Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.48 KB, 30 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là chính sách đổi mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại cùng với xu hướng toàn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới, ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch của Ninh Bình nói riêng cũng
có những bước tiến nhất định và ngày càng có tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực
của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Du lịch được xác định “ là một ngành kinh tế mũi
nhọn” trong các ngành kinh tế quốc dân và đang hội nhập với trào lưu phát triển du lịch
của khu vực và thế giới. Khách du lịch đến Việt Nam đặc biệt là Ninh Bình đang ngày
một tăng. Phát triển du lịch của Ninh Bình là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp
với chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Với vị trí địa lý và tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, những chính sách
phù hợp, thời gian qua du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp
tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên trong quá trình phát
triển, nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác hiệu quả, sự phát triển du lịch Ninh
Bình chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình. Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật
của Tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng phục vụ còn thấp, sản phẩm du lịch còn
nghèo nàn, chưa phong phú. Đầu tư phát triển du lịch trên địa bàn Tỉnh còn dàn trải và
thiếu tập trung, khả năng thu hút vốn từ các nhà đầu tư không được cao.
Chính vì thế trong thời gian đi thực tập vừa qua, em đã nghiên cứu và viết báo
cáo thực tập, tên đề tài là:
“Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình.”
Nội dung báo cáo được chia làm 2 chương:
Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn 2006-2009
Chương II: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư vào du
lịch Tỉnh Ninh Bình
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH
NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2006-2009


I. Những đặc điểm và tình hình kinh tế - xã hội của Ninh Bình ảnh hưởng tới đầu
tư phát triển du lịch của tỉnh.
1. Điều kiện tự nhiên
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1 Vị trí địa lý:
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí giới hạn từ
19
o
50 đến 20
o
26 vĩ độ Bắc, từ 105
o
32 đến 106
o
20 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Hà Nam;
phía Đông giáp Nam Định; phía Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây và Tây Nam giáp
Thanh Hóa; phía Tây giáp Hòa Bình.
Nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, nằm trên tuyến đường giao thông đường
sắt, đường bộ xuyên Việt, Ninh Bình trở thành một cầu nối giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa hai miền Nam-Bắc. Ninh Bình lại nằm trong vùng dồi dào năng lượng; có biển và
hệ thống sông thông ra biển rất thuận lợi trong việc giao lưu với các tỉnh và quốc tế.
Ninh Bình có các quốc lộ đi qua là 1
A
, 10, 12
B
, 45, có đường sắt Bắc Nam, có
nhiều sông chảy qua (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vân, sông Vạc, sông Lạng…).
Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp với

đồng bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng núi Tây
Bắc, trong khu đệm Hòa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là vùng chuyển
tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các núi, đồng bằng, bờ
biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến và đây là dạng địa hình
đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có giá trị trong việc thu hút
khách du lịch.
1.2. Địa hình:
Ninh Bình có một địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, đồi núi, nửa đồi núi và
vùng ven biển. Về địa hình có ba vùng khá rõ:
- Vùng đồi núi, nửa đồi núi với các dãy núi đá vôi, núi nhiều thạch sét, sa
thạch, đồi đất đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp, đầm lầy, ruộng trũng ven núi, có
tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là đá vôi, có nhiều tiềm năng phát triển là phát triển du
lịch
- Vùng đồng bằng trung tâm là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven sông, có
nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, và sản
xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Vùng ven biển và biển có nhiều điều kiện phát triển nuôi trồng thuỷ sản khai
thác các nguồn lợi ven biển.
Đồi núi trùng điệp chiếm quá nửa diện tích tự nhiên của tỉnh; các vùng nửa đồi
núi tuy không lớn nhưng lại phân bố rải rác, xen kẽ chạy dài từ điểm cực Tây huyện Gia
Viễn theo hướng Đông Nam qua huyện Hoa Lư, Yên Mô xuống Kim Sơn và ra tới biển
Đông (giáp huyện Nga Sơn - Thanh Hoá). Điểm cao nhất so với mặt biển là đỉnh Mây
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bạc trên vườn Quốc gia Cúc Phương cao 656m, điểm thấp nhất so với mực nước biển là
xã Gia Trung huyện Gia Viễn (-0,4m). Huyện Gia Viễn, Yên Mô và một phần huyện
Hoa Lư là vùng trũng, hay bị úng lụt. Toàn tỉnh có 18 km bờ biển thuộc huyện Kim
Sơn, có cửa sông Đáy đổ ra biển tạo ra vùng bãi bồi hàng năm tiến thêm ra biển khoảng
100 - 120m và quĩ đất tăng thêm hàng năm khoảng 140 - 168ha. Với địa hình đa dạng

