Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

quy chế pháp lý về người bị tình nghi trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 70 trang )

Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 35 (2009 – 2013)
Đề Tài

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGƯỜI BỊ TÌNH NGHI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Mạc Giáng Châu

Dương Vương

Bộ môn Luật Tư Pháp

MSSV: 5095679
Lớp: Tư Pháp 1 - K35

Cần Thơ, 11/2012

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu


SVTH: Dương Vương
1


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

DANH MỤC VIẾT TẮT

BLHS:
BLTTHS:
CQĐT:
CQTHTT:
HĐXX:
KSV:
NTGTT:
NTHTT:
TAND:
TP:
VKS:
VKSND:
VAHS:

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Cơ quan tiến hành tố tụng
Hội đồng xét xử
Kiểm sát viên
Người tham gia tố tụng

Người tiến hành tố tụng
Tòa án nhân dân
Thành phố
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân
Vụ án hình sự

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
2


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


 .......................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
3


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN


 .......................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
4


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tố tụng hình sự thì người bị tạm giữ, bị can, bị cáo gọi chung là
người bị tình nghi là những đối tượng bị buộc tội bởi cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Họ tham gia trong từng giai đoạn tố tụng và tư cách xuất
hiện của họ trong từng giai đoạn cũng khác nhau. Tuy họ xuất hiện tư cách khác

nhau nhưng họ lại có những quyền và nghĩa vụ tương đối giống nhau chỉ khác
một số quyền đặc thù của họ, đó là thời điểm chuyển sang giai đoạn tố tụng mới.
Họ là những người có quyền lợi và nghĩa vụ bị ảnh hưởng sâu sắc nhất bởi quyết
định của CQTHTT khi giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, họ là những người tham
gia tố tụng trong thế bị động không mang quyền lực nhà nước cũng như do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà quyền và nghĩa vụ của người bị tình nghi có thể bị
xâm phạm. Để giải quyết được tình trạng người bị tình nghi bị xâm phạm các
quyền mà pháp luật quy định thì việc NTHTT, người bị tình nghi cần biết rõ
được các quyền và nghĩa vụ là rất quan trọng. Do đó, việc nghiên cứu một cách
tổng thể về quyền và nghĩa vụ của người bị tình nghi là hết sức cần thiết. Đó là lý
do em chọn đề tài “Quy chế pháp lý về người bị tình nghi trong tố tụng hình
sự Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam, tố tụng hình sự được chia thành
năm giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó người bị
tình nghi tham gia vào các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Bên cạnh đó,
việc làm rõ các khái niệm về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, và một số nguyên tắc
cơ bản liên quan đến người bị tình nghi cần được bảo đảm. Người viết còn tập
chung nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ của người bị tình nghi mà pháp luật tố
tụng hình sự quy định cho người bị tình nghi trong các giai đoạn điều tra, truy tố và
xét xử. Đề tài luận văn này chủ yếu nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ của người bị
tình nghi trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm của vụ án.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, người viết hướng đến mục đích không ai bị coi là
người có tội nếu chưa có bản án quyết định của Tòa án có hiệu lực và làm sáng tỏ
thêm những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của người bị tình nghi. Qua đó chỉ ra những vấn đề tồn tại về mặt pháp lý
cũng như thực tiễn và đưa ra những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng cho người bị tình nghi, góp phần đảm bảo quá trình giải


GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
5


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

quyết vụ án khách quan, dân chủ, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta trong vấn đề xử lý người bị tình nghi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được hoàn thành dựa trên kiến thức đã học, thu thập và tổng
hợp từ các tài liệu, các văn bản pháp luật, một số tạp chí chuyên ngành có liên quan
tới đề tài, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc
quy định liên quan đến người bị tình nghi. Đồng thời, người viết còn sử dụng
phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân tích luật viết để hoàn thành đề tài.
5. Bố cục đề tài
Chương 1. Khái quát chung về người bị tình nghi trong tố tụng hình sự
Chương 2. Các quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tình nghi trong
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
Chương 3. Một số tồn tại và giải pháp của chế định về người bị tình nghi
Nghiên cứu đề tài này là một phần đóng góp của người viết góp phần để
các vụ án khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử
oan người vô tội và cũng không bỏ lọt tội phạm.
Mặc dù, được sự tận tình hướng dẫn của cô Mạc Giáng Châu và sự nổ lực
của bản thân. Nhưng do nguồn tài liệu tham khảo và năng lực bản thân còn hạn chế
nên đề tài khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp của quý thầy cô để đề tài.


GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
6


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƯỜI BỊ TÌNH NGHI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người bị tình nghi
Người bị tình nghi là người bị nghi ngờ phạm tội liên quan đến vụ án, trong
đó người bị tình nghi bị cơ quan có thẩm quyền nghi ngờ về việc thực hiện phạm
tội. Và sự nghi ngờ đó thể hiện bằng một văn bản pháp lý cụ thể.
Trong tố tụng hình sự có nhiều chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng, với
tư cách tham gia khác nhau trong đó có người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng, sự tham gia của các chủ thể này nhằm làm rỏ tính chất liên quan của vụ án.
Trong đó người bị tình nghi là một trong những chủ thể tham gia tố tụng xuyên suốt
trong từng giai đoạn với tư cách pháp lý khác nhau nhưng đây chỉ là một người.
Người bị tình nghi gồm những chủ thể tham gia tố tụng đó là: Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo ngoài ra người bị bắt cũng có thể được xem là người bị tình nghi nhưng
chủ thể này tham gia các hoạt động tố tụng không nhiều, không xuyên suốt trong
hoạt động tố tụng. Để tìm hiểu lý luận cho người bị tình nghi trong giai đoạn điều
tra, truy tố và trong giai đoạn xét xử mục đích nhằm làm rõ khái niệm, quyền và
nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Đây được xem
là những đối tượng tình nghi với mức độ khác nhau và tăng dần của người bị tình
nghi từ đó họ cũng xuất hiện với tư cách khác nhau và vị trí pháp lý của họ khi tham
gia vào tố tụng hình sự.

