Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.18 KB, 64 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==

NGUYỄN THỊ NGỌC YẾN

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG CHO THANH NIÊN VIỆT
NAM HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dẫn khoa học
CHU THỊ DIỆP

HÀ NỘI - 2012
Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

1


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới giảng viên Chu Thị Diệp –
người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.


Em tin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2, đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo dục chính trị đã giảng dạy em trong
suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo của các thầy, cô
cũng như của các bạn sinh viên để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Thị Ngọc Yến

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

2


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong khi nghiên cứu, tôi đã kế thừa những thành quả của các nhà khoa
học, các nhà nghiên cứu với sự trân trọng và biết ơn.
Những kết quả nghiên cứu trong khóa luận chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2012

Sinh viên
Nguyễn Thị Ngọc Yến

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

3


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2
CHƢƠNG 1: GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG ....................................... 7
1.1. Một số khái niệm liên quan ................................................................................. 7
1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam. .................. 11
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY .................................... 23
2.1. Thanh niên - tầng lớp xã hội đặc thù ................................................................. 23
2.2. Thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên Việt Nam trong
những năm qua ......................................................................................................... 25
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 43
3.1. Phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
thanh niên Việt Nam hiện nay .................................................................................. 43
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền
thống cho thanh niên Việt Nam hiện nay ................................................................. 50
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 62

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

4


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc
Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận thiết yếu nổi lên hàng đầu, là
“nhân lõi”, là tinh hoa hội tụ và là sức mạnh nội sinh của cả dân tộc. Trải qua hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ
người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con người, chịu thương, chịu khó,...
Những đức tính đó đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp, những truyền thống
đáng tự hào của dân tộc Việt Nam, giúp chúng ta “hội nhập” mà không bị “hòa tan”,
phát triển mà không bị “mất gốc”, nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình để đứng vững
trước mọi thử thách của cuộc sống hiện đại.
Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của văn hóa nói
chung, những giá trị đạo đức truyền thống nói riêng đối với sự phát triển của đất nước,
Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng
xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần
thứ tư Ban chấp hành khóa VII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: phát
triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh

tế thị trường hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi
bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của
dân tộc khác.
Trước bối cảnh toàn cầu hóa và giao lưu hội nhập quốc tế như hiện nay, vấn đề
giữ gìn và phát huy bản lĩnh, bản sắc văn hóa dân tộc lại càng đặt ra hết sức cấp thiết.
Ở Việt Nam trong những năm qua, sự phát triển của kinh tế thị trường đã đem lại cho
đất nước nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Tuy nhiên bên cạnh
những thành công đó, chúng ta cũng đang phải đối mặt với một thực tế đáng buồn, đó
là sự xuống cấp về mặt đạo đức hiện nay trong đời sống xã hội. Kinh tế thị trường với
sức mạnh tự phát ghê gớm của nó là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh lối sống ích kỷ,
vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày từng giờ làm

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

5


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của
văn hóa truyền thống mà ông cha ta đã phải đổ biết bao mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả
xương máu để tạo dựng nên. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận
không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh niên nói riêng có lối
sống chạy theo đồng tiền, buông thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống của dân
tộc.
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào thế hệ trẻ nói chung, thanh niên nói riêng. Trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa
VII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước

bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng
Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên”. Thế
nhưng trên thực tế, có không ít thanh niên chưa ý thức được vai trò, vị trí của mình
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sống ỷ lại bố mẹ, không chịu phấn đấu rèn
luyện, sống đua đòi, ăn chơi, buông thả, dẫn đến vi phạm pháp luật...
Từ thực trạng đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay là một việc làm cần thiết và hết sức cấp bách nhằm góp phần
giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc nói
chung, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam ta nói riêng, hướng tới
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đó cũng là lý do để tôi lựa chọn
đề tài : “Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên Việt Nam hiện
nay” để nghiên cứu, làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống trong những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, đề cập đến nhiều khía
cạnh khác nhau, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ:
Mạc Văn Trang (1995), “Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những
phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên”, Luận án tiến sĩ, Viện