như vậy, Ninh Bình có đủ điều kiện để phát triển một nền kinh tế tổng hợp. Đứng về
mặt địa hình, Ninh Bình cần tính tới các phương án khai thác hợp lý lãnh thổ để có sự
phát triển tổng hợp, đạt nhịp độ tăng trưởng cao
1.3. Khí hậu:
Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng, ngoài ảnh hưởng
sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, Đông Nam, còn chịu ảnh hưởng của khí hậu ven biển,
khí hậu rừng núi và nửa rừng núi. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa khá rõ rệt: mùa
khô từ tháng 11 - 12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ tháng 5 - tháng 10.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,2
oC
và có sự chênh lệch không nhiều giữa các
vùng (hơn kém nhau từ 0,3-0,4
oC
); tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất là 29,3
oC
,
tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 17,9
oC
. Số giờ nắng trung bình mỗi tháng là
117,3 giờ, tháng 6 cao nhất là 187,4 giờ, tháng 2 thấp nhất là 24,3 giờ. Tổng số giờ nắng
trung bình năm trên 1.400 giờ. Tổng nhiệt độ năm đạt tới trị số trên 8.500
oC
, có tới 8-9
tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên 20
oC
.
Độ ẩm trung bình hàng năm là 83% và có sự chênh lệch không nhiều giữa các
tháng trong năm: tháng 2 cao nhất là 89%, tháng 11 thấp nhất là 75%; giữa các vùng
chênh lệch nhau trên dưới 1%.
Lượng mưa rơi trung bình toàn tỉnh đạt từ 1.860 - 1.950 mm, phân bố tương đối

đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ của Tỉnh. Trung bình một năm có 125 - 127 ngày mưa.
Lượng mưa trung bình mỗi tháng là 238,8 mm; tháng 9 cao nhất là 816 mm, tháng 1
thấp nhất là 8,5 mm. Lượng mưa phân bổ không đều trong năm, thường tập trung vào
các tháng từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm từ 86 - 91% tổng lượng mưa trong năm.
1.4 Thuỷ văn
Ninh Bình có nhiều sông và đầm hồ. Đây là nguồn nước mặt cung cấp nước cho
công nghiệp, nông lâm nghiệp và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng. Hàng năm, hệ thống
sông ngòi ở Ninh Bình được nuôi dưỡng bằng nguồn nước mưa dồi dào, tạo nên lượng
dòng chảy tương đối phong phú (khoảng 30 l/s/km
2
). Mật độ mạng lưới sông ngòi
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 0,6-0,9 km/km
2
. Các sông lớn thường chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam để
đổ ra biển. Ninh Bình có nhiều hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Thắng, hồ Đồng
Chương, hồ Yên Quang, hồ Đầm Cút, đầm Vân Long... Với điều kiện thủy văn như vậy
rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều
miền địa lý khác nhau: nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới. Trên cơ sở đó có thể phát triển nền
nông nghiệp đa dạng. Đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp,
du lịch và các hoạt động phát triển kinh tế khác.
1.5 Sinh vật
Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có giá
trị đối với du lịch tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc Phương là
loại rừng mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng (5 tầng), phong
phú về thành phần loài (2.000 loài). Động vật ở Cúc Phương cũng rất phong phú với
233 loài động vật có xương sống, nhiều loài chim và 24 trong số 30 bộ côn trùng có mặt
tại Việt Nam. Bên cạnh Vườn quốc gia Cúc Phương, khu bảo tồn đất ngập nước Vân

Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái núi đá ngập nước. Đây cũng là
nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng - một loài linh trưởng quý hiếm đã
được ghi trong Sách đỏ thế giới.
1.6. Đất đai:
Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên là 139.011 ha, trong đó đất cho sản xuất
nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp 27.644 ha
(chiếm 19,89% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 15.197 ha (chiếm 10,93% diện tích
tự nhiên), đất khu dân cư 5.346 ha (chiếm 3,85% diện tích tự nhiên) và đất chưa sử dụng
17.094 ha (chiếm 12,3% diện tích tự nhiên).
Nhìn chung, tài nguyên đất ở Ninh Bình có độ phì trung bình với ba loại địa hình
ven biển, đồng bằng và bán sơn địa nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng thuộc
nhóm cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản;
đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác dụng. Vùng gò đồi có nhiều tiềm năng để chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển công nghiệp. Đây là một lợi thế của Ninh
Bình so với một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, diện tích đất chưa
sử dụng là 17.094 ha trong đó khả năng đưa vào khai thác cho các hoạt động kinh tế
(trừ núi đá không rừng cây) còn 12.139 ha chiếm 8,73% diện tích tự nhiên.
1.7. Tài nguyên khoáng sản:
Đá vôi: đây là nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh Bình. Với những
dãy núi đá vôi khá lớn, chạy từ Hòa Bình qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp,
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Yên Mô ra tới tận Biển Đông dài hơn 40 km; diện tích trên 1,2 vạn ha, với trữ lượng
hàng chục tỷ m
3
đá vôi, chất lượng tốt.
Đất sét: Phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp thuộc xã Yên Sơn, Yên Bình, thị
xã Tam Điệp, các huyện Gia Viễn, Yên Mô, dùng để sản xuất gạch ngói và làm nguyên
liệu cho ngành đúc, đảm bảo cho xây dựng các nhà máy sản xuất gạch công suất 20-50

triệu viên/năm, khai thác ổn định trong vài chục năm.
Tài nguyên nước khoáng: Nước suối Kênh Gà (Gia Viễn) có vị mặn, trữ lượng
lớn, thường xuyên có nhiệt độ tới 53 - 54
OC
, có thể khai thác đưa vào tắm, ngâm chữa
bệnh kết hợp với du lịch rất tốt. Nguồn nước khoáng Cúc Phương dùng để sản xuất
nước giải khát và tắm ngâm chữa bệnh, có thành phần magiêbicarbonat cao.
Tài nguyên than bùn: có trữ lượng nhỏ (khoảng 2 triệu tấn), phân bố ở Gia Sơn,
Sơn Hà (Nho Quan), Quang Sơn (thị xã Tam Điệp)...
Một số khoáng sản khác như: cát xây dựng, sét gốm sứ, sét ximăng, gạch ngói
trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác ven vùng đồi núi thấp ven thị xã Tam Điệp, Gia Viễn,
Yên Mô.
Bên cạnh đó, Ninh Bình còn nằm gần các nguồn năng lượng lớn của quốc gia ở
miền Bắc như: bể than Quảng Ninh; thuỷ điện Hoà Bình; Nhiệt điện Phả Lại... giúp cho
Ninh Bình thoả mãn các nhu cầu về than, điện phục vụ cho phát triển sản xuất cũng như
nhu cầu dân sinh.
2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội:
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động xấp
xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km
2
. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc Mường
chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa, H’Mông, Dao…mỗi
dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc Mường đã định cư khá lâu
đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam Điệp, còn lưu giữ được nhiều giá
trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân tộc khác sống rải rác ở các địa phương
trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân tộc nhất định, đa số có quan hệ hôn nhân và
chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn
hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả năm sau

cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn hoá - xã hội
có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm 1996-2000 đạt bình
quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt 11,9%/năm; năm 2006 đạt 12,6%;
cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Thu
nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng,
tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm 1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng
35,98 lần.
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nông
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế cao
như: nuôi tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam Điệp,
Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc sản: tám,
nếp, dự... ở Kim Sơn, Yên Khánh.... Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm doanh thu bình
quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công
nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn như:
khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp Gián
Khẩu.... Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách khuyến khích,
ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách khuyến khích tài năng
thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển. Trên địa bàn tỉnh đã
khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi, du lịch, thể thao như: hồ Yên
Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia Viễn; sân vận động, Nhà thi đấu trung
tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất 36 vạn tấn/ năm; Nhà máy xi măng Tam
Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm....Các công trình đầu tư trên lần lượt đưa vào sử dụng
sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các hoạt động dịch vụ
vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tín dụng, du lịch... đều đạt mức tăng trưởng
bình quân trên 25%/ năm. Thu ngân sách tăng bình quân trên 20%/ năm.

