tập, nghiêm túc thực
hiện nề nếp và đạt thành tích cao trong các phong trào thi đua do Đoàn trường tổ
chức. Điều đó còn thể hiện trong việc đánh giá của các thầy cô giáo bộ môn khi
nhận xét về lớp cuối mỗi học kì.
Để việc khen thưởng các học sinh xuất sắc, việc đánh giá hạnh kiểm học
sinh chính xác thì việc đánh giá từng học sinh vô tư, công bằng, chính xác là
11


một yêu cầu cần thiết. Làm được điều đó, việc lựa chọn ra đội ngũ cán bộ lớp,
chi đoàn và tổ trưởng năng động, nhiệt tình và hướng các em tổ chức lớp, theo
dõi các thành viên của lớp, của tổ một cách công minh, vô tư là một yêu cầu cần
thiết. Giáo viên chủ nhiệm vừa sử dụng học sinh trong việc theo dõi, đánh giá,
tổng kết vừa xây dựng các bảng biểu thuận lợi cho việc theo dõi học sinh cho
từng đối tượng. Các bảng biểu được xây dựng theo các bảng phụ lục 1, 2.
C. GIẢM CĂNG THẲNG CHO HỌC SINH TRONG CÁC BUỔI SINH HOẠT

Nhiều giáo viên chủ nhiệm thường tổ chức một giờ sinh hoạt căng thẳng
với học sinh, tất cả các vấn đề tồn tại của học sinh, các mặt hạn chế của lớp
trong cả một tuần đều dồn vào một tiết sinh hoạt để “phanh phui”, xử lí một
cách hết sức nặng nề làm cho học sinh quá nặng nề trong các tiết sinh hoạt lớp

cuối tuần. Làm như vậy, học sinh sẽ đón nhận các giờ sinh hoạt lớp vô cùng
nặng nề, chán nản. Cũng vì thế mà học sinh không có niềm tin vào thầy, cô giáo
chủ nhiệm của mình.
Để học sinh có thể tiếp nhận một giờ sinh hoạt một cách nhẹ nhàng, thoải
mái, người giáo viên chủ nhiệm đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trước hết,
giáo viên chủ nhiệm lớp nên tổ chức học sinh sinh hoạt bằng cách sử dụng đội
ngũ cán sự lớp, ban chấp hành chi đoàn và các tổ trưởng để báo cáo các mặt hoạt
động trong một tuần của tập thể, chỉ ra các mặt còn hạn chế và giáo viên chủ
nhiệm chỉ là người nhận xét, tổng kết các mặt đồng thời dự kiến các kế hoạch
hoạt động cho tuần sau. Với các học sinh có các việc làm tốt, đạt nhiều điểm tốt,
tích cực xây dựng. bài, tham gia các hoạt động tập thể,... giáo viên chủ nhiệm
cần phải biểu dương kịp thời vừa để động viên vừa khích lệ tinh thần làm việc
tốt trong tập thể. Thời gian để nhận xét, tổng kết và đề ra kế hoạch cho tuần sau
không được quá 2/3 thời gian tiết sinh hoạt. Khoảng thời gian còn lại, giáo viên
chủ nhiệm hướng tập thể vào các hoạt động khác như sinh hoạt văn nghệ, thi
văn nghệ, thi kiến thức về các lĩnh vực. Mỗi tháng lại giành 1 buổi sinh hoạt cho
sinh hoạt chi đoàn và nói chuyện, giao lưu với các em về các chủ đề (bàn về
phương pháp học tập; hướng nghiệp – chọn nghề; tư vấn – tìm hiểu các ngành,
nghề; giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản,… ) được nhiều em quan tâm.
Để làm được có hiệu quả các mặt đó, người giáo viên chủ nhiệm vừa phải
có khả năng về tri thức, có hiểu biết rộng về nhiều lĩnh vực đồng thời có lòng
nhiệt tình cao. Ví dụ, để tổ chức thi kiến thức về các lĩnh vực, việc sưu tầm, lựa
chọn các câu hỏi thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau rất khó khăn. Giáo viên
chủ nhiệm vừa là người biên tập, vừa là đạo diễn vừa đóng vai của người dẫn
chương trình, điều đó đòi hỏi mỗi người phải rèn luyện tốt các kĩ năng giao tiếp,
xử lí tốt các tình huống, hiểu biết rộng để giải đáp các vấn đề khi cần thiết. Tiếp
nhận các giờ sinh hoạt với các hoạt động bổ ích, thoải mái như vậy sẽ giúp các
em giảm được các căng thẳng sau một tuần học tập vất vả và thêm hăng say hơn
trong các thời gian tiếp theo.
12