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

6


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp


nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. Trong đó, tác giả đã
nghiên cứu, phân tích những đặc điểm cơ bản trong lối sống của sinh viên hiện nay,
nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản để giáo
dục và xây dựng lối sống lành mạnh trong sinh viên.
Nguyễn Văn Lý (2000), “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến
sĩ Triết học. Trong đó, tác giả đã phân tích các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam, những biến đổi của nó trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước. Từ đó
tác giả đã đề ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản trong việc kế thừa và đổi
mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay.
Lê Thị Hoài Thanh (2002), “Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học.
Trong đó, tác giả đã phân tích rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc kết hợp
truyền thống và hiện đại trong công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên, từ đó đề xuất
một số phương hướng và giải pháp chủ yếu kết hợp truyền thống và hiện đại trong
giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
Các công trình nghiên cứu dưới dạng sách chuyên khảo:
Trần Văn Giàu (1980), “Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam”, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách này, từ góc độ sử học, triết học và đạo đức học
tác giả đã nghiên cứu khá sâu sắc và toàn diện về các trị truyền thống đặc thù của dân
tộc Việt Nam.
Ngô Đức Thịnh (2010), “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam trong đổi mới và hội nhập”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Trong đó, tác giả đã nghiên cứu và trình bày thành hệ thống các giá trị truyền thống
của dân tộc Việt Nam, đồng thời nghiên cứu nó trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập hiện nay.
Các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo, tạp chí:
Về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, những biến đổi của nó và việc

giữ gìn, phát huy nó trong điều kiện hiện nay, có những bài viết tiêu biểu như: “Biện
chứng của truyền thống” của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3, 1981; “Về truyền
thống dân tộc” của Trần Quốc Vượng, Tạp chí cộng sản, số 3, 1981; “Giữ gìn và phát

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

7


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại” của Lương
Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4, 1992, “Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó
trong đời sống xã hội” của Mai Xuân Lợi, Tập chí Triết học, số 3, 2001; “Một số biểu
hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
và giải pháp khắc phục” của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002;...
Về thực trạng giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho thanh niên
nói riêng, có những bài viết tiêu biểu như: “Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh
niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết
học, số 5, 1995; “Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo
đức hiện nay” của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, số 6, 1996; “Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của
Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998;“Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý
tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay”, của Đoàn Văn Khiêm, Tạp
chí Triết học, số 2, 2001;... Các bài viết này đã làm sáng tỏ về thực trạng đạo đức của
thanh niên hiện nay cũng như vấn đề giáo dục đạo đức nói chung, đạo đức truyền
thống nói riêng cho thanh niên Việt Nam hiện nay.
Các công trình nghiên cứu trên đều có ý nghĩa to lớn đối với việc kế thừa và

phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên những công
trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục các giá trị đạo đức truyền
thống cho thanh niên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi
trước, tôi muốn đi sâu tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức truyền thống cho thanh
niên ở nước ta hiện nay, từ đó mạnh dạn đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ
bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho
thanh niên Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh
niên Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của nó, khóa luận đưa ra một số phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho
thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ:

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

8


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,.
Phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho thanh niên Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho
thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình thực hiện tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể: Phân tích
- tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp diễn dịch - quy nạp, thống kê,
điều tra xã hội học...
6. Đóng góp của đề tài
Với kết quả đạt được khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh
viên, giáo viên, giảng viên các môn Chính trị, Đạo đức học… trong các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp…. và những ai quan tâm tới vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận bao gồm 3 chương, 6 tiết.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

9


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp
CHƢƠNG 1

GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG
1.1. Một số khái niệm liên quan

1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức
“Giá trị là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu triết học và xã
hội học dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa và xã hội của các hiện tượng [24, tr. 42]. Trong
triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của ý thức, là biểu
tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà người đó đang đánh
giá. Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử của giá trị, đồng
thời khẳng định giá trị có thể nhận thức và giá trị có tính thực tiễn. Theo quan niệm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị là những thành tựu của con người trong sự phát
triển của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích của con người. Tất cả mọi cái gọi là giá trị
đều có nguồn gốc xuất phát từ chính cuộc sống lao động thực tiễn của con người. Do
vậy, có thể nói, chỉ trong xã hội loài người mới có cái gọi là giá trị. Trong hoạt động
thực tiễn, giá trị của một sự vật hiện tượng đều được xác định bởi sự đánh giá của con
người. Sự đánh giá đó nằm trong quy luật của sự vận động và phát triển tiến lên trong
thế giới, nó phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống của con người, cho lợi ích và
tiến bộ xã hội. Có thể nói, mọi giá trị đều thể hiện mối quan hệ giữa người với vật, chỉ
khi nào sự vật khách quan có ích với con người thì mới là giá trị.
Trong cuốn Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển có
viết như sau: “nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện,
nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái
đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và vươn tới” [1, tr. 16].
Trong cuốn Từ điểm bách khoa toàn thư Xô viết định nghĩa:
“ Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thế giới
xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm của toàn bộ xã hội nói chung.
Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là
bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động
sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội,

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

10



Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện
nguyên tắc và chuẩn mức đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục

đích

trong các
[23,

tr

1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây, có thể khái quát lại như
sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái đúng,
cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị trí
quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của
xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến. Nó cũng luôn vận
động biến đổi theo không gian, thời gian cho phù hợp trong từng thời điểm nhất định. Vì
vậy, thực tế không phải những gì đã có giá trị trong quá khứ đều giữ nguyên được giá trị
ấy mãi mãi trong tương lai. Điều đó cho thấy, giá trị mang tính lịch sử khách quan. Sự ra
đời, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của
con người mà do yêu cầu của từng thời đại nhất định.
Thứ ba, giá trị đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá trị giúp

con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống. Giá trị giúp con người định
hướng và xác định cho hành động của mình, là động cơ thúc đẩy hoạt động của con
người.
Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào mỗi tiêu chí sẽ có cách
phân loại khác nhau. Cơ bản, người ta dựa vào tiêu chí mục đích phục vụ nhu cầu của
con người mà chia làm hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất được thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về
trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật, phong tục tập quán.... Những phẩm chất đó ăn sâu bám rễ vào trong đời
sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái
đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người
với con người, con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

11


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi
của đời sống xã hội.
1.1.2. Truyền thống và giá trị đạo đức truyền thống
Về khái niệm truyền thống, trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác

nhau về vấn đề “truyền thống”. Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô,
“truyền thống” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Traditio - sự chuyển giao, lưu truyền
lại - đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ trước và nó
được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định.
Trong cuốn Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cấu hóa có
đoạn viết: “Từ đây cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận
thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ
khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta” [2, tr. 23].
Truyền thống là tập hợp những tư tưởng, tình cảm, thói quen trong tư duy, lối
sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất định được hình thành trong lịch sử và
đã trở nên ổn định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vậy truyền
thống bao giờ cũng mang ba đặc trưng cơ bản: Tính cộng đồng, tính ổn định và tính
lưu truyền. Tuy nhiên những đặc trưng đó cũng chỉ mang tính tương đối, vì bản thân
truyền thống cũng có quá trình hình thành, biến đổi và phát triển. Việc nhận thức và
đánh giá truyền thống phải luôn luôn đứng trên quan điểm phát triển, quan điểm lịch
sử và biện chứng.
Tính cộng đồng của truyền thống được thể hiện ở chỗ: truyền thống bao giờ
cũng là truyền thống của một cộng đồng nhất định nào đó, chứ không là của cá nhân
riêng lẻ. Ở nước ta, tính cộng đồng biểu thị tập trung ở ba kết cấu xã hội chủ yếu là
nhà, làng và nước.
Tính ổn định tương đối của truyền thống biểu hiện ở chỗ: Khi nói đến truyền
thống là ta nói đến một cái gì đó lâu dài, ít thay đổi. Tuy nhiên chính bản thân truyền
thống cũng có quá trình hình thành, phát triển và biến đổi theo thời gian, trong điều
kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Khi những điều kiện đó thay đổi thì truyền thống cũng có
những mặt phải thay đổi cho phù hợp, có mặt kế thừa, có mặt bị đào thải và có thể có
truyền thống mới được hình thành.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

12



Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Tính lưu truyền của truyền thống là đặc điểm nổi bật. Truyền thống bắt nguồn
từ lịch sử, nhưng không phải mọi thứ thuộc về lịch sử đều là truyền thống, mà chỉ
những gì được sao phỏng, được lưu truyền từ đời này sang đời khác mới được gọi là
truyền thống.
Nói đến giá trị truyền thống là nói đến mặt tích cực của truyền thống, bao gồm
những yếu tố ưu việt, tiến bộ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần
giữ gìn bản sắc dân tộc. Giá trị truyền thống là sự phản ánh điều kiện tồn tại của dân
tộc trong ý thức của con người trải qua lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó không chỉ
là kết quả của mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người
trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản thân mà nó còn là động lực
của quá trình đó. Giá trị truyền thống là những đặc trưng cho bản sắc dân tộc mà
chúng ta cần duy trì và phát triển. Giá trị truyền thống dân tộc được cô đúc lên trong
suốt quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc. Cho nên có thể nói, giá trị
truyền thống là cái thể hiện bản chất nhất, đặc trưng nhất cốt lõi văn hóa dân tộc.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam, nó là “nhân lõi”, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là
những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người
với con người, giữa con người vơi tự nhiên. Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói
riêng là sự kế thừa. Trải qua hàng trăm năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương
con người, cần cù, thông minh, sáng tạo...những đức tính đó trở thành những giá trị
đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam, mà hàng ngàn đời chúng ta vẫn nâng niu quý
trọng.

Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến truyền
thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp,có
thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần giữ gìn phát huy phát triển
cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

13


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài lịch
sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta
do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước và giữ nước,
với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo nên một bản sắc hết sức
độc đáo.
1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc Việt Nam.
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, lắng
đọng và phát triển qua mấy nghìn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả
dân tộc, là kết quả của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố
khách quan. Nó có nguồn gốc sâu xa và bắt nguồn từ những hoàn cảnh địa lý, môi
trường tự nhiên, lịch sử và xã hội.
Từ khi lập nước đến nay, Việt Nam chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp, nghề
nông là một nghề lao động vất vả không chỉ đòi hỏi nhiều sức lao động mà còn phụ

thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Trong khi đó, điều kiện tự nhiên của Việt Nam lại mưa
nắng thất thường do nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa
đông Bắc và đông Nam gây ra nhiều thiên tai hạn hán, mất mùa. Chính những đặc
điểm này đã ảnh hưởng tới sự hình thành hệ giá trị của dân tộc Việt Nam, tạo nên sự
gắn bó cộng đồng bền chặt, sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau, đặt nền móng cho tinh
thần lao động cần cù, tiết kiệm. Bên cạnh đó, do có nhiều tài nguyên thiên nhiên và là
đầu mối giao thông quốc tế quan trọng, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều
quốc gia. Bởi vậy, muốn bảo vệ đất nước người Việt Nam phải hy sinh nhiều lợi ích
của riêng mình, cùng nhau đoàn kết để bảo vệ lợi ích chung.
Với những đặc điểm tự nhiên, sự khó khăn của dân cư vùng lúa nước, sự đe dọa
của nạn ngoại xâm như vậy, muốn tồn tại và phát triển, con người Việt Nam phải cùng
nhau chung sức trong lao động sản xuất và trong các mối quan hệ khác.
Trên nền tảng của nền văn hóa bản địa, với điều kiện địa lý thuận lợi Việt Nam
còn tiếp thu được những tinh hoa văn hóa của nhân loại đặc biệt là văn hóa Trung
Quốc và Ấn Độ với cốt lõi là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội luôn lấy Đức làm trọng là công cụ để
quản lý xã hội của giai cấp thống trị Trung Quốc với rất nhiều giáo lý phù hợp với điều

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

14


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

kiện xã hội Việt Nam, hơn nữa Nho giáo luôn đề cao chữ nhân, lòng thương người,
trọng người cao tuổi. Phật giáo với tư tưởng từ bi, bác ái đã dễ dàng thâm nhập vào
Việt Nam từ rất sớm bởi lẽ người Việt Nam từng chịu nhiều đau thương, mất mát qua

các cuộc chiến tranh, sống lam lũ, khổ sở và thường xuyên phải chống chọi với thiên
nhiên khắc nghiệt, nên luôn mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Chính những đặc điểm hình thành và phát triển của xã hội Việt Nam đã làm cho
các giá trị đạo đức được bồi đắp thường xuyên trong suốt chiều dài lịch sử. Cùng với
thời gian, những giá trị này trở nên ổn định và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác và trở thành động lực, sức mạnh, bản sắc của nhân cách con người Việt Nam.
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam, đã có nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này:
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng
tạo; trong đó lòng yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của
dân tộc [15, tr. 74-86].
Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta với
bảy nội dung như sau: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,
vì nghĩa” [7, tr. 108].
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay chỉ rõ: “Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như
thể thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động...” [6, tr. 19].
Tuy còn có sự khác biệt trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức. Nhưng nhìn
chung, chúng ta có thể khái quát những giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của người
Việt Nam như : Tinh thần yêu nước;lòng nhân ái - yêu thương con người; cần cù, tiết
kiệm, thông minh, sáng tạo; đoàn kết; hiếu học…
1.2.1. Tinh thần yêu nước
Lịch sử Việt Nam là một lịch sử chiến tranh triền miên. Về địa lý, Việt Nam
ngày xưa là một vùng đất rộng lớn nằm từ phía nam núi Ngũ linh sông Dương Tử
xuống tận Bình Nguyên sông Hồng và sông Thái Bình, tức là hơn nửa nước Tàu bây
giờ. Đây là thời kỳ bộ tộc Việt sống chung với nhau nhưng dần dần Bách Việt bị Hán