3.Tài nguyên du lịch
3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
Với diện tích tự nhiên 1.390,11 km
2
, tuy là một tỉnh không lớn nhưng Ninh Bình
là một tỉnh có địa hình rất đa dạng: có núi, đồng bằng, vùng ven biển, mang đầy đủ sắc
thái địa hình Việt Nam thu nhỏ… Đặc điểm về địa hình kết hợp với các thành phần tự
nhiên khác như hệ thống thủy văn, lớp phủ thực vật... đã tạo cho Ninh Bình tiềm năng
du lịch đa dạng và phong phú. Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất này nhiều danh lam
thắng cảnh kỳ thú, nhiều hang động nổi tiếng, quần thể hang động Tràng An, Tam Cốc
– Bích Động, vườn quốc gia Cúc Phương với hệ động thực vật phong phú, khu bảo tồn
đất ngập nước Vân Long, khu du lịch sinh thái hồ Yên Thắng, Yên Đồng, Yên Thái với
cảnh quan đặc sắc và tính đa dạng sinh học cao… Đây là tiền đề quan trọng cho việc
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn như du lịch sinh thái, du lịch vui chơi giải trí,
du lịch chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch tham quan… Một số tài nguyên tiêu biểu:
♦ Vườn quốc gia Cúc Phương (huyện Nho Quan):
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào 7/7/1962.
Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa
dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.200 ha, trong đó ắ là núi đá vôi cao từ 300 đến
600m so với mặt biển. Tại đây có đỉnh Mây Bạc cao 648,2m.
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
năm khoảng 24,7ºC. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều bí ẩn, và
cảnh quan độc đáo. Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kỳ thú và ẩn chứa
những chứng tích văn hoá lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết, động Chúa, động
Thuỷ Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động San Hô...
Trong vườn còn có suối nước nóng 38ºC. Hệ thực vật rất phong phú với 1.944
loài thuộc 908 chi và 229 họ. Đặc biệt có cây chò xanh, cây sấu cổ thụ đều trên dưới

1.000 năm tuổi, cao từ 50-70m. Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài cho hoa và
hương thơm quanh năm. Hệ động vật đa dạng bao gồm 71 loài thú, hơn 300 loài chim,
33 loài bò sát và 16 loài lưỡng cư. Nhiều loài thú quí như: gấu, ngựa, lợn lòi, hổ, báo,
chồn, sóc, khỉ... Khu chăn nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao, nai, khỉ vàng, voọc
quần đùi, sóc bay... là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các nhà khoa học và du
khách có dịp chiêm ngưỡng như khi sống trong rừng tự nhiên. Cúc Phương còn là quê
hương của hàng trăm loài chim, bướm đẹp và lạ.
Hiện nay, vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp các loài thực
vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho các chương trình trồng rừng trong khu vực và
trên cả nước. Nơi đây đã có những khu gây giống tự nhiên đạt kết quả cho các loài chò chỉ, chò
xanh, kim giao... Trong tương lai vườn còn xây dựng và mở rộng thêm cơ sở thực nghiệm để
cung cấp giống nhiều loài cây thuốc, cây cảnh quý hiếm cho những nơi có nhu cầu.
Đến Cúc Phương đẹp nhất vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, khi những cơn mưa
rừng dữ dội đã đi qua. Đường tới Vườn Quốc gia Cúc Phương rất thuận tiện. Một khu rừng
nguyên sinh với hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú được bảo vệ nghiêm ngặt lại
nằm trên tuyến đường du lịch với những điểm du lịch hấp dẫn như Bích Động, cố đô Hoa Lư,
bãi biển Sầm Sơn... đang cuốn hút khách du lịch đến tham quan và các nhà khoa học đến
nghiên cứu. Tại vườn còn có một số chương trình du lịch cho khách lựa chọn như đi bộ, du lịch
mạo hiểm, leo núi…
♦ Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long:
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ
sinh thái núi đá ngập nước có diện tích lớn nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng (khoảng
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.643 ha). Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng - một loài linh
trưởng quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ thế giới. Vân Long là một vùng đất còn ít
được khám phá với cảnh quan đặc biệt hấp dẫn. Du khách từ Hà Nội về xuôi theo quốc
lộ 1A xuống phía Nam, đến km 85 rẽ vào đường 12
B