Người giáo viên chủ nhiệm không nên quá căng thẳng trong giờ sinh hoạt
lớp, phải coi tất cả các vi phạm của học sinh trong một tuần là những việc đã
qua, chỉ đưa ra để rút kinh nghiệm, nếu vi phạm nghiêm trọng hơn thì nhắc nhở,
cảnh cáo trước lớp. Việc xử lí các vi phạm của học sinh tùy theo mức độ nặng,
nhẹ mà linh hoạt. Những vấn đề của từng cá nhân học sinh nên giải quyết vào
một thời gian nào đó, giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng giải quyết, xử lí.
Giáo viên chủ nhiệm hết sức khéo léo trong các trường hợp học sinh có những
thay đổi lớn trong học tập (như tự nhiên thiếu tập trung, chuyện tình cảm bộc
phát, học tập sa sút trong thời gian ngắn, bị lôi cuốn vào các trò chơi trực
tuyến,...). Cần phải làm sao để học sinh thấy giáo viên chủ nhiệm như người biết
lắng nghe, biết thấu hiểu mình, qua đó sẽ giúp các em dần tiến bộ hơn. Làm
được như vậy học sinh sẽ tin yêu và kính trọng với thầy, cô giáo chủ nhiệm hơn.
Thực tế cho thấy, người GVCN thành công là người được học sinh tôn trọng
chứ không phải là người mà học sinh sợ.
D. SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VÀ GIA ĐÌNH

Gia đình là môi trường giáo dục, là lực lượng giáo dục đầu tiên ảnh hưởng
đến học sinh, đặc biệt là người mẹ. Sự ảnh hưởng của gia đình là rất quan trọng
đến sự phát triển nhân cách của các học sinh. Việc kết hợp giữa giáo viên chủ
nhiệm và hội cha mẹ học sinh cùng tham gia giáo dục các em là một nhiệm vụ
quan trọng và cần thiết. Để kết hợp được giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình
học sinh trong việc giáo dục các em, người giáo viên chủ nhiệm phải làm sao
cho chính cha mẹ các em đặt niềm tin vào mình.
Để tạo ra cái uy, thể hiện được năng lực của mình trước cha mẹ học sinh,
giáo viên chủ nhiệm vừa phải có thái độ bình tĩnh trong ứng xử, khéo léo và dứt
khoát, và phải thể hiện được phương pháp quản lí học sinh của mình để các bậc
phụ huynh học sinh hiểu và ủng hộ. Việc đầu tiên để phụ huynh ủng hộ, tin
tưởng chính là khả năng tổ chức các buổi họp phụ huynh. Sự sâu sắc của người