1.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ
Người bị tạm giữ được xem là người bị tình nghi bị CQTHTT nghi ngờ cho
thực hiện một việc liên quan đến vụ án. Đây là người đầu tiên mà cơ quan tiến hành
tố tụng điều tra xem xét người đó có phạm tội hay không cũng như mức độ phạm tội
của người tạm giữ có thể bị CQĐT khởi tố hay không. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này người bị tạm giữ có thể là người có liên quan đến vụ án hoặc không có liên
quan đến vụ án, mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa xác định được mức độ phạm tội
hoặc chưa có đầy đủ chứng cứ để khởi tố người bị tạm giữ cũng chính vì chưa xác
định chính xác có liên quan đến vụ án hay không cũng như chứng cứ buộc tội chưa
đầy đủ cho nên người bị tạm giữ vẫn có thể được xem là người bị tình nghi cũng
như mức độ và phạm tội của người tạm giữ thấp hơn so với hai chủ thể bị can, bị
cáo.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
7


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì:
“Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ”1.
Tạm giữ là một biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi
cản trở việc điều tra khám phá tội phạm, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền
đủ thời gian để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể đưa ra quyết định khởi tố vụ án

hình sự, khởi tố bị can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, hoặc các quyết định quản
lý cần thiết khác như, tạm giữ áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hay trả tự do
cho người bị bắt.
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, trường hợp người
phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội phát hiện và khởi tố, đã có quyết định
tạm giữ. Mặc dù họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu
sự cưỡng chế của cơ quan tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc khai báo
hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra. Chính vì lẽ đó, pháp luật coi người bị
tạm giữ là người tham gia tố tụng có các quyền nghĩa vụ nhất định.
Người bị tạm giữ có thể là người bị khởi tố về hình sự bị can, bi cáo người bị
kết án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú
và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là người tạm giữ. Trong thời gian
tạm giữ họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ nhất định.
1.1.2. Khái niệm về bị can
Bị can được xem là người bị tình nghi giống như người bị tạm giữ nhưng
mức độ của bị can cao hơn. Bởi vì, bị can tham gia tố tụng tương đối đầy đủ hơn
người bị tạm giữ có cơ quan tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội bằng những
quyết định văn bản của CQĐT và VKS. Cụ thể như là ở giai đoạn truy tố, VKS sẽ
dựa trên những chứng cứ của CQĐT chuyển sang để xem xét quyết định truy tố bị
can hoặc không truy tố. Bị can chỉ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và
một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm. Bị can chưa phải là tội phạm, họ vẫn được
xem là người bị tình nghi trong vụ án ở vị trí cao hơn so với người bị tạm giữ. Vì

1

Nghị định 09/2011/NĐ-CP sữa đổi, bổ sung chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam của quy chế vế

tạm giữ, tạm giam ban hành kèm theo Nghị định 89/1998/NĐ-CP.


GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
8


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

các giai đoạn này chủ yếu vẫn còn xác định, tìm kiếm thông tin chứng minh, các
chứng cứ liên quan đến sự buộc tội của CQTHTT đối với bị can. Cho nên bị can
vẫn được xem là người bị tình nghi trong vụ án ở vị trí cao so với người bị tạm giữ.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc. Vì theo quy định của BLTTHS năm năm 2003 thì:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật”.2 Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 thì3: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”. Quy định
này được hiểu rằng, khi một người đã thực hiện hoặc cho là đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, và
có đủ các căn cứ để khởi tố hình sự thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khởi tố
hình sự và khi đó họ đã trở thành bị can. Bị can tham gia tố tụng từ khi có quyết
định khởi tố đối với họ. Bị can tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và giai
đoạn xét xử. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ
vụ án; Viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Tòa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử vụ án) đối với bị can; hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Như vậy, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì bị can là
người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can.
Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều
tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử đối với bị can hoặc Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Với những phân

tích ở trên có thể hiểu rằng bị can chưa phải là người có tội vẫn xem là đối tượng bị
tình nghi bởi vì những người được coi là có tội chỉ khi có bản án của Tòa án có hiệu
lực pháp lực mới coi là người có tội và chịu hình phạt.
1.1.3. Khái niệm về bị cáo
Bị cáo được xem là người bị tình nghi trong quá trình giải quyết vụ án, mức
độ tình nghi về vụ án đối với bị cáo là ngày càng cao hơn so với bị can. Bởi vì,
trong khi bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần xét xử thì các
hoạt động tố tụng của bị can không được công khai tranh luận cụ thể cho đến khi
giai đoạn xét xử thì VKS truy tố bằng bản cáo trạng xác định tội danh cụ thể với
những nội dung, tội danh gì được quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) theo điểm, khoản, Điều nào và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ cáo buộc bị
cáo từ phía đại diện VKS. Tuy nhiên, bị cáo vẫn được xem là người bị tình nghi và
tham gia tố tụng ở thế bị động bị cáo vẫn bình đẳng với những người tham gia tố
2
3

Điều 9, BLTTHS năm 2003.
khoản 1, Điều 49 BLTTHS năm 2003.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
9


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

tụng khác cũng như người tiến hành tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, đưa ra yêu cầu nhằm bác bỏ sự buộc tội đó đối với cáo buộc từ phía đại diện

VKS. Cũng như, chưa có bản án của Tòa án là có tội và bản án quyết định của Tòa
án đó chưa có hiệu lực. Vì thế, bị cáo có thể vẫn được xem là người bi tình nghi trừ
khi bản án của Tòa án đó có hiệu lực thì người bị tình nghi không còn là người bị
tình nghi nữa mà trở thành người có tội và chịu hình phạt.
Theo quy định của BLTTHS năm 1988 thì “Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử”4. Kế thừa những quy định của BLTTHS năm 1988, khái
niệm bị cáo cũng được BLTTHS năm 2003 quy định như sau: “Bị cáo là người đã
bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”5. Sau khi Cơ quan điều tra thấy rằng có đủ
chứng cứ để khẳng định bị can đã phạm tội do BLHS quy định thì đề nghị VKS truy
tố. Trong quá trình chuẩn bị xét xử nếu thẩm phán được phân công chủ tọa phiên
tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không trả hồ sơ cho Viện
kiểm sát để điều tra bổ sung, hoặc không có căn cứ đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án
ra xét xử. Thì kể từ thời điểm này, tư cách bị can của người đó mất đi và thay vào
đó là tư cách bị cáo.
Khái niệm bị cáo là khái niệm mang tính hình thức căn cứ vào văn kiện tố
tụng áp dụng đối với người đó. Bị cáo là người bị đưa ra xét xử, là người bị tình
nghi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự trong vụ án nhưng điều đó không
đồng nghĩa với việc xác định bị cáo là người có tội theo quy định tại Điều 72 Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)“không ai bị coi là có tội và phải chịu
hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều này
cũng khẳng định lại tại Điều 9 của BLTTHS năm 2003. Mặc dù bị cáo là người đã
thực hiện tội phạm dẫn đến hậu quả phải đưa ra xét xử công khai nhưng chưa có bản
án của Tòa án có hiệu lực vẫn xem bị cáo là người bị tình nghi không thể xem một
người từ ngay khi có tư cách bị cáo là người có tội.
Như vậy, bị cáo tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử
đến khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và nếu chưa có
bản án của Tòa án có hiệu lực thì mặc nhiên có thể hiểu rằng bị cáo vẫn là đối tượng
bị tình nghi cao nhất của vụ án so với tạm giữ và bị can.
1.2. Một số nguyên tắc tố tụng cơ bản liên quan đến người bị tình nghi trong tố
tụng hình sự