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến


15


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

tộc thôn tính - Việt tộc vừa phải chiến đấu để giữ lại vùng đất cuối cùng, vừa phải mở
mang cho vùng đất rộng thêm để đáp ứng với sự gia tăng dân số. Do đó lịch sử Việt
Nam là lịch sử chiến tranh.
Từ ý niệm giữ lấy vùng đất để bảo tồn nòi giống, người Việt rất yêu đất nước
của mình. Tinh thần yêu nước đó của dân tộc Việt Nam được thể hiện ngay từ thuở
vua Hùng dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000 năm
đấu tranh giành độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai
Bà Trưng, cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến
thắng giòn giã, đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc ta
liên tiếp đánh tan quân xâm lược Tống, Nguyên Minh, Thanh... Đến thời kỳ chiến
tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1975, chúng ta đã đánh thắng cả
hai tên đế quốc to: Pháp và Mỹ. Với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải
phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối, nước nhà
hoàn toàn độc lập. Tất cả các cuộc khởi nghĩa đó đều phát sinh từ lòng yêu nước. Tinh
thần yêu nước đối với người Việt Nam là một truyền thống ngàn đời, một tình cảm xã
hội mà nội dung của nó là lòng trung thành với tổ quốc, lòng tự hào về quá khứ và
hiện tại của tổ quốc, ý chỉ bảo vệ những lợi ích của tổ quốc.
Thực ra trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc đều có tinh thần yêu nước, nhưng
bản sắc, sự hình thành cũng như biểu hiện của nó lại có sự khác nhau. Ở Việt Nam,
tinh thần yêu nước là nước đã trở thành “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân
tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc ta [19,
tr. 74]. Nó là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, là

“tiêu điểm của các tiêu điểm, là giá trị của các giá trị” [7, tr. 94]. Yêu nước là đặt lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, luôn chăm lo xây dựng và bảo
vệ đất nước, có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, luôn tự hào về dân tộc.
Tinh thần yêu nước của người Việt Nam bắt nguồn từ những tình cảm bình dị
và đơn sơ nhất của mỗi người dân. Tình cảm đó bắt nguồn từ tình yêu đối với quê
hương làng xóm, yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh
chị em, con cái, bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người hàng
ngày vất vả chiến đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống. Tình yêu đất

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

16


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

nước không phải là tình cảm bẩm sinh mà là sản phẩm của sự phát triển lịch sử, gắn
liền với một đất nước nhất định. Hơn nữa tình thần yêu nước không chỉ gắn liền với
quá trình xây dựng đất nước, nó còn thể hiện rõ hơn trong quá trình bảo vệ đất nước.
Trên thế giới hầu như quốc gia nào, dân tộc nào cũng phải trải qua quá trình bảo vệ đất
nước chống xâm lăng, nhưng có lẽ không dân tộc nào lại phải trải qua quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc nhiều và đặc biệt như ở Việt Nam. Trong
khoảng thời gian từ thế kỷ thứ II TCN đến cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược thế
kỷ XX SCN, dân tộc ta đã giành hơn nửa thời gian cho các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm. Không một dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến
tranh như Việt Nam và phải đối đầu với những kẻ thù mạnh hơn mình rất nhiều lần.
Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, chiến
thắng mọi thế lực ngoại xâm. Qua những cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ đó, chủ

nghĩa yêu nước đã trở thành: Dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một dạng
triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn người Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ II của
Đảng Lao động Việt Nam (11/2/1951), chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: dân tộc
ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm
tất cả lũ bán nước và cướp nước.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử thách và
được khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua
từng thời kỳ, nó là một trong những giá trị trị truyền thống cao quý và bền vững nhất
của dân tộc ta. Nếu như trước đây, yêu nước là phải cứu nước, phải chiến thắng giặc
ngoại xâm, thì ngày nay, yêu nước phải kiên quyết chống tham nhũng, buôn lậu, ma
túy và các tệ nạn xã hội khác - những vấn nạn đã và đang từng ngày từng giờ làm băng
hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, yêu nước còn được thể hiện ở sự
nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào khả năng, sức mạnh tự lực tự
cường của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng vẻ vang của
dân tộc. Có thể nói rằng, dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước được phát

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

17


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

huy lên tầm cao mới thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao động, học tập vì độc lập dân
tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.

1.2.2. Tinh thần nhân ái - yêu thương con người
Truyền thống nhân ái - yêu thương con người cũng là một giá trị đạo đức truyền
thống của dân tộc Việt Nam, truyền thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh hoạt
công xã nông thôn, được củng cố và phát triển qua quá trình chung lưng, đấu cật khai
phá giang sơn, giữ gìn đất nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái đó chính là cơ sở cho
cách xử thế ở đời của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Người
Việt Nam luôn luôn “thương người như thể thương thân” và vì lẽ đó, trong quan hệ đối
xử hàng ngày, người Việt ta luôn coi trọng tình nghĩa, luôn đặt tình nghĩa lên trên hết “vì tình nghĩa ai vì bát xôi đầy”. Chữ “tình” chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống
của nhân dân ta. Trong gia đình đó là tình cảm vợ chồng “đầu ắp tay gối”, tình anh em
như thể chân tay, tình cảm đối với cha mẹ “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra”, rộng hơn đó là tình cảm đối với xóm làng “sớm khuya tối
lửa tắt đèn có nhau” và rộng hơn nữa đó là tình yêu quê hương, đất nước “nhiễu điều
phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhua cùng”; “bầu ơi thương lấy
bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Chính sự coi trọng chữ “tình”
mà trong những xung đột người Việt Nam thường cố gắng giải quyết theo phương
châm: “có lý có tình”, “chín bỏ làm mười”, bởi với họ tình cảm con người là cao quý
hơn cả, không thể vì những điều khác mà bỏ đi được.
Lòng nhân ái, nhân nghĩa của người Việt nam còn được thể hiện ở lòng vị tha
cao thượng, khoan dung với những người lầm đường lạc lối, nhưng biết lập công
chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn,
lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể
hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy tình thương yêu làm cách xử
thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận. Vua Quang
Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thực và phương tiện cho đám quân
tàn về nước.
Hồ Chủ tịch cũng là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng
yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba tìm đường cứu nước,