GVCN trong các buổi tổ chức họp phụ huynh là rất quan trọng, việc đưa ra
phương hướng tổ chức lớp, việc kết nối giữa nhà trường và gia đình tốt hay
không chính là nhờ vào khả năng của mỗi GVCN. Nhiều giáo viên chỉ vì tổ
chức họp phụ huynh thiếu đi cái uy mà tự đánh mất đi hình ảnh của mình và sự
ủng hộ của phụ huynh học sinh. Vai trò chủ động trực tiếp tổ chức sự liên kết
giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình thể hiện rõ trong các hoạt động:
- Vào đầu năm học, khi lập kế hoạch giáo dục lớp, giáo viên chủ nhiệm
còn dự kiến nội dung hoạt động của chi hội cha mẹ học sinh, đặ ra yêu cầu,
nhiệm vụ của giáo dục gia đình. Nội dung của buổi họp phải rõ ràng, chi tiết và
dễ hiểu.
- Giáo viên chủ nhiệm triệu tập cuộc họp phụ huynh theo quy định của
nhà trường nhằm: báo cáo mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch năm học của nhà
trường, của lớp; nêu lên những yêu cầu đối với gia đình và chi hội phụ huynh
học sinh trong việc giáo dục con em họ; tập hợp ý kiến đóng góp của cha mẹ
học sinh, cùng với nhà trường tổ chức giáo dục học sinh có hiệu quả trong từng
13


thời gian cụ thể cho học sinh của cả lớp nói chung, học sinh cá biệt nói riêng;
đánh giá kết quả giáo dục học sinh; trao đổi kinh nghiệm giáo dục,...
- Với các học sinh vi phạm kỉ luật nặng hoặc vi phạm kỉ luật có hệ thống,
giáo viên chủ nhiệm kết hợp chặt chẽ với phụ huynh. Xây dựng được các biên
bản trao đổi giữa phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm (phụ lục 3), biên bản phải
thể hiện được tình trạng cụ thể của học sinh và cam kết quản lí học sinh của phụ
huynh sau khi trao đổi. Làm như vậy sẽ tạo được sự ràng buộc trách nhiệm của
phụ huynh với con em mình.
Trong giai đoạn hiện nay, khi công nghệ thông tin đang phát triển, có
nhiều cách khác nhau để quản lí học sinh, có người quản lí học sinh thông qua
mạng internet (bằng các website cá nhân, bằng email,...), nhưng làm như vậy
thật bất tiện cho các bậc phụ huynh vì sự hiểu biết và điều kiện của nhiều gia

đình còn hạn chế. Muốn quản lí tốt học sinh giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ
huynh phải nắm rõ các thông tin của nhau như địa chỉ, điện thoại liên hệ. Gặp
các vấn đề gì lớn ảnh hưởng đến học sinh hoặc các biểu hiện bất thường, các vấn
đề đột xuất, sự trao đổi thông tin sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh
quản lí học sinh tốt hơn. Kể cả việc nghỉ học có giấy phép của học sinh cũng
được phụ huynh học sinh thông báo để giáo viên chủ nhiệm nắm được tránh tình
trạng học sinh giả mạo chữ kí để bỏ học đi chơi.
Nếu giáo viên chủ nhiệm sát sao với học sinh, các vấn đề bất thường, việc
nghỉ học, các biểu hiện tiêu cực của học sinh,... được giáo viên chủ nhiệm thông
tin kịp thời sẽ là cách để hạn chế thấp nhất các tiêu cực của học sinh.
E. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHÁC

Để hoạt động học tập và thực hiện nề nếp được tốt, bên cạnh các quy định
mà giáo viên chủ nhiệm đưa ra để áp dụng cũng cần phải có các biện pháp khác
bổ sung để quản lí các em. Bản thân tôi cũng thực hiện một số biện pháp khác
như sau:
- Thông qua học sinh, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình các em (hộ khó khăn,
bố (mẹ) mất sớm, bố mẹ làm ăn ở xa, tình trạng sức khỏe,…). Qua đó, có
sự động viên, an ủi giúp các em có thêm nghị lực, niềm tin cho việc học
tập.
- Lấy chữ kí và số điện thoại của phụ huynh học sinh để kiểm tra các vấn
đề của học sinh: xin phép nghỉ học, ốm, vấn đề tài chính,…
- Với các học sinh cá biệt, sự quan tâm nhắc nhở và động viên cũng là cách
tốt để các em hướng hành vi của mình theo hướng tốt hơn. Sự kỉ luật kết
hợp với sự quan tâm của giáo viên chủ nhiệm chắc chắn làm nhiều em
tiến bộ.

