Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497 KB, 74 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************

VŨ THỊ LAN

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
Th.s: Trần Thị Hồng Loan

HÀ NỘI – 2012

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Logic và lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người đã chứng minh
rằng trong quá trình phát triển kinh tế của nhân loại, quốc gia nào cũng phải
trải qua thời kì lâu dài có sự phát triển kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Và
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

sớm hay muộn thì các quốc gia đều đã đang và sẽ bước vào giai đoạn phát
triển kinh tế thị trường. Đây là một quy luật tất yếu đối với mọi quốc gia.
Thực tế cho thấy, trước đổi mới (Đại hội VI), Việt Nam đã duy trì nền
kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp và phủ định nền kinh tế thị trường, chúng
ta đã cho rằng kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Nhưng từ
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12/1986) chúng ta đã nhận ra sai lầm và sửa
đổi. Điều quan trọng nhất đó là chúng ta đã nhìn kinh tế thị trường là thành
tựu chung của nhân loại chứ không còn là của riêng chủ nghĩa tư bản. Vì vậy,
Đại hội này đã quyết định xóa bỏ mô hình kinh tế cũ và chuyển sang mô hình
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (Đại hội VI) và hoàn thiện nhận thức với
tên gọi kinh tế thị trường định hướng XHCN (Đại hội IX).
Trải qua hơn 20 năm đổi mới ở Việt Nam, kinh tế thị trường đã đem lại
những thành tựu đáng kể, đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tăng trưởng kinh
tế khá và tương đối ổn định. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế dần được
khẳng định khi Việt Nam là thành viên của các tổ chức kinh tế trên thế giới và
khu vực: WTO, ASEAN,…

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay vẫn tồn tại những hạn chế, khuyết tật mà chúng ta không thể
giải quyết ngay được. Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều, nhưng
một trong những nguyên nhân đó là: sự nhận thức và vận dụng những nội
dung của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn chưa sát với quan điểm toàn
diện- một quan điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN
DIỆN VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một đặc trưng của
Việt Nam trong thời kì quá độ. Vì vậy, có rất nhiều tác giả nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau về những vấn đề cơ bản của kinh tế thị trường. Dưới
đây là một số công trình tiêu biểu:
- “Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”
của tập thể tác giả do GS. TS Vũ Đình Bách và GS. TS Trần Minh Hạo đồng
chủ biên. Trong cuốn sách này tác giả đã đề cập đến đặc trưng của kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam và nêu ra những hạn chế còn tồn tại
của nền kinh tế. Từ đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp cho việc phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.

- “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” do PGS. TS Mai Ngọc Cường
chủ biên. Trong cuốn sách này tác giả đã phân tích sự khác nhau giữa kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và kinh tế thị trường TBCN. Từ đó
nêu ra những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
- Hội thảo lý luận giữa ĐCS Việt Nam và ĐCS Trung Quốc với chủ đề
“Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường- kinh nghiệm Trung Quốc và kinh
nghiệm Việt Nam” diễn ra 2 ngày 8, 9 tháng 10 năm 2003 tại thủ đô Bắc Kinh
(Trung Quốc). Hội thảo đã tổng kết kinh nghiệm của Việt Nam và Trung
Quốc về việc xây dựng CNXH và phát triển kinh tế thị trường. Từ những kinh

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

nghiệm đạt được Hội thảo đã đưa ra đề xuất để phát triển kinh tế thị trường
phù hợp với tình hình của mỗi nước.
Những công trình nghiên cứu trên đây là nguồn tài liệu tham khảo vô
cùng quí giá cho việc tìm hiểu đi sâu nghiên cứu các vấn đề về phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Các công trình đó đã đề cập đến các vấn đề
liên quan đến quá trình phát triển kinh tế thị trường nhưng chưa có công trình
nào đề cập một cách chuyên biệt về sự vận dụng quan điểm toàn diện của chủ
nghĩa Mác- Lênin vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận là làm rõ cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện
và nội dung của sự vận dụng quan điểm đó vào việc phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam; chỉ ra thực trạng sự vận dụng quan
điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
bước đầu đề xuất một số giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
dựa trên quan điểm toàn diện.
3.2. Nhiệm vụ
Đề tài sẽ lần lượt đi giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về quan điểm toàn diện, kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và nội dung của sự vận dụng quan
điểm toàn diện trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng vận dụng quan điểm toàn diện vào việc phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

- Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay dựa trên
quan điểm toàn diện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Kinh tế thị trường là lĩnh vực tương đối rộng. Tuy nhiên, trong phạm vi

nghiên cứu của khóa luận này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu, làm rõ quá
trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai
đoạn từ năm 1986 đến nay và việc vận dụng quan điểm toàn diện vào quá
trình phát triển kinh tế thị trường của đất nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài dựa trên quan điểm lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời đề tài cũng dựa trên các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh
tế thị trường để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Khóa luận còn sử dụng một phương pháp nghiên cứu chủ yếu như:
- Phương pháp hệ thống hóa.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê,…
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1.Ý nghĩa lý luận
Đề tài tiếp tục bổ sung, làm rõ, hoàn thiện thêm nội dung quan điểm toàn
diện. Từ đó tạo cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu sự vận dụng quan điểm toàn
diện vào việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
hiện nay.
6.2.Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng của việc phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, đề tài đã đưa ra một số giải pháp cơ
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp


Chuyên ngành triết học

bản có hệ thống và tính khả thi nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam trên cơ sở của quan điểm toàn diện.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương và 11 tiết.