tới vườn quốc gia Cúc Phương,
đến km 6 rẽ phải vào đường Thống Nhất của xã Gia Vân, đi thêm 1 km nữa tới đê Đầm
Cút là tới khu bảo tồn Vân Long.
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện Gia
Viễn, Ninh Bình là các xã: Gia Hưng, Liên Sơn, Gia Hòa, Gia Vân, Gia Lập, Gia Tân,
Gia Thanh ở phía Đông Bắc tỉnh Ninh Bình, cách thị xã Ninh Bình gần 20km về phía
Bắc. Địa hình Vân Long bằng phẳng, độ chênh không quá 0,5m nhưng có kiểu hình ô
trũng giữa các dòng sông lớn nhất của Ninh Bình, nằm về phía Nam của châu thổ Bắc
Bộ. Đất ngập nước với mức sâu khoảng vài mét, đan xen là các dãy núi đá vôi nổi lên
cao sàn sàn dưới 300m, đỉnh núi Ba Chon cao nhất tới 428m. Ranh giới giữa chân các
dãy núi và cùng đất trũng ngập nước còn xen kẽ một số đồi đá thấp có độ cao không quá
50m. Núi đá vôi và đồi cát chiếm ắ diện tích. Là khu vực có đa dạng sinh học, có HST
núi đá vôi là nơi sinh sống của quần thể “Voọc quần đùi” lớn nhất Việt Nam.
Rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ. Đặc
biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng, lát hoa, tuế lá rộng, cốt
toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật có 39 loài, 19 họ, 7 bộ thú; có 12
loài động vật quý hiếm như Voọc quần đùi (với số lượng lớn nhất ở Việt Nam), gấu
ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Trong các loài bò sát có 9 loài được
ghi trong sách Đỏ Việt Nam là rắn hổ chúa, kỳ đà, trăn đất, rắn ráo trâu, rắn ráo thường,
rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Điều đáng chú ý là tại khu vực ngập
nước Vân Long có loài cà cuống thuộc họ chân bơi, một loài côn trùng quý hiếm, hiện
còn rất ít ở Việt Nam. Cà cuống sống được thể hiện sự trong lành của môi trường nước,
của không gian cảnh quan xung quanh.
Không chỉ là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước, Vân Long còn là nơi có
cảnh quan và di tích văn hóa có giá trị. Đây là núi Nghiên, núi Hòm Sách, núi Đá Bàn,
núi Mèo cào, kia là núi Cô tiên, núi Voi dựng, núi Cánh cổng… Mỗi trái núi là một
huyền thoại hấp dẫn. Khu Vân Long còn có 32 hang động đẹp, nhiều hang rộng có giá
trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh… ở đây còn có Kẽm Chăn và đền
thờ Mẫu, nơi thờ mẹ của bốn tướng Hồng Nương…
Non nước Vân Long, một cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi. Nước ở đây