14



- Thực hiện kiểm tra vở ghi, vở soạn, vở bài tập và các đồ dùng học tập
(SGK, sách bài tập, bút, bút chì, thước kẻ, túi bài kiểm tra,…) của học
sinh theo định kì (theo tổ, nhóm) hoặc đột xuất (kiểm tra các cá nhân) là
cách tốt tạo cho học sinh thói quen học bài, làm bài và chuẩn bị đồ dùng
đầy đủ trước khi đến lớp.
- Thực hiện giao lưu giữa thầy cô giáo với học sinh thông qua việc mời một
số giáo viên bộ môn đến trao đổi về phương pháp học tập bộ môn cho học
sinh trong các giờ sinh hoạt. Học sinh được giao lưu với thầy cô và tìm
hiểu thêm các kinh nghiệm học tập của thầy cô giáo cũng như các bạn
trong lớp. Đây là cách tiếp cận môn học rất tốt với học sinh.
- Kiểm tra đột xuất các hoạt động của học sinh như truy bài đầu giờ, thể
dục giữa giờ, sinh hoạt tập thể, thực hiện đồng phục,… và kiểm tra đột
xuất sự theo dõi của các tổ trưởng để đảm bảo tránh sự bao che. Làm như
vậy cũng giúp học sinh tăng tính tự giác thực hiện các nội quy, quy định
hơn.
- Kết hợp tốt với giáo viên bộ môn trong việc tìm hiểu các vấn đề tồn tại
của học sinh: lười học, lười soạn bài và làm bài ở nhà, ý thức giờ học
không tốt,… qua đó uốn nắn, điều chỉnh kịp thời hoặc thông báo để phụ
huynh nắm được.
- Học sinh vi phạm kỉ luật đến mức phạt lao động, giáo viên chỉ cần sử
dụng phiếu báo phạt lao động giao học sinh về xin chữ kí của bố (hoặc
mẹ). Phụ huynh vừa nắm được tình hình con em mình vi phạm vừa biết
được thực tế tình hình lao động (do phân công hay do kỉ luật).
- Để nghiên cứu hiểu học sinh, bản thân tôi cũng xây dựng một cuốn sổ
theo dõi các hoạt động. Sổ theo dõi này khác với “sổ công tác chủ
nhiệm”, nó đóng vai trò như một nhật kí giáo viên chủ nhiệm. Nhật kí chủ
nhiệm để dùng ghi lí lịch, thông tin cụ thể từng học sinh về ưu nhược
điểm, tính cách, sự tiến bộ, suy nghĩ, những hiện tượng học sinh vi phạm;
để lưu các biên bản trao đổi ciuar giáo viên chủ nhiệm và gia đình,…. và
cả theo dõi thu chi các loại quỹ.

- Tổ chức các hoạt động như: Tham thăm hỏi, động viên những em học
sinh có hoàn cảnh khó khăn, leo đơn, ốm đau hoặc có gia đình tang,…
Giúp các em có tinh thần đoàn kết, gắn bó hơn với tập thể.

15


III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết quả đạt được
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm các lớp, tôi nhận thấy việc xây
dựng tập thể tự quản và đưa ra thang điểm đánh giá hạnh kiểm học sinh hàng
tuần nêu trên có những thay đổi tích cực trong ý thức học tập và chấp hành kỉ
luật của học sinh. Điều đó thể hiện qua kết quả các đợt thi đua và xếp loại thi
đua các học kì, cuối năm do Đoàn trường đánh giá. Qua các năm học, khi chưa
thực hiện được xếp loại học sinh và tổ chức tập thể tự quản, kết quả thi đua
thường không thực sự tốt.
Kết quả thi đua qua các năm học do tôi chủ nhiệm các lớp được thống kê
với kết quả như sau:
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Lớp