Tố tụng Hình sự xã hội chủ nghĩa xuất phát từ mục đích bảo vệ các quyền lợi
ích hợp pháp của công dân trong quá trình thực hiện các hoạt động phát hiện, truy tố
4
5

Điều 34, BLTTHS năm 1988.
Điều 50, BLTTHS năm 2003.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
10


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

và xử lý tội phạm và người phạm tội. Đồng thời, tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa có
một chức năng rất quan trọng là tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do thân thể và tài
sản, danh dự và nhân phẩm của người được coi là “kẻ yếu” trong quan hệ tố tụng
hình sự.
Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định và xác định rất rõ về quyền và nghĩa vụ
lợi ích hợp pháp cho họ đồng thời cũng quy định trách nhiệm thực hiện và chức
năng bảo vệ quyền và nghĩa vụ cũng như các lợi ích hợp pháp khác là thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Vì thời gian từ thời điểm phát
hiện có dấu hiệu tội phạm cho đến khi khởi tố vụ án hình sự và đến khi ra bản án là
tương đối dài. Trong khoảng thời gian đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực
hiện hàng loạt hành vi tố tụng nhằm đạt được những yêu cầu mục đích cụ thể.
Mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng
là mối quan hệ quyền uy, nhưng điều đó không có nghĩa là các cơ quan tiến hành tố

tụng có thể hành động tùy ý mà không bị ràng buộc bởi những quy định của pháp
luật. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo các nguyên tắc của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người
tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự.
1.2.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc quan
trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân bao gồm các quyền lợi ích chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội...Các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân được bảo vệ bằng pháp luật nói chung và pháp luật tố
tụng hình sự nói riêng. Vì vậy, “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp
đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi
phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”6. Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân nhằm đáp ứng yêu cầu bảo đảm và đầy đủ các quyền dân chủ cơ
bản của công dân đã được quy định tại chương V Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) đã nghi nhận những quyền cơ bản của công dân. Cụ thể một số
quyền như: (Quyền bình đẳng trước pháp luật Điều 52, quyền tham gia quản lý xã

6

Điều 4, BLTTHS năm 2003.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
11



Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

hội quy định tại Điều 53, quyền bầu cử, ứng cử quy định tại Điều 54, quyền lao
động quy định tại Điều 55... )
Trong giai đoạn tiến hành tố tụng thì cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp
dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với người bị tình nghi như: Các biện pháp
ngăn chặn hoặc khám xét, thu giữ...Và thường các cơ quan tiến hành tố tụng có
quyền hạn chế một số quyền của họ nhưng việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế
tố tụng. Được xem hợp lý, cần thiết xuất phát từ việc điều tra giải quyết vụ án,và
đúng theo quy định của pháp luật đã quy định. Việc áp dụng biện pháp cụ thể trong
những vụ án được xem là giải pháp cần thiết và hợp lý nhằm đảm bảo cho quá trình
đạt được thực hiện đúng mục đích cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng không
còn sự lựa chọn nào khác. Sau khi áp dụng hay trong quá trình việc áp dụng các
biện pháp trong vụ án thấy được sự không cần thiết cũng như thấy được áp dụng là
sai quy định của luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải thay đổi kịp thời hoặc
hủy bỏ những biện pháp đã và đang áp dụng.
Việc kịp thời thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp tố tụng nhằm bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân. Khi tiến hành tất cả các hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải đối xử với người bị tình nghi như
một công dân bình thường trong xã hội, vì họ chỉ là người bị tình nghi chưa phải là
tội phạm bị kết án theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
được xem là một nguyên tắc cơ bản và được BLTTHS được quy định tại như sau:
“Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”7. Tuy nhiên quyền
này cũng được quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm

2001) như sau: “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này
nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh pháp luật đối với mọi công dân, không phân
biệt nam nữ, dân tộc, tính ngưỡng, tôn giáo, thành phần địa vị xã hội… Nhà nước
phải đảm bảo cho công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự được hiểu
là khi một người đã phạm tội và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự năm1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì không phân biệt họ là ai, dân tộc nào, có tính

7

Điều 5, BLTTHS năm 2003.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
12


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

ngưỡng hay là không, địa vị xã hội như thế nào đều xử lý theo quy định của pháp
luật. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật còn thể hiện ở chổ quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với mọi công dân đều được tiến hành dựa trên những
nguyên tắc và theo một trình tự, thủ tục thống nhất khi đó không có sự ưu tiên hay
hạn chế đối với bất kỳ người bị tình nghi nào vì lý do giới tính, nhân thân, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của họ. Cũng như không phân biệt tội
phạm nào do ai thực hiện, địa vị trong xã hội là như thế nào đều phải trải qua tất cả
các giai đoạn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối với người tham gia tố tụng là

người bị tình nghi họ sẽ có địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự đều được
hưởng những quyền và nghĩa vụ ngang nhau theo quy định tại Điều 48, Điều 49 và
Điều 50 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Khi người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội đủ năng lực và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự thì không phân biệt nam
hay nữ hay một dân tộc nào đều phải xử lý đúng theo pháp luật và cơ quan tiến hành
tố tụng không được ưu tiên cho những người bị tình nghi cho là họ có địa vị trong
xã hội, dân tộc, tôn giáo, nhân thân, giới tính hoặc ngược lại.
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do cá
nhân quan trọng nhất của công dân đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) quy định việc bảo vệ quyền này của công dân được Bộ luật tố tụng hình
sự coi là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự như
sau:
“Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật này.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”8.
Pháp luật nước ta nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến quyền tự do cá
nhân, xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một những quyền tự do cá
nhân quan trọng của công dân, đã được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) quy định tại Điều 71 như sau: “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Việc
bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân của người bị tình nghi
khi tham gia vào quá trình tố tụng thì cơ quan phải đảm bảo quyền bất khả xâm

8

Điều 6 BLTTHS,năm 2003.


GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
13


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

phạm về thân thể cho họ. Cụ thể, khi áp dụng biện pháp bắt người và người bị tình
nghi sẽ bị hạn chế một số quyền trong một thời gian nhất định và có thể còn ảnh
hưởng về tâm lý, sức khỏe cho người bị tình nghi, tâm lý của người dân khi thấy
một ai đó bị cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt đều cho họ là tội phạm, trở nên sợ
hãi, xa lánh họ...Vì vậy, cơ quan tiến hành tố tụng cần đảm bảo nguyên tắc bảo đảm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể cho người bị tình nghi.
Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp do Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với những người đang thực hiện
hành vi phạm tội người đã bị khởi tố là bị can, người đã có quyết định đưa ra xét xử
là bị cáo. Trong đó việc bắt người là một trong những biện pháp nghiêm khắc nhất,
và không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát. Việc bắt người là biện pháp ngăn chặn trực tiếp đến quyền xâm
phạm về thân thể của công dân, họ sẽ bị hạn chế quyền tự do đi lại, sinh hoạt, hoặc
tạm ngừng việc làm thu nhập của bản thân và hạn chế tiếp xúc với mọi người bên
ngoài trong một thời gian nhất định, và đôi khi còn ảnh hưởng đến sức khỏe, danh
dự và tài sản của người bị bắt. Vì vậy, mà không ai có thể bị bắt nếu không có quyết
định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát trừ một số trường
hợp do luật quy định. Việc bắt và giam giữ phải tuân theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục hình, vì những
hành vi đó đã xâm phạm đến các quyền tự do của công dân.

1.2.4. Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án
Theo quy định tại Điều 9 của BLTTHS năm 2003 “Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật”. Đây là một nguyên tắc quan trọng được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) nước ta nghi nhận tại Điều 72 phản ánh sự đổi mới trong tư duy
pháp lý, có cơ sở khoa học, đảm bảo việc xử lý vụ án được khách quan, đồng thời
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trước cơ quan tiến hành tố tụng. Khẳng
định trong Nhà nước ta chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử, phán quyết của Tòa án
đối với một công dân là người đó có tội hay là không có tội và quyết định hình phạt
với người phạm tội. Điều này là một bảo đảm pháp lý chắc chắn cho mọi người dân.
Nếu không bị đưa ra xét xử tại Tòa án với các thủ tục tố tụng cần thiết do pháp luật
quy định thì không một ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng và những người khác phải có thái độ tôn trọng họ khi
tiến hành các hoạt động tố tụng cần thiết có liên quan đến thân thể và tài sản của họ
GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
14


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

việc bắt giữ hoặc kê biên tài sản nhằm đảm bảo cho quá trình chứng minh tội phạm.
Đây là nguyên tắc cơ bản, nhằm đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân
được quy định trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 9
BLTTHS năm 2003 nước ta. Theo nguyên tắc này thì “Không ai có thể bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp

luật”9. Nghĩa là họ vẫn phải chịu một số biện pháp cưỡng chế nhất định, nhưng
không ai được xem là có tội và chịu bất kỳ một hình phạt nào khi chưa có bản án
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn xét xử, nguyên tắc này được
thể hiện ở chổ tuy họ đã bị Viện kiểm sát truy tố và Toà án quyết định đưa vụ án ra
xét xử nhưng vẫn chưa bị coi là người có tội. Họ tham gia tố tụng với tư cách là bị
cáo, vì họ còn đầy đủ các quyền của một công dân. Vì vậy, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng không được đối xử với họ như một kẻ có tội, ngay cả khi
Toà án cấp sơ thẩm tuyên án và kết án bị cáo phạm vào một tội nào đó quy định tại
Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và áp dụng hình phạt đối
với họ thì cũng không vì thế mà cho rằng họ đã là người bị coi là có tội mà chỉ khi
nào bản án có hiệu lực pháp luật thì họ mới bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
theo bản án đã tuyên. Hình phạt là biện pháp chế tài nghiêm khắc mà pháp luật dành
cho một người khi có đủ các điều kiện luật định.
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng phải tạo điều kiện để bị can, bị cáo và người bào chữa sử dụng các biện pháp
do luật định để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm bớt trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và những quyền lợi khác. Có tội là khái niệm chỉ thuộc tính của chủ
thể mà ở đây là con người, là tính từ chỉ tính chất của sự vật, hiện tượng. Người có
tội hay bị coi là có tội là sự đánh giá của xã hội đối với một con người, cũng như ta
thường nói người này tốt, người kia xấu. Tuy nhiên, sự đánh giá một con người có
tội chỉ có Toà án mới có quyền, ngoài Toà án ra không một cơ quan, cá nhân nào có
quyền này. Hiện nay, còn không ít người quan niệm rằng, một người bị khởi tố, đã
bị bắt tạm giam, tạm giữ là có tội nên mọi người đối xử với họ với thái độ khinh
miệt, xa lánh, thậm chí những người thân của họ cũng khinh rẻ, hắt hủi, kể cả sau
một thời gian tiến hành điều tra, Cơ quan điều tra chứng minh là họ không có hành
vi phạm tội, họ được trả tự do nhưng khi trở về với gia đình và xã hội vẫn bị mặc
cảm.Với nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội không chỉ ngăn chặn sự phân
biệt đối xử của cơ quan tiến hành tố tụng mà còn có ý nghĩa đặc biệt là xoá sự mặc
cảm của gia đình và xã hội khi họ được Toà án tuyên vô tội.