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến


18


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình Bác đã hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc
của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả
non sông trọn kiếp người”. Lòng nhân ái của Người đã thấm sâu vào chủ trương
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng vạn con
người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như những đứa
con “lạc bầy” cần được cưu mang. Bác nói: Giống như bàn tay cũng có ngón dài ngón
ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có người
thế này, có người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt
Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng năm, Đảng và Nhà nước thường có
những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể hiện lòng nhân ái của
Đảng và Nhà nước ta. Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu chuộng hòa
bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân
dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột. Trong
đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào “uống nước nhớ nguồn”, “đền
ơn đáp nghĩa”, chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ,
giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa. Phát động các phong trào
xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng xâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách
thành thị - nông thôn, miền xuôi - miền ngược... Truyền thống nhân ái của dân tộc ta
còn bao hàm cả tinh thần lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của con người, sức mạnh
của chính nghĩa và ở tương lai của dân tộc. Nhân ái ngày nay vẫn tiếp tục mở rộng
phạm vi trên toàn thế giới để cùng các dân tộc khác giải quyết các vấn đề mang tính
toàn cầu như: bảo vệ thiên nhiên, môi trường, chống chiến tranh, chống bệnh tật hiểm
nghèo...

Có thể nói, truyền thống nhân nghĩa, nhân ái là một trong những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta. Đó cũng chính là nguồn sức mạnh tinh thần giúp nhân dân ta có
thể vượt qua mọi khó khăn và thử thách vươn lên làm chủ cuộc sống của mình.
1.2.3. Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo
Truyền thống cần cù, tiết kiệm, thông minh, sáng tạo là một giá trị đạo đức có
từ bao đời nay của dân tộc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển trong điều

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

19


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

kiện, hoàn cảnh tự nhiên xã hội không ít những khó khăn khắc nghiệt ngay từ những
buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Như đã nói ở trên, Việt Nam là nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, lao
động nông nghiệp là loại hình lao động vất vả, cần nhiều thời gian công sức mới có
được hạt gạo, bát cơm để ăn. Hơn nữa, thiên nhiên lại khắc nghiệt, mùa nắng thì hạn
cháy đồng, mùa mưa thì lại lũ lụt. Quanh năm suốt tháng người dân Việt Nam phải lo
đắp đập, đào mương lấy nước tưới, đắp đê phòng chống lũ lụt. Mặt khác, dân tộc Việt
Nam luôn phải chịu sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài, bất cứ cuộc xâm lăng nào
bên cạnh nhiều lý do khác cũng đều là sự cướp bóc của cải, phá hoại mùa màng, sản
xuất. Do đó để khắc phục hậu quả, nhân dân Việt Nam không còn cách nào khác hơn
là lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Như thế, đầu tiên lao động cần cù như một
yêu cầu tất yếu để đảm bảo cho sự sinh tồn của dân tộc. Sau đó, trong đấu tranh gian
khổ với thiên nhiên, với cuộc sống luôn bị kẻ thù xâm lăng, lao động cần cù đã trở
thành một phẩm chất đạo đức không thể thiếu đối với con người Việt Nam, ước vọng

về một đức tính cần cù lao động đã được thể hiện nhiều trong dân gian Việt Nam.
Người Việt Nam luôn nhắc nhở với nhau rằng “năng nhặt chặt bị”; “kiến tha lâu cũng
đầy tổ”, người ta luôn phê phán thói “ăn không ngồi rồi” bởi với họ “nhàn cư vi bất
thiện”.
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì cần mà
không kiệm thì chẳng khác nào: “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Nên ông
cha ta thường nhắc nhở con cháu rằng: “Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất
bát lấy ai bạn cùng”. Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: Con người phải có bốn đức tính: Cần,
kiệm, liêm, chính, so sánh với bồn mùa của trời, bốn phương của đất, nếu thiếu một
đức thì không thành người:
Trời có bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bồn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc;
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất;
Thiếu một đức thì không thành người [19, tr. 631].