10G
11G
12G
12G
12A
12D
10D
11D
12D

Năm học
2002 - 2003
2003 - 2004
2004 - 2005
2005 - 2006
2006 - 2007
2007 - 2008
2008 - 2009
2009 - 2010
2010 - 2011

Xếp thứ tự thi đua
7/11
13/14
10/17
10/18
19/19
5/18
1/14
1/21

3/21 (học kì I)

Từ những năm học 2007 – 2008 bước đầu cải tiến cách tổ chức tập thể tự
quản và đánh giá học sinh, bản thân tôi thấy có nhiều thành công bước đầu. Việc
quản lí học sinh thực sự có hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố
nhưng nếu giáo viên chủ nhiệm có phương pháp quản lí, tổ chức tốt thì hoạt
động của lớp ổn định, học sinh yên tâm trong học tập. Bằng phương pháp mới
vận dụng trong quản lí học sinh, từ 1 tập thể 11D yếu kém của năm học 2006 –
2007 (xếp thứ 17/18 tập thể) với nhiều học sinh cá biệt và tình trạng lười học
thường xuyên, tôi đã tổ chức và điều khiển học sinh của mình vươn lên thành
một tập thể vững mạnh với thứ tự xếp loại thi đua 5/18.
Từ các năm học 2008 → 2011, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 10D
(nay là 12D), với việc đổi mới toàn diện cách quản lí học sinh lớp chủ nhiệm so
với các năm trước đã mang lại những điểm nhấn trong công tác giáo dục học
sinh của mình. Từ việc tổ chức tập thể tự quản với trọng tâm là mô hình “kiềng
ba chân”, áp dụng đánh giá học sinh bằng điểm số, việc quản lí sĩ số, ý thức học
sinh thông qua trao đổi bằng điện thoại với gia đình, đặc biệt là áp dụng đổi mới
các giờ sinh hoạt bằng các hoạt động chủ điểm và các cuộc thi kiến thức,… kết
16


hợp với sự quan tâm, gần gũi của một người giáo viên chủ nhiệm với học sinh,
qua các đợt thi đua, thành tích đạt được của tập thể thể hiện rất tốt:
- Năm học 2008 – 2009:
+ Thi đua đợt 20 – 11: 1/14 tập thể
+ Bí thư chi đoàn, lớp trưởng xuất sắc.
+ Chi đoàn vững mạnh toàn diện.
+ Văn nghệ 20 – 11: 1/29 tập thể
+ Thi đua đợt 26 – 3: 1/14 tập thể.
+ Thi rung chuông vàng: 1 giải nhì cá nhân.

+ Giải bóng đá mini: giải ba toàn trường.
- Năm học 2009 – 2010:
+ Thi đua đợt 20 – 11: 2/21 tập thể
+ Bí thư chi đoàn, lớp trưởng xuất sắc.
+ Chi đoàn vững mạnh toàn diện.
+ Thi báo bảng: 1 giải nhất môn toán.
+ Thi rung chuông vàng: 1 giải nhất cá nhân.
+ Văn nghệ 20 – 11: 1/32 tập thể
+ Thi đua đợt 26 – 3: 1/21 tập thể.
+ Giải bóng đá mini: giải ba toàn trường.
- Học kì I năm học 2010 – 2011:
+ Thi đua đợt 20 – 11: 1/21 tập thể
+ Bí thư chi đoàn xuất sắc – được tặng bằng khen của huyện đoàn.
+ Chi đoàn vững mạnh.
+ Văn nghệ 20 – 11: 3/32 tập thể
+ Giải thể dục (kéo co): giải ba toàn trường.
+ Thi báo tường đợt 20 – 11: giải khuyến khích.
+ Thi báo bảng: 3 giải nhất các môn văn hóa.
Điều đặc biệt là trong năm học đầu tiên chủ nhiệm lớp 10D (năm học
2008 - 2009), mọi hoạt động của lớp, các phong trào Đoàn chủ yếu do giáo viên
chủ nhiệm tổ chức, cán sự lớp, cán sự Đoàn chỉ đóng vai trò nhất định. Nhưng
cùng với sự thay đổi, điều chỉnh trong cách đánh giá, xếp loại học sinh, tổ chức
17