mênh mông phẳng lặng, không có sóng to gió lớn, mang phong cảnh một miền quê êm ả
- một Vịnh Hạ Long không có sóng. Đây chính là một nơi du lịch sinh thái rất tốt, là
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn nghiên cứu
về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
♦ Quần thể khu du lịch hang động Tràng An:
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách cố đô Hoa Lư
khoảng 4km về phía Nam, diện tích trên 1.500ha, với những dải đá vôi, các thung lũng
và những dòng sông ngòi đan xen vào nhau tạo nên một không gian huyền ảo và thơ
mộng. Sau khi du khách dâng hương tưởng niệm tại hai đền vua Đinh và vua Lê, đến
bến thuyền sông Sào Khê. Từ đây những chiếc thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua
Xuyên Thuỷ Động sẽ đưa du khách vào thăm quần thể hang động Tràng An. Hai bên
dòng sông là những phong cảnh sơn thuỷ hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng nơi đây:
đây là núi ông Trạng, núi Hòm Sách, núi Mỏ Trả, kia là núi con mèo...
Khu du lịch Tràng An có quần thể hang động như: hang Ba Giọt, hang Địa Linh,
hang Tối, hang Sáng, hang Ao Trai, hang Seo,.. và các thung lũng như: thung đền Trần,
thung Mây, thung Nấu rượu, thung Khống... các hang xuyên thuỷ dài và đẹp mới được
khai thác sẽ làm cho du khách ngỡ ngàng. Tất cả dường như hoà quyện vào nhau tạo
nên một không gian kỳ thú.
♦ Tam Cốc:
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi
tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100
km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động,
di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi, Tam Cốc, chùa
Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba ở thôn Văn Lâm, xã
Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Du khách vào thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy
nhất, vào ra mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ. Đến đình Các ở thôn Văn Lâm, ra bến sông

Ngô Đồng - con đường thủy dẫn vào Tam Cốc. Lúc thuyền luồn vào ba hang, du khách
sẽ cảm nhận được làn không khí trong lành, mát lạnh của hương đồng gió nội. Thạch
nhũ từ trần hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những khối châu ngọc kỳ ảo.
♦ Động Địch Lộng:
Động thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm
1739. Trong động có một nhũ đá giống tượng Phật nên đã lập bàn thờ Phật ở đây. Đến
năm 1740 động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ Phật. Động
rộng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng La hán, tượng
Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt có hai tượng Phật được tạc bằng đá xanh nguyên
khối rất đẹp.
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Động gồm có ba hang nối liền nhau, hang ngoài thờ Phật, rồi đến hang Tối, hang
Sáng. Vào động Địch Lộng du khách như đang lạc vào cõi trùng điệp của đá. Nhiều nhũ
đá mang hình dáng như voi uống nước, voi chầu, hổ phục, phượng múa, rồng uống
nước, khỉ cõng con… Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ
thuật, một nét chạm khắc tuyệt với của thiên nhiên, của thời gian trên đá.
Một điều độc đáo là nhũ đá trong động thay đổi màu theo ánh sáng mặt trời. Lúc
rạng đông có màu hồng, buổi trưa lấp lánh như pha lê, và chuyển màu đỏ thẫm khi
hoàng hôn. Trong động còn có lối lên Trời, lối xuống Âm phủ, lối xuống Âm phủ của
động đầy huyền bí bởi nước của các nhũ đá đều đặn nhỏ giọt tạo nên một bản nhạc
không bao giờ dứt. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng cho 5 chữ
khi đến tham nơi đây - “Nam thiên đệ tam động” (Động đẹp thứ 3 Trời Nam).
♦ Động Tiên:
Động Tiên còn có tên gọi khác là động Móc, ở thôn Đam Khê, xã Ninh Hải,
huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có ba hang lớn,
rộng, và cao vời vợi. Đường vào động phải đi qua một khe hang nhỏ, mấp mô. Trần
động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều sắc màu. Nhiều khối nhũ đá từ trên trần
rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những rễ cây đa cổ thụ. Nhiều nhũ đá