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

20


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Người cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc tiến bộ, cần, kiệm, liêm, chính là
nền tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện rõ nét trong lao động, sản xuất, trong

khoa học - kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình đổi mới đất
nước hiện nay, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”, hơn bao giờ hết truyền thống cần cù sáng tạo càng cần được phát huy cao độ.
1.2.4. Truyền thống đoàn kết
Do điều kiện tự nhiên mà con người Việt Nam vừa phải thích nghi, vừa phải
khai phá những tài nguyên và những mặt thuận lợi của thiên nhiên để mở mang, phát
triển kinh tế - xã hội. Mặt khác phải liên kết lại trong các cuộc đấu tranh nhằm khắc
phục những trở ngại của thiên nhiên, chống lại thiên tai. Chính nỗ lực chủ quan của
con người để khắc phục những khó khăn thông qua hoạt động thực tiễn đã rèn luyện
con người Việt Nam, đem lại cho họ những đức tính, những phẩm chất để tồn tại và
chiến thắng.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử chiến thắng oanh liệt chống giặc ngoại xâm, dân tộc
Việt Nam đã có hơn 12 thế kỷ kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống sự đô hộ của
ngoại bang với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng gian
khổ và anh dũng. Các cuộc kháng chiến diễn ra trong so sánh lực lượng rất chênh lệch,
trong hoàn cảnh chỉ có một số cơ sở vật chất tương đối nhỏ bé, đất không rộng, người
không đông, cuộc chiến đấu hết sức ác liệt. Do đó con đường sống và chiến thắng của
dân tộc ta là phải biết phát huy sức mạnh toàn dân tộc, sức mạnh vật chất và tinh thần
của dân tộc mà nhất là phải đoàn kết mới chiến thắng kẻ thù.
Tinh thần đoàn kết là một trong những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của
nhân dân ta, là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc ta từ xa xưa đến nay. Nhờ đó con
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam có được sức mạnh to lớn để đứng vững trước mọi
khó khăn, thử thách. Ý thức về tinh thần đoàn kết của người Việt Nam đã trở thành một
truyền thuyết - truyền thuyết về hai chữ “đồng bào”, truyền thuyết này phản ánh nhu cầu
và ước mong của người xưa về sự gắn bó giữa con người với nhau.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

21



Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Tinh thần đoàn kết của người Việt Nam, trước tiên được thể hiện trong gia đình,
trong cộng đồng làng xã, và hơn hết là trong toàn thể cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong gia đình, sức mạnh đoàn kết được thể hiện qua câu châm ngôn: “thuận vợ thuận
chồng tát bể đông cũng cạn”. Chính những quy tắc, những thể lệ về một mảnh ruộng
chung, về việc phải cùng nhau hợp tác trong lao động sản xuất, chống giặc ngoại xâm,
chống thiên tai mà tinh thần đoàn kết ngày càng được củng cố trong làng xã. Như học
giả Đào Duy Anh đã nhận xét: ở trong một làng người ta thấy những cuộc đoàn kết
nhỏ, như hội tụ văn gồm những người có chức tước khoa danh, Hội văn phả gồm
những người nho học mà không có phẩm hàm khoa mục gì, Hội võ phả gồm những
người quan võ, Hội đồng môn gồm tất cả các học trò của một thầy. Ngoài ra còn có vô
số các đoàn thể khác như: Hội mua bán, cách gắp thăm bày tỏ tiền úp bát mà lần lượt
góp tiền cho nhau trong việc khánh hỉ, cũng là những hội bách nghệ họp các thợ thủ
công đồng nghiệp, hội chủ bà họp các bà vái lễ phật, hội đồng quan họp những bà thổi
đồng thánh, hội chọi gà, chọi chim, xem như thế thì người nhà quê ta rất ham lập hội.
Tinh thần đoàn kết trong cộng đồng làng xã được mở rộng thành tinh thần đoàn
kết dân tộc và không ngừng được nâng cao trong quá trình dựng nước và giữ nước. Vì
vậy, dân tộc Việt Nam đã duy trì được sự hài hòa trong các quan hệ xã hội, làm hạn
chế phần nào tính vị kỷ, tạo được sức mạnh cho sự sinh tồn và chiến thắng ngoại xâm.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, nếu không tạo được sự đoàn kết nhất trí cao thì
nguy cơ mất nước, nhà tan sẽ xảy ra. Thất bại của nhà Hồ thế kỷ thứ XIV là một ví dụ
do không thống nhất được lòng dân, nên dù có thời cơ chuẩn bị lâu dài, vũ khí tân tiến
vẫn không bảo vệ được tổ quốc. Hoặc trong các thế kỷ XVI - XVII chiến tranh phân
chia Trịnh - Nguyễn, Nam - Bắc Triều là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy yếu của
đất nước, làm cho thực dân Pháp có cơ hội xâm lược nước nhà.
Chính nhờ có truyền thống đoàn kết mà chúng ta mới có được một dân tộc độc

lập như ngày nay. Xưa Nguyễn Trãi nói: “Chèo thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”
để chỉ sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Dân là gốc, là nền tảng của sự tồn tại và phát
triển của đất nước. Lúc sinh thời Bác Hồ từng nói: Dễ mười lần không dân cũng chịu,
khó trăm lần dân liệu cũng xong. Và: “Việc gì khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc
được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi” [18,