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XHCN
1.1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến- cơ sở lý luận của quan điểm toàn
diện
1.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng ra đời ngay từ khi triết học ra đời có nghĩa là khoảng
từ thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ VI Tr.CN, PBC đã xuất hiện. Trong quá trình
phát triển, PBC có 3 hình thức cơ bản đó là: PBC chất phác thời cổ đại, PBC
duy tâm và PBC duy vật.
PBC duy vật là sự phát triển đỉnh cao của PBC, nó được xây dựng trên
cơ sở sự kế thừa có chọn lọc những ưu điểm và khắc phục hạn chế của những
PBC trước đó. PBC duy vật bao gồm một hệ thống những nguyên lý, những

phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn hiện thực. Đó là
hai nguyên lý (nguyên lý mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển),
ba quy luật (quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập; quy luật phủ định của phủ định), và sáu cặp phạm trù (cái chung và
cái riêng; nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên; nội dung và hình
thức; bản chất và hiện tượng; khả năng và hiện thực). Trong đó, nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát
nhất trong PBC duy vật. Tuy nhiên, trong phạm vi khóa luận, chúng tôi chỉ đi
sâu tìm hiểu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến- cơ sở xây dựng quan điểm
toàn diện.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, các câu hỏi được đặt ra là:

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

Thứ nhất: các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế
giới có mối liên hệ tác động qua lại hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Thứ hai: nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên
hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những câu hỏi trên có nhiều quan
điểm khác nhau.
Trả lời cho câu hỏi thứ nhất: những người theo quan điểm siêu hình

cho rằng, các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại
bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và
quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là
những quy định bên ngoài mang tính ngẫu nhiên. Tuy vậy, trong số những
người theo quan điểm siêu hình cũng có một số người cho rằng, các sự vật,
hiện tượng có mối liên với nhau và mối liên hệ rất đa dạng phong phú song
các hình thức liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
Chẳng hạn: “Giới vô cơ và hữu cơ không có liên hệ gì với nhau; tồn tại độc
lập, không thâm nhập lẫn nhau; tổng số đơn giản của những con người riêng
lẻ tạo thành xã hội, đứng yên không vận động…” [2,tr. 208]
Trái lại những người theo quan điểm biện chứng lại cho rằng, các sự
vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, sự gia tăng về dân số sẽ tác
động trực tiếp đến kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế… không chỉ trong một nước
mà trên toàn thế giới; và ngược lại, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, giáo
dục, y tế,… của mỗi nước cũng sẽ có sự ảnh hưởng, tác động trở lại tốc độ gia
tăng dân số của nước đó.
Trả lời cho câu hỏi thứ hai: những người theo CNDT khách quan và
CNDT chủ quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật hiện tượng, là một lực lượng siêu tự nhiên (như Thượng đế, ý
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

niệm tuyệt đối hay ở ý thức, cảm giác của con người). Đứng trên quan điểm

duy tâm chủ quan, Bécơli cho rằng cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa
các sự vật, hiện tượng. Hêghen xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan
lại cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật,
hiện tượng.
Những người theo quan điểm DVBC khẳng định tính thống nhất vật
chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự
vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau
bao nhiêu, song chúng đều chỉ là dạng khác nhau của một thế giới duy nhất,
thống nhất- thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn
tại biệt lập, tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học DVBC
khẳng định rằng: “Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định,
sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật, một
hiện tượng trong thế giới” [2, tr. 210]
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình
thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật
của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các
mặt của bản thân chúng hay sự tác động của bản thân chúng với sự vật, hiện
tượng khác. Chúng ta cũng chỉ có thể đánh giá sự tồn tại cũng như bản chất
của con người cụ thể thông qua hoạt động của chính người ấy. Ngay trong
chính tri thức của con người cũng chỉ có giá trị khi chúng được con người vận
dụng vào cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính con người.
Các tính chất của mối liên hệ
Mọi mối liên hệ của sự vật, hiện tượng đều bao gồm những tính chất sau:
-Tính khách quan:

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD



Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

Mọi mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, vốn có của sự
vật, hiện tượng. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng đang hàng ngày, hàng
giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ,
độ ẩm, áp suất,…). Con người- một sinh vật phát triển cao nhất trong giới tự
nhiên, dù muốn hay không, cũng luôn bị tác động bởi các sự vật, hiện tượng
khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân mình. Ngoài ra, con người còn
chịu sự tác động của xã hội và của những người khác, chính con người và chỉ
có con người mới tiếp nhận vô vàn quan hệ, mối liên hệ chằng chịt. Vấn đề là
con người phải hiểu biết các mối liên hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của
mình để giải quyết các mối liên hệ phù hợp với nhu cầu, lợi ích của xã hội và
của bản thân con người.
- Tính phổ biến:
Mối liên hệ không chỉ mang tính khách quan mà còn mang tính phổ
biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện:
Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện
tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Trong
thời đại ngày nay không một quốc gia nào không có quan hệ, không có liên hệ
với quốc gia khác về mọi mặt đời sống xã hội. Chính vì thế hiện nay trên thế
giới đã và đang xuất hiện xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mọi mặt đời
sống xã hội. Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề toàn cầu như: đói
nghèo, dịch bệnh, môi trường sinh thái, dân số, chiến tranh.
Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Những hình thức liên hệ
riêng rẽ, cụ thể được các nhà khoa học nghiên cứu. PBC duy vật chỉ nghiên

cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế Ăngghen

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” [3, tr. 455]. Cùng với lí
do trên triết học gọi những mối liên hệ là mối liên hệ phổ biến.
- Tính đa dạng:
Nghiên cứu các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
còn thấy rõ tính đa dạng, nhiều vẻ của nó. Dựa vào tính đa dạng của nó có thể
phân chia ra các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: mối liên hệ bên trong
và mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên
hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ tất nhiên và mối liên
hệ ngẫu nhiên. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát
triển của bản thân sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ.
Có thể khái quát mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong các cặp
phạm trù cơ bản của PBC:
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Mối liên hệ giữa cái tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận

động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển
hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên
hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, mối
liên hệ này nói chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, sự vận
động và sự phát triển của sự vật hiện tượng. Nó thường phải thông qua mối
liên hệ bên trong mới có thể tác động đối với sự tồn tại, sự vận động và sự

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

phát triển của sự vật. Chẳng hạn sự lĩnh hội tri thức của người học trước hết
và chủ yếu được quyết định bởi chính người đó (trình độ, năng lực, tâm
lý,…), sự tác động bên ngoài (nghệ thuật truyền thụ tri thức, cơ sở vật
chất,…) dù có tốt có đầy đủ bao nhiêu đi chăng nữa mà người học “nghe tai
này, ra tai kia” thì người đó không bao giờ lĩnh hội được tri thức. Song nếu
không có sự tác động từ bên ngoài bằng cách này hay cách khác thì người đó
cũng không có tri thức hoặc không lĩnh hội đầy đủ tri thức, đặc biệt là những
tri thức khoa học được tiếp cận lần đầu tiên.
Các cặp mối quan hệ khác cũng có quan hệ biện chứng giống như mối
quan hệ biện chứng của cặp mối liên hệ đã nêu trên. Đương nhiên mỗi cặp
mối liên hệ có đặc trưng riêng.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại

mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy
theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển
của chính các sự vật.
Mặc dù sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính tương
đối, nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị
trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật. Con người
phải nắm bắt được đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho các hoạt động của mình.
1.1.2. Một số nguyên tắc phƣơng pháp luận rút ra từ nguyên lý mối liên
hệ phổ biến
1.1.2.1 Quan điểm toàn diện
Bất kì sự vật, hiện tượng nào trong thế giới cũng đều có mói liên hệ với
các hiện tượng khác và mối quan hệ rất đa dạng, phong phú. Do đó, khi nhận
thức về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

điểm phiến diện chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một mối liên hệ đã vội kết
luận về bản chất hay tính quy luật của chúng.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm toàn diện, trong hoạt động nhận thức
cũng như thực tiễn chúng ta cần thực hiện những yêu cầu sau:
Thứ nhất: quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các mặt của chính

sự vật đó và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác, kể cả
mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể nhận
thức đúng về sự vật như Lênin đã từng nói “muốn thực sự hiểu được sự vật
cần nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan
hệ gián tiếp của sự vật đó” [11, tr. 26]. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và
đầy đủ tri thức của khoa học triết học, chúng ta phải tìm ra mối liên hệ của
triết học với các khoa học khác. Một trong những nguyên nhân làm cho người
học không nắm vững tri thức triết học chính là do người học không biết liên
hệ với tri thức của các khoa học khác.
Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ tất nhiên,… để hiểu rõ
bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong hoạt động của bản thân. Chúng ta phải nhìn nhận mọi mặt,
mọi mối liên hệ. Và biết đánh giá những mối liên hệ quan trọng, chủ yếu để
có phương pháp tác động phù hợp. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cũng cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên
hệ ở những điều kiện xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người,
chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan
hệ với một con người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học


khác nhau chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như
ông cha ta đã kết luận: “đối nhân, xử thế”.
Thứ ba, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta tránh rơi vào sai lầm của
chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung
là sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng
về sự vật. Thực chất của thuật ngụy biện là “thay đổi” có dụng ý, biến