các cán bộ tổ theo dõi các công việc của các tổ và của lớp, dần dần các hoạt
động đã đi được vào nề nếp. Học sinh đã biết tự điều chỉnh hành vi, thái độ của
mình theo nội quy, quy định đề ra.
Về kết quả đạt được của việc đánh giá, xếp loại học sinh bằng điểm số: đa
số học sinh tự giác thực hiện tốt các quy định đề ra. Việc xây dựng bài của học

sinh rất sôi nổi và mang lại sự hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động
dạy – học. Số tiết mà lớp được các thầy cô chọn để thao giảng trong các đợt thi
đua nhiều hơn hẳn so với các lớp khác. Kết hợp với việc đánh giá bằng điểm số
của mỗi học sinh là các phần thưởng kịp thời mà chi hội phụ huynh thưởng cho
các học sinh xuất sắc nhất mỗi tháng đã dậy lên không khí thi đua đạt nhiều
điểm tốt, thi đua xung phong xây dựng bài và cả thi đua làm nhiều việc tốt trong
các em. Nhiều gương mặt học sinh xuất sắc được biểu dương thường xuyên từ
phía hội cha mẹ học sinh và giáo viên chủ nhiệm đã góp phần khích lệ rất nhiều
với các em.
Việc kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm quản lí sĩ số
đã hạn chế tối đa tình trạng học sinh bỏ học hoặc mạo chữ kí bố mẹ để bỏ học đi
chơi. Mọi thông tin của học sinh, kể cả ốm hay việc riêng đều được phụ huynh
thông báo kịp thời và do đó không có tình trạng học sinh bỏ học, bỏ tiết trong
suốt khóa học. Việc trao đổi thông tin học sinh ở trường kịp thời cho gia đình
cũng hạn chế tình trạng học sinh vi phạm nề nếp.
Việc cán sự lớp báo cáo kịp thời tình hình của lớp với giáo viên chủ
nhiệm đã giúp giáo viên chủ nhiệm kịp thời xử lí các hiện tượng vi phạm cũng
như ngăn chặn các hành vi tương tự xảy ra. Do đó, trong suốt quá trình học tập
của học sinh, rất ít các vi phạm về nề nếp xảy ra với tập thể lớp do tôi chủ
nhiệm.

2. Kiến nghị
Công tác chủ nhiệm là một trong các công tác trọng tâm, quan trọng trong
việc giáo dục đạo đức, ý thức tổ chức kỉ luật, hình thành nhân cách của học sinh
do vậy qua đề tài của mình tôi cũng xin mạn dạn đưa ra một số kiến nghị với các
đồng chí lãnh đạo các cấp như sau:
- Để có được một tập thể học sinh tốt, bên cạnh vai trò quan trong của
người giáo viên chủ nhiệm thì sự kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với
các giáo viên bộ môn và Ban quản sinh trong việc giáo dục đạo đức, ý
thức kỉ luật của học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng.