được đặt tên như: cây tiền, cây thóc, ông tiên, cô tiên, con voi, con hổ, kỳ đà... Xung
quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá. Những nhũ đá được
thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khoáng, vừa tinh xảo mà sống động. Đứng từ bên ngoài
nhìn vào, dưới ánh sáng kỳ ảo động Tiên như một lâu đài nguy nga tráng lệ trong huyền
thoại. Đến thăm động Tiên, du khách sẽ như lạc bước vào chốn bồng lai, tiên cảnh,
được khám phá và hoà mình vào khung cảnh tự nhiên kỳ thú.
♦ Động Sinh Dược:
Động Sinh dược thuộc địa phận thôn Xuân Trì, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, là
động xuyên thủy dài gần 2km. Vào động bằng một trong hai cửa, ngồi thuyền mất hơn
một giờ đồng hồ, du khách vào cửa động bên này sẽ ra cửa động bên kia. Những dải nhũ
đá thiên hình vạn trạng, quyến rũ sức tưởng tượng của du khách. Chỗ này nhũ đá như
được gọt dũa một cách tinh tế, chỗ kia như bột dẻo nặn ra rất mềm mại. Có nhiều “con
vật” như sống ở thời hồng hoang hiện về. Tùy theo hướng ngồi và ánh sáng chiếu vào,
du khách sẽ thấy nhũ đá với những dáng hình khác nhau. Đặc biệt là có chỗ nhũ đá nhỏ
li ti, có chỗ nhũ đá chảy dài xuống mặt nước, sống trong nước như san hô. Điều kỳ lạ
nữa là rất nhiều nhũ đá ở trên trần hang trắng muốt như dát bạc, như muối trắng phau
bao bọc xung quanh. Thành động là những vách đá phẳng dựng đứng, chỗ này như đá
xây, chỗ kia đá bào mòn đến trơ trụi, nhẵn bóng. Chắc chắn du khách sẽ bị cuốn hút bởi
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vẻ đẹp kỳ ảo của động và không thể khám phá hết cái thế giới kỳ thú này chỉ thông qua
một chuyến đi.
♦ Đèo Tam Điệp:
Đèo Tam Điệp còn có tên là đèo Ba Dội đã đi vào trong thơ ca của bà chúa thơ
Nôm Hồ Xuân Hương. Đèo thuộc thị xã Tam Điệp, cách thị xã Ninh Bình 18km về phía
Nam. Nơi đây có 3 dãy núi đá vôi chạy suốt từ Hòa Bình về, ăn ra biển Đông theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam. Chỗ núi đá hạ thấp xuống gọi là Đèo. Vì có ba đèo liền
nhau nên gọi là Tam Điệp.
Điều độc đáo ở đây là đèo Tam Điệp có đất đỏ. Từ đây, du khách có thể quan sát

cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh đèo là những dãy núi hùng vĩ, hiểm trở, quanh co như
những con rồng uốn khúc, đan xen là những thung lũng rộng và nhiều dòng suối trong
xanh uốn lượn. Đèo Tam Điệp không chỉ có cảnh đẹp mà còn là một phong tuyến phòng
ngự rất lợi hại, mang vị trí chiến lược trong quân sự như bức tường thành thiên nhiên án
ngữ con đường thiên lý ra Bắc vào Nam. Vì vậy, từ xa xưa nơi đây đã được chọn là cửa
ải (quận Cửu Chân - Thanh Hóa và quận Giao Chỉ - Bắc Bộ). Như vậy, đèo Tam Điệp
không chỉ là một thắng cảnh mà còn là một di tích lịch sử nổi tiếng đã đi vào lịch sử, đi
vào thơ văn của các thi nhân xưa và nay.
♦ Suối nước nóng Kênh Gà:
Suối nước nóng mặn Kênh Gà thuộc thôn Kênh Gà, xã Gia Thịnh, huyện Gia
Viễn. Du khách đến bến sông ở cống Đồng Trưa trên dòng sông Hoàng Long để bắt đầu
hành trình tham quan suối nước nóng Kênh Gà. Thuyền ngược dòng Hoàng Long, du
khách thỏa sức ngắm nhìn cảnh trời mây, sông nước. Núi Kênh gà trông xa như hình
một con lạc đà đang đi, nơi đây có một nguồn nước suối nóng mặn, vì thế suối có tên là
Kênh Gà. Dòng nước từ trong núi chảy ra, trong vắt, chưa bao giờ ngừng. Mạch nước
này có từ lâu lắm, nhưng đến năm 1940 người Pháp mới biết tới và bắt đầu nghiên cứu
và đưa vào khai thác. Nước khoáng Kênh gà chứa nhiều muối natriclorua, kaliclorua,
canxi, magieeclorua và muối Bicacbonat, nước không màu, trong, nhiệt độ ổn định cho
quanh năm là 53ºC. Nước khoáng Kênh Gà dùng để tắm hay ngâm mình nhiều lần sẽ
khỏi các bệnh như khớp mãn tính, viêm dây thần kinh, các bệnh ngoài da và phụ khoa...
Nước suối Kênh gà uống vào có tác dụng kích thích hoạt động của gan, mật, chữa bệnh
bướu cổ, và dùng để bào chế thành huyết thanh tiêm tĩnh mạch...
♦ Động Vân Trình:
Động Vân Trình rộng gần 3.500m
2
, là một động lớn nhất và đẹp nhất của tỉnh
Ninh Bình, sánh ngang với động Thiên Cung ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Động nằm
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368