9

Điều 9, BLTTHS năm 2003.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
15


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

Phạm tội là động từ chỉ hành động (hành vi) của con người đã thực hiện một
tội phạm do Bộ luật Hình sự quy định. Vì vậy, khi nói hành vi phạm tội, tức là mới
nói đến một thực trạng khách quan đã và đang xảy ra và việc ngăn chặn hành vi này
là rất cần thiết như bắt giữ, ra lệnh tạm giam, tiến hành các biện pháp điều tra xác
minh theo quy định của BLTTHS để chứng minh hành vi phạm tội của một người.
Việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng những biện pháp ngăn chặn đối với người
có hành vi phạm tội là nhằm ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra cho xã hội,
đồng thời giúp cho việc điều tra, truy tố và xét xử không bị cản trở. Điều đó có thể
lý giải vì sao có người phạm tội thì bị bắt tạm giam, có người thì được tại ngoại
song, dù bị tạm giam hay được tại ngoại thì họ đều là người có hành vi phạm tội,
chứ chưa bị coi là có tội. Người phạm tội và người có tội là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Theo đó, tội phạm là khái niệm pháp lý, là danh từ chỉ một hiện tượng xã
hội tồn tại khách quan (Điều 8 - Bộ luật Hình sự quy định rất rõ khái niệm này).
Trong Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) khái niệm phạm tội
và tội phạm được dùng để chỉ cái chung, cái riêng của một hiện tượng xã hội khách
quan, mà lại rất ít khi dùng khái niệm có tội nên sự nhầm lẫn giữa có tội với hành vi
phạm tội và tội phạm rất hay xảy ra. Tuy nhiên, đối với các cơ quan tiến hành tố

tụng và người tiến hành tố tụng thì không thể đồng nhất các khái niệm này với nhau,
vì như thế sẽ dẫn đến sự vi phạm nguyên tắc trong hoạt động điều tra, truy tố và xét
xử.
1.2.5. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Theo quy định tại Điều 11 của BLTTHS năm 2003 “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”
Quyền này luôn luôn có hai cách thực hiện người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
có thể tự mình bào chữa hoặc có quyền nhờ người khác như thuê luật sư tư vấn và
bào chữa cho mình trong quá trình tố tụng. Nguyên tắc về bào chữa có quan hệ mật
thiết với những quy định về việc cấm truy bức, dùng nhục hình hoặc đe dọa dùng vũ
lực hay các hình thức gây sức ép khác. Quyền bào chữa của người bị tình nghi nói
chung cũng gắn liền với trách nhiệm tương ứng của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng có biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện quyền đó.
Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tình nghi là thể hiện tôn trọng, bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố và xét xử
được khách quan, toàn diện và đầy đủ và ngăn ngừa sự phiếm diện, chủ quan.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
16


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

Quyền bào chữa cho người bị tình nghi là quyền về tố tụng mà pháp luật giành cho
họ để chống lại buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự10 .

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình người bị tình nghi có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quyền bào chữa của người bị tình nghi
trước hết là quyền tự bào chữa, tức là họ đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật11… để
bào chữa cho hành vi của họ, chứng minh họ vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của họ. Họ cũng có thể nhờ người khác bào chữa cho họ. Tuy nhiên, không phải
bất cứ ai đều trở thành người bào chữa cho người bị tình nghi, chỉ có một số người
có thể trở thành người bào chữa cho người bị tình nghi. Đó là luật sư, người đại diện
hợp pháp của người bị tình nghi, bào chữa viên nhân dân. Không chỉ dừng lại ở việc
nghi nhận quyền bào chữa quyền bào chữa cho người bị tình nghi, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 còn quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải đảm bảo cho người bị tình nghi thực hiện
quyền bào chữa cho họ.
1.2.6. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự là những phương châm,
những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được các
văn bản pháp luật ghi nhận. Quá trình giải quyết vụ án hình sự thông qua các giai
đoạn khác nhau, nhưng các giai đoạn đó đều có mục đích chung là xác định sự thật
của vụ án, do vậy xác định sự thật của vụ án không chỉ là nguyên tắc quan trọng của
tố tụng hình sự mà còn là nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với bất kì luật hình
thức nào. Tuy không được xác định là một nguyên tắc mang tính đặc thù của luật tố
tụng hình sự nhưng nguyên tắc này đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo
việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan
người vô tội. Theo quy định tai Điều 10 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng
nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo
có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo nguyên tắc này
thì Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật

của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác
10
11

Điều 56, BLTTHS năm 2003.
Điều 132 Hiến pháp năm 1992 (sữa đổi, bổ sung năm 2001).

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
17


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

định có tội và chứng cứ xác định không có tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tình nghi.
Bên cạnh đó thì là trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng. Người bị tình nghi có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng
minh là mình không có tội.
Quy định trên cơ bản thể hiện được trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc xác định sự thật, bảo đảm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án,
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
1.3. Vai trò và ý nghĩa của việc xác định người tình nghi
1.3.1. Vai trò của việc xác định người bị tình nghi trong tố tụng hình sự
Việc xác định người bị tình nghi liên quan đến vụ án có vai trò rất quan trọng
trong tố tụng hình sự bảo đảm tính dân chủ và cho việc phát hiện nhanh chóng kịp
thời mọi hành vi phạm tội hoặc chưa phạm tội của người bị tình nghi gây ra. Cụ thể
trong vụ án xác định một nghi can cướp tiệm vàng. Vụ án cướp tiệm vàng ở thôn Đỗ

Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín, Hà Nội. vào khoảng 16h50 ngày 16-2-2012,
tại cửa hàng vàng bạc Vững Bắc, ở thôn Đỗ Xá, xã Vạn Điểm, huyện Thường Tín,
Hà Nội của chị Nguyễn Thị Lâm Bắc (SN 1957, ở Đỗ Xá, Vạn Điểm, Thường
Tín) Lúc đó, chị Bắc đang bán hàng thì bị một đối tượng dùng dao đâm một nhát,
làm chị Bắc chết tại chỗ. Tên giết người đã giật một dây chuyền vàng chị Bắc đeo ở
cổ rồi bỏ trốn. Kết quả khám nghiệm cho thấy, ở cổ nạn nhân có vết cắt, có hiện
tượng tên sát nhân đã lục ngăn kéo, nhưng hiện cơ quan công an vẫn chưa xác định
được số tài sản bị mất.
Cơ quan điều tra bằng nghiệp vụ chuyên môn đã xác định đối tượng gây án là
một thanh niên khoảng hai mươi tuổi, đi xe máy. Với việc bước đầu xác định được
đội tượng gây án là thanh niên khoảng hai mươi tuổi, đi xe máy, mắc quần áo màu
xanh, những hình ảnh từ trong camera quan sát cung cấp cho Cơ quan điều tra giúp
cho Cơ quan điều tra nhận dạng chính xác nghi can và xác định được đối tượng bắt
khẩn cấp Nguyễn Hữu Dưỡng (27 tuổi, ở xã Đông cường, huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái Bình). vào ngày 31/08/201212 dễ dàng.
Xác định người bị tình nghi liên quan đến vụ án thì có vai trò giúp cơ quan
Điều tra thu thập chứng cứ diễn ra nhanh chóng và tìm ra nguyên nhân phạm tội, đề
xuất, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp để ngăn chặn
kịp thời. Cũng như giúp cho việc khởi tố, truy tố, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Cụ thể trong vụ án Lê Văn Trê bị khởi tố về tội “giết người” Cơ quan điều tra