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

22


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

tr. 258]. Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn rằng: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ
quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ
gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969). Người còn khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công”, hay như câu: “Đoàn kết thì sống,
chia rẽ thì chết”... Đó không chỉ là một lời khuyên nhủ mà còn là phương châm, mục
đích của sự đoàn kết dân tộc, trở thành sức mạnh tinh thần và đặc trưng cho nhân cách
con người Việt Nam.
1.2.5. Truyền thống hiếu học
Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong những lời ru của mẹ:
“ Qua sông phải bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Câu hát ru đó đã thể hiện truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam
Truyền thống tôn sư trọng đạo là một nội dung trong học thuyết của Khổng Tử,
khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người Việt Nam. Học trò Việt

Nam luôn ghi nhớ: “Cơm cha, áo mẹ, nghĩa thầy”, “Mồng một tết cha, mồng hai tết
mẹ, mồng ba tết thầy”.
“Không thầy đố mày làm nên”, đó là một triết lý sống của người Việt Nam. Là
cây phải có gốc, là sông phải có nguồn, để trở thành một con người đúng nghĩa phải có
thầy. Nhớ công ơn thầy vừa là đạo lý, vừa là nét đẹp truyền thống uống nước nhớ
nguồn, tôn sư trọng đạo của người Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục, với truyền thống hiếu học,
tôn trọng hiền tài, nên ngay từ xưa, ông cha ta đã biết chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám là trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt
Nam được thành lập để đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại
Bảo thứ 3 năm 1442 ở Văn Miếu còn ghi: Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước,
nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy,
cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo cho việc gây dựng
nhân tài, bồi đắp nguyên khí.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

23


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về truyền thống hiếu học, người
luôn quam tâm và coi trọng giáo dục. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người cũng chỉ
phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”. Bác đã đặt hy vọng vào thế hệ trẻ mai sau, Bác nói: “Non sông ta có
trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các
cường quốc, năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn vào công học hành

của các em” (Thư gửi học sinh cả nước, tháng 9/ 1945).

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

24


Khóa luận tốt nghiệp

Gv: Chu Thị Diệp
CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
TRUYỀN THỐNG CHO THANH NIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thanh niên - tầng lớp xã hội đặc thù
Thanh niên là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách.
Tùy thuộc vào nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà người ta
đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai đoạn xác định
trong quá trình “tiến hóa” của cơ thể. Các nhà tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên
là một giai đoạn chuyển tiếp từ tuổi thơ phụ thuộc sang hoạt động độc lập với tư cách
là một công dân có trách nhiệm. Dưới góc độ kinh tế học, thanh niên được xem là một
lực lượng lao động xã hội, nguồn bổ sung cho đội ngũ lao động trên tất cả các lĩnh
vực. Với các triết gia, văn nghệ sĩ, thanh niên lại được định nghĩa bằng cách so sánh
với hình tượng: “thanh niên là mùa xuân của xã hội”, là “bình minh của cuộc đời”.
Cho đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “thanh niên”, tuy
nhiên lại chưa có bất kỳ một định nghĩa khoa học nào cho khái niệm này được giới
nghiên cứu chấp nhận rộng rãi như một khái niệm công cụ. Tùy thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, đặc điểm truyền thống, tuổi thọ trung bình v.v.. mà
mỗi quốc gia có quy định đội tuổi thanh niên khác nhau. Nhưng hầu hết các nước trên

thế giới đều thống nhất tuổi thanh niên bắt đầu từ 15 hoặc 16. Còn thanh niên kết thúc
ở tuổi nào thì có sự khác biệt. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi
và cũng có nước cho đó là tuổi 40 . Nhưng xu hướng chung là nâng dần giới hạn kết
thúc của tuổi thanh niên.
Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi chủ yếu
dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã hội so với các
nhóm lứa tuổi khác.
Trong các văn bản pháp lý Việt Nam hiện hành, thuật ngữ “thanh niên” cũng có
phạm vi điều chỉnh không thống nhất. Theo chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam
đến năm 2010 do thủ tướng chính phủ ký phê duyệt kèm theo quyết định số 70/2003/QĐ
- TTCP ngày 29/4/2003: “thanh niên Việt Nam là công dân trong độ tuổi từ 15 đến 34”.

Sv: Nguyễn Thị Ngọc Yến

25


×