trong núi Mõ, thuộc thôn Vân Trình xã Thượng Hòa huyện Nho Quan. Núi Mõ là tên
gọi tượng hình của dân gian, còn tên chữ thời xưa gọi là núi Thổ Tích. Theo sách Đại
Nam nhất thống chí “núi Thổ Tích cách huyện Gia Viễn 32 dặm về phía Tây, sườn núi
có động, động lại chia làm hai, động trước có khe hở ánh sáng thấu suốt, động sau rất
sâu, khi vào tất phải dùng đuốc, phần này rộng rãi có thể chứa được vài trăm người;
thạch nhũ kết tụ, sắc óng ánh đáng yêu”.
Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le một cao một thấp là hang Cả và
hang Hai. Trong cả hai hang đều là những nhũ đá đẹp như những “vách gấm”, nhiều
khối nhũ đá từ trên nóc động chảy xuống, có khối chạm đến nền hang, như những nhánh
rễ cây đa cổ thụ to lớn thả xuống mặt đất. Động Vân Trình còn giữ nguyên được nét đẹp
trinh nguyên, tinh khiết của đá. Du khách đến đây không cần phải tưởng tượng về chốn
bồng lai tiên cảnh, mà chính hang đã là cảnh thần tiên hiện giữa cõi trần.
♦ Hồ Đồng Chương:
Một hồ nước trong nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan có
tên gọi là Đồng Chương. Xung quanh hồ là những dải đồi thông xanh mướt, nhấp nhô,
trùng điệp vây phủ lấy mặt hồ làm cho nước hồ đã xanh lại càng thêm xanh. Gần hồ có
thác Ba Tua, và dòng Chín Suối. Đi thăm hồ, rồi leo đồi lên đến đỉnh du khách sẽ gặp
được một hồ nước nhỏ gọi là Ao Trời, cũng trong xanh và không lúc nào cạn nước. Du
khách đến đây sẽ thấy được vẻ đẹp hòa quyện của thiên nhiên và con người nơi đây, vì
thế Đồng Chương được ví như “Đà Lạt” của Ninh Bình.
♦ Hồ Đồng Thái:
Cách thủ đô Hà Nội 115 km về phía Đông Nam hồ Đoòng Đèn và hồ Đồng Thái
trên địa bàn hai xã Đông Sơn (Thị xã Tam Điệp) và Yên Đồng (huyện Yên Mô) có diện
tích rộng hơn 380ha được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ và con đê trải dài hơn
10 km. Hồ có trữ lượng hơn 8.000.000m
3
nước với hàng trăm loài thực vật, động vật
thủy sinh không chỉ phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản mà còn là
một điểm du lịch sinh thái lý tưởng.
♦ Núi chùa Bái Đính:

Ninh Bình là địa phương có nhiều hang động nổi tiếng. Trong đó, có một động
được người xưa khẳng định “Nào Địch Lộng, nào Thiên Tôn, Bàn Long, Bích Động xem
còn kém đây”, đó là hang động ở núi Bái Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn.
Núi Bái Đính đứng độc lập, cao đến hơn 200m, có diện tích khoảng gần
150.000m
2
, quay hướng Đông, có dáng vòng cung hai bên khép lại tựa tay ngai tạo
Vò ThÞ Liªn Kinh tÕ ®Çu t 48C - QN
12

×