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
18


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam


đã thu thập chứng cư diễn ra nhanh chóng vụ án đã truy tìm ra được kẻ đã thực hiện
hành vi phạm tội là Lê Văn Trê 13 giết hại cô gái ở cùng nhà trọ tại phường Hiệp
Tân, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 12/9/ 2008 chứng minh vai
trò của chứng cứ trong việc phá án. Nhờ thu thập được vật chứng của vụ án là bao
tay, dây dù, con dao mà bị cáo dùng để cắt cổ hai nạn nhân ở cùng khu nhà trọ mà
công an Quận 12 đã bắt được hung thủ. Thêm vào đó, trong thực tiễn hoạt động giải
quyết các vụ án hình sự xác định chính xác người bị tình nghi đã giúp được cơ quan
điều tra tìm ra được vật chứng nhanh chống và khởi tố, truy tố đúng người đúng tội.
Ví dụ vụ án giết người hiếp dâm ở xã Xuân Thắng, huyện Thới Lai, Cần Thơ Cơ
quan điều tra nhanh chống thu giữ đầy đủ các vật chứng kết hợp với các hoạt động
điều tra liên quan như giám định 14… mà Cơ quan điều tra đã truy tìm ra thủ phạm
vụ án “giết người” và “hiếp dâm” vào ngày 20/7/2012. Nhờ thu giữ được một số vật
chứng quan trọng như: một điếu thuốc lá hút dở, một sợi lông màu đen, kết hợp với
thu giữ mẫu máu nạn nhân, mẫu tinh dịch trong âm đạo khi khám nghiệm tử thi, Cơ
quan điều tra đã vạch ra hướng điều tra nên tiến hành lấy lời khai, lấy mẫu máu, lấy
lông bộ phận sinh dục của người bị tình nghi, đem giám định ADN. Kết quả,
Nguyễn Thanh Lâm sinh năm 1970 và Phạm Minh Trí sinh năm 1991 cùng trú tại
xã Phú Hữu, huyện Long Phú, Sóc Trăng và Phan Thanh Dương sinh năm 1994 xã
Xuân Thắng, huyện Thới Lai, Cần Thơ cúi đầu nhận tội.
Nếu không thực hiện các hoạt động xác định là người bị tình nghi một cách
chính xác và không xác minh các nguồn tin về người tình nghi thiếu khách quan mà
tiến hành ngay các hoạt động điều tra, truy tố, kể cả áp dụng biện pháp cưỡng chế tố
tụng sẽ dẫn đến nhiều trường hợp bất lợi, sau một thời gian điều tra không xác định
được dấu hiệu của phạm tội của người bị tình nghi, không chứng minh được là
người phạm tội mà cơ quan tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế dẫn đến tình
trạng kết thúc điều tra và truy tố thiếu chính xác cho đến xét xử sẽ dẫn đến người bị
tình nghi bị oan hoặc trong quá trình xét xử phát hiện ra thì phải quyết định đình chỉ
tố tụng hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
1.3.2. Ý nghĩa của việc quy xác định về người bị tình nghi
Trong việc xác định là người bị tình nghi nó có vai trò rất lớn trong hoạt

động tố tụng đặc biệt cho từng cơ quan tiến hành tố tụng vì thế việc xác định là
người bị tình nghi nó có ý nghĩa khác nhau cho từng cơ quan tiến hành tố tụng.

14

T.Lợi: Tử hình kẻ hiếp dâm, Báo điện tử Tin mới, 2010, [ngày truy cập 10/11/2012].

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
19


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

Thứ nhất, trong hoạt động khởi tố như đã biết khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay
không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố
vụ án. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra.
Quyết định này làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có
thẩm quyền và những người tham gia tố tụng. Các hoạt động điều tra và việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn chỉ được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án.
Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết phải làm sáng tỏ những tài liệu đầu tiên, xác
định hoàn cảnh, địa điểm xảy ra tội phạm, thu thập những vật chứng và những tình
tiết có giá trị cho việc phát hiện tội phạm thì tiến hành khám nghiệm hiện trường;
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì bắt người trước khi khởi tố vụ án.
Giai đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ xác định có hay không có dấu hiệu phạm tội để
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, bảo đảm không một tội phạm nào không bị phát
hiện, không một người vô tội nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan. Khởi tố vụ

án hình sự bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội. Bởi vì,
chỉ có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời các nguồn tin về tội
phạm mới có điều kiện làm rõ sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không.
Nếu hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án không được tiến hành khẩn
trương, đầy đủ sẽ có thể không phát hiệu ra dấu hiệu tội phạm, dẫn đến việc ra quyết
định không khởi tố vụ án, bỏ lọt tội phạm. Khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng mở đầu
cho các hoạt động điều tra. Chưa khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt
động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt. Khởi tố vụ án tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Sau khi đã khởi tố vụ án, hoạt động điều tra
không còn phải kiểm tra, xác minh để xác định dấu hiệu tội phạm nữa mà chỉ tập
trung vào điều tra làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm.
Khởi tố vụ án góp phần bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân được
pháp luật bảo hộ. Nếu không thực hiện các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin
về tội phạm mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra, kể cả áp dụng biện pháp
cưỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến nhiều trường hợp sau một thời gian điều tra không xác
định được dấu hiệu của tội phạm, không chứng minh được người bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên phải quyết định đình chỉ tố
tụng thì người này đã bị xâm phạm quyền tự do thân thể. Để xác định dấu hiệu của
tội phạm trong giai đoạn khởi tố vụ án không áp dụng biện pháp cưỡng chế nên bảo
đảm quyền tự do dân chủ của công dân.
Như vậy, việc xác định chính xác người bị tình nghi có ý nghĩa trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự là tạo điều kiện thuận lợi cho các CQTHTT và hoạt động
GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
20