- Ban giám hiệu nhà trường tổ chức các buổi sinh hoạt bàn về phương pháp
chủ nhiệm để mọi giáo viên có thể đưa ra ý kiến, phương pháp của mình,
qua đó sẽ hoàn thiện phương pháp công tác của người giáo viên chủ
nhiệm phù hợp với đặc trưng của nhà trường.
18


- Ban giám hiệu quan tâm hơn đến công tác chủ nhiệm của giáo viên, kể cả
việc dự giờ tiết sinh hoạt để nhận xét, rút kinh nghiệm về công tác tổ chức
của giáo viên, nhất là giáo viên trẻ mới ra trường.
- Có những động viên, khen thưởng kịp thời cho các giáo viên thực hiện tốt
công tác giáo viên chủ nhiệm nhằm khích lệ ý thức, trách nhiệm của mỗi
giáo viên.
- Ngành giáo dục mở rất nhiều các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp
vụ nhưng chưa có các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên chủ nhiệm.
Vì vậy, kính đề nghị các đồng chí lãnh đạo cấp trên lưu tâm hơn về hoạt
động này.
- Các trường nên hạn chế việc thay đổi giáo viên chủ nhiệm nhiều lần, đặc
biệt là với lớp 12. Việc thay đổi giáo viên chủ nhiệm chỉ thực hiện khi
giáo viên chủ nhiệm lớp thiếu phương pháp quản lí học sinh dẫn đến tập
thể quá yếu kém.

19


PHỤ LỤC: MỘT SỐ MẪU THEO DÕI ĐƯỢC SỬ DỤNG

20



21


PHỤ LỤC 3:BIÊN BẢN TRAO ĐỔI VỚI PHỤ HUYNH:
TRƯỜNG ……………………………..
--

Số:

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

/…..

........

BIÊN BẢN TRAO ĐỔI, LÀM VIỆC VỚI PHỤ HUYNH
I. Thời gian: ....... giờ........ phút, ngày ......... tháng ........ năm 20.......
II. Địa điểm: ...............................................................................................................................................................
GVCN lớp …… (thầy/cô ………………………..) đã trao đổi với bác
................... .................................................. , là phụ huynh em ...................................................................... - học
sinh lớp ….. - Trường THPT …………………………, để thông báo về tình hình học
tập và ý thức tổ chức kỷ luật của em ...........................................
III. Nội dung:
1. GVCN thông báo với phụ huynh học sinh về tình hình học tập và kỷ luật của em
...................................................... kể từ ........................................... đến nay (
/ / 20…). Mặc dù đã
nhiều lần GVCN nhắc nhở, cảnh cáo hoặc kỷ luật song em .......................... vẫn không có
sự tiến bộ, các vi phạm cụ thể như sau:
1. Ngày

2. Ngày
3. Ngày
4. Ngày
5. Ngày
6. Ngày

/
/
/
/
/
/

/201
/201
/201
/201
/201
/201

- vi phạm:
- vi phạm:
- vi phạm:
- vi phạm:
- vi phạm:
- vi phạm:

2. Ý kiến của GVCN đối với trường hợp em

3. Ý kiến và cam kết của phụ huynh học sinh:


Chữ kí xác nhận của phụ huynh

Nam Sách, ngày ... tháng... năm 20...
Giáo viên chủ nhiệm

22


MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.........................................................................................................................3
II. NỘI DUNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ....................................................................................5
A. CÔNG TÁC XÂY DỰNG TẬP THỂ TỰ QUẢN.....................................................................5
B. PHƯƠNG PHÁP KÍCH THÍCH LÒNG SAY MÊ HỌC TẬP VÀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH.
...........................................................................................................................................................8
C. GIẢM CĂNG THẲNG CHO HỌC SINH TRONG CÁC BUỔI SINH HOẠT...................12
D. SỰ PHỐI HỢP GIỮA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VÀ GIA ĐÌNH.....................................13
E. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHÁC.................................................................................................14

III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................16
1. Kết quả đạt được.......................................................................................................................16
2. Kiến nghị....................................................................................................................................18

PHỤ LỤC: MỘT SỐ MẪU THEO DÕI ĐƯỢC SỬ DỤNG..................................................20
..................................................................................................................................................20
..................................................................................................................................................21
PHỤ LỤC 3:BIÊN BẢN TRAO ĐỔI VỚI PHỤ HUYNH:...................................................22
MỤC LỤC................................................................................................................................23


23



×