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam


tố tụng tiếp theo cũng như phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, mở đầu cho
cuộc điều tra, góp phần bảo đảm an ninh xã hôi, dân chủ của công dân. Sau khi đã
khởi tố vụ án, hoạt động điều tra không còn phải kiểm tra, xác minh để xác định dấu
hiệu tội phạm nữa mà chỉ tập trung vào điều tra làm rõ các hành vi phạm tội và
người thực hiện tội phạm thu thập chứng cứ để buộc tội để đảm quyền tự do, dân
chủ của công dân được pháp luật bảo hộ. Góp phần cho hoạt động điều tra đạt được
kết quả khách quan, toàn diện, xử lý công minh đối với mọi tộ phạm.
Thứ hai, ý nghĩa trong hoạt động điều tra vụ án hình sự đây là giai
đoạn thứ hai của quá trình tố tụng như đã biết giai đoạn điều tra được bắt đầu từ khi
khởi tố và kết thúc khi Cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra đề nghị
truy tố. Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thu thập chứng cứ để chứng minh tội
phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra. Khi tội phạm xảy ra, do mới có một số tài liệu xác định dấu
hiệu của tội phạm nên quyết định khởi tố vụ án của cơ quan có thẩm quyền chỉ sơ
bộ xác định tội danh mà chưa xác định được người phạm tội. Sau khi khởi tố vụ án,
cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự để thu thập tài liệu, chứng cứ. Bằng việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế tố tụng và tiến hành các hoạt động điều tra, cơ quan điều tra thu thập
được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để xác định có tội phạm xảy ra hay không, nếu
có thì đó là tội phạm gì, thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của hành vi phạm
tội. Trong trường hợp xác định được tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi
phạm tội đã xảy ra hoặc còn có thêm tội phạm khác thì cơ quan điều tra ra quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Cũng bằng hệ thống
tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, chẳng những cơ quan điều tra xác định đúng tội
phạm đã xảy ra mà còn làm rõ người phạm tội đã thực hiện hành vi như thế nào, có
lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay
không, mục đích, động cơ phạm tội. Và cũng qua việc tiến hành điều tra, cơ quan
điều tra còn có điều kiện làm rõ tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra để làm cơ sở cho việc giải quyết bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng. Kết

quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước Tòa án hoặc
quyết định đình chỉ vụ án. Khi kết thúc điều tra, nếu có căn cứ xác định tội phạm và
bị can, Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Viện kiểm sát chỉ
có thể quyết định truy tố bị can khi vụ án đã được điều tra, có bản kết luận điều tra
kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án. Nếu vụ án chưa được điều tra hoặc điều tra không
đầy đủ mà Viện kiểm sát không có khả năng bổ sung thì không thể quyết định truy

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
21


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

tố bị can và hồ sơ vụ án phải được trả lại để điều tra bổ sung. Kết quả điều tra là cơ
sở để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội.
Tòa án chỉ có thể xét xử vụ án trên cơ sở vụ án đã được điều tra, lập hồ sơ và
có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Thiếu hoạt động điều
tra, không có hồ sơ vụ án, Tòa án không có cơ sở để xét xử. Kết quả của hoạt động
điều tra càng cụ thể, chính xác, càng thu thập được đầy đủ các chứng cứ bao gồm cả
chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, cũng như chứng cứ xác định các tình
tiết khác của vụ án thì càng tạo điều kiện cho Tòa án xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Nếu điều tra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu thập
chứng cứ có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Tòa án không thể đưa
vụ án ra xét xử mà phải trả lại hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.
Như vậy, với vai trò của Cơ quan điều tra phân tích ở trên thì việc xác định
người bị tình nghi đúng đối tượng góp phần ý nghĩa cho việc điều tra một cách dễ

dàng, trong việc thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành
vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoàn
thành bản kết luận điều tra để chuyển sang cho Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ ba, ý nghĩa trong hoạt động truy tố theo quy định của luật truy tố là chức
năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật
định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà
Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để loại trừ những hậu quả tiêu cực của
các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước
đó. Giai đoạn truy tố chính là tiền đề của giai đoạn xét xử, quyết định truy tố của
Viện kiểm sát là cơ sở pháp lý để Tòa án ra quyết định mở phiên tòa xét xử, đồng
thời quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng xác định phạm vi xét xử, thẩm quyền
và giới hạn xét xử của Tòa án. Việc truy tố của Viện kiểm sát kịp thời, chính xác sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xét xử, bảo dảm cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Kịp thời sửa chữa và khắc phục những thiếu sót cũng như vi phạm pháp luật
của cơ quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự cùng với việc nghiên cứu
hồ sơ xác định căn cứ lập cáo trạng, quyết định truy tố đối với bị can, Viện kiểm sát
còn trực tiếp kiểm tra, xem xét phát hiện những thiếu sót hay vi phạm pháp luật của
cơ quan điều tra, kịp thời sửa chữa hoặc đề nghị sửa chữa và khắc phục những thiếu
sót và vi phạm đó. Nếu phát hiện việc điều tra chưa đầy đủ, chưa làm rõ những
chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến nội dung vụ án hay có vi phạm
GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
22


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam


nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra vụ án thì Viện kiểm sát
quyết định trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nếu phát hiện có những căn cứ
không cho phép tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với bị can hay trường
hợp theo quy định của pháp luật xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án để bảo vệ
quyền lợi cho bị can.
Như vậy, từ những vai trò của việc truy tố trên cho thấy được việc xác định
là người bị tình nghi hết sức quan trọng có ý nghĩa tạo tiền đề cơ sở pháp lý để Tòa
án quyết định đưa vụ án ra xét xử đồng thời quyết định truy tố của Viện kiểm sát
cũng xác định phạm tội hậu quả người bị tình nghi gây ra.
Thứ tư, ý nghĩa trong xét xử như đã biết xét xử là chức năng quan trọng nhất
của Tòa án nói riêng và của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung. Nhằm áp
dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ
của toàn bộ các quyết định mà cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua
trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tòa án, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu
cực của các cơ quan trước đó sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba
giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án
ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ
án như đã biết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động của Toà án có thẩm quyền
xem xét và giải quyết vụ án hình sự để xác định một người có tội hay không có tội.
Nếu có tội thì người đó phạm tội gì, được quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật
hình sự và hình phạt áp dụng đối với người đó. Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
phải tuân theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
Như vậy, với vai trò của giai đoạn xét xử như thế đã cho thấy được tầm quan
trọng việc xác định là người bị tình nghi trong vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử
người bị tình nghi xuất hiện với tư cách là bị cáo, cũng như các hoạt khởi tố, điều
tra, truy tố việc xác định người bị tình nghi có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động của
từng cơ quan với ý nghĩa xác định người bị tình nghi trong giai đoạn xét xử này là

giúp cho cơ quan xét xử, xác định người bị tình nghi này có liên quan đến vụ án hay
không cũng như việc xác định người đó sẽ chịu hình phạt như thế nào nếu như có
liên quan vụ án và chấm dứt tư cách là người bị tình nghi.

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
23


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

CHƯƠNG 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI BỊ
TÌNH NGHI TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Quyền của người bị tình nghi
Người bị tình nghi là một trong những chủ thể tham gia tố tụng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản thân họ. Để người bị tình nghi có thể bảo
vệ được quyền của họ, luật đã quy định cho người bị tình nghi những quyền năng
nhất định khi tham gia vào tố tụng. Đồng thời để thực hiện được quyền luật định cho
họ thì người bị tình nghi cũng sẽ thực hiện nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền
của người bị tình nghi sẽ đi cùng nghĩa vụ của họ.
2.1.1. Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ
Quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ là quyền cơ bản của người bị
tình nghi trong tố tụng hình sự, khi đó cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến
hành tố tụng phải giải thích cho người bị tình nghi được biết về quyền và nghĩa vụ
của mình khi tham gia vào tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Khi người tình nghi tham gia vào hoạt động tố tụng từ khi bị tạm giữ cho đến
khi có bản án của Tòa án thì việc giải thích về quyền và nghĩa vụ có ý nghĩa rất lớn

đối với việc bảo vệ và lợi ích của họ. Đôi khi một số đối tượng là người bị tình nghi
khi tham gia vào hoạt động tố tụng họ còn nhiều hạn chế về kiến thức pháp luật và
không hiểu biết pháp luật đã quy định những gì, cũng như các quyền và nghĩa vụ của
mình khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự một phần nào đó do công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật của mọi người trong xã hội còn hạn chế. Nhiều nơi còn
chưa hiểu pháp luật đã quy định những gì và còn xem nhẹ nên người bị tình nghi
không nắm bắt kịp thời của pháp luật. Cụ thể, trong vụ án Vũ Tuấn Linh trú tại thôn
Tân Mai, xã Đồng Mai, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh bị CQĐT huyện Yên
Hưng khởi tố về tội “ trộm cắp tài sản” theo Điều 138 BLHS. Khi điều tra viên hỏi
về nguyên nhân hành vi thực hiện phạm tội thì Linh nói chỉ mượn vài ngày rồi trả lại
không biết lấy tài sản không hỏi chủ là vi phạm pháp luật bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Trong vụ án này một phần do anh Linh hạn chế về kiến thức pháp luật dẫn
đến những vi phạm về pháp luật, một phần nữa là do công tác tuyên truyền giáo dục
pháp luật trong xã hội còn hạn chế đối với anh Linh nói riêng và mọi người nói
chung. Có thể thấy rằng, ngay từ lúc đầu đã có sự hạn chế kiến thức về pháp luật dẫn
đến vi phạm pháp luật còn không biết. Khi tham gia vào quá trình tố tụng tất nhiên
họ sẽ không biết quyền và nghĩa vụ như thế nào. Vì vậy, các CQTHTT, NTHTT

GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
24


Luận Văn Tốt Nghiệp: Quy Chế Pháp Lý Về Người Bị Tình Nghi Trong Tố Tụng Hình Sự
Việt Nam

phải đảm bảo cho họ quyền được giải thích quyền và nghĩa để họ có thể thực hiện
quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia vào quá trình tố tụng.
Về mặt xã hội, thì công tác tuyên truyền kiến thức pháp luật của địa phương,

các tổ chức đoàn thể... nhiều địa phương vẫn chưa thực hiện một cách tích cực, đầy
đủ cho mọi người, nắm bắt những quy định của pháp luật. Đôi khi có thể những
người trong gia đình người bị tình nghi của họ còn có sự hạn chế về kiến thức pháp
luật nên không thể phổ biến những kiến thức cho mọi người trong gia đình được
biết. Đối với người bị tạm giữ, bị can, bi cáo họ đã được xem là người bị tình nghi là
người thực hiện hành vi phạm tội hay bị buộc tội về hành vi phạm tội của mình bởi
cơ quan có thẩm quyền. Nên cần biết mình bị khởi tố hoặc đưa ra xét xử về tội gì thì
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị tình nghi rất mong muốn mình được biết có
những quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện, giúp họ có cơ hội gỡ tội hay là giảm trách
nhiệm hình sự cho bản thân họ. Vì vậy, BLTTHS năm 2003 đã quy định cho người
bị tình nghi quyền “Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ” tại điểm b khoản 2
Điều 48 và điểm b khoản 2 Điều 49 và điểm c khoản 2 Điều 50. Việc đảm bảo
quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ cho người bị tình nghi có ý nghĩa rất lớn
đối với việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ. Nhìn chung người bị tình nghi còn
nhiều hạn chế trong việc nhận thức về pháp luật cũng như các quyền và nghĩa vụ của
họ khi tham gia vào tố tụng hình sự. Một phần do công tác tuyền truyền, giáo dục
pháp luật đối với mọi người còn hạn chế, nhiều nơi còn xem nhẹ pháp luật, buông
lỏng, thiếu năng động, đã dẫn đến những hạn chế trong nhận thức về kiến thức pháp
luật đối với họ. Cụ thể trong vụ án giết người vì lý do “ nhìn đểu” ở TP. Cần Thơ.
Lúc 21h40' ngày 10/2/2011, tại quán nhậu Phố Đêm đường Đinh Tiên Hoàng,
phường Thới Bình, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, chỉ vì cho rằng người ngồi bàn
bên cạnh “nhìn đểu” mà 4 thanh niên này đã vác kiếm chém chết một người. Trong
vụ án trên là do các bị cáo thiếu kiến thức pháp luật, trình độ học vấn thấp, không có
việc làm, tác động của phim ảnh, Game online có nội dung bạo lực gia đình thì sống
không lành mạnh nên đã có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến tình trạng trên.
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo
cho họ quyền được giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ, để họ có thể thực hiện và
hiểu được các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia vào quá trình tố tụng
hình sự.
Quyền được giải thích quyền và nghĩa vụ, xác định đây là quyền được thực

hiện ngay từ khi một người là bị tình nghi. Theo đó, khi người bị tình nghi nói chung
sẽ được giải thích và hiểu được các quyền và nghĩa vụ của họ thì sẽ có cơ sở để họ
thực hiện các quyền tiếp theo của họ. Đây là một quyền hết sức cần thiết đối với
GVHD: ThS Mạc Giáng Châu

SVTH: Dương Vương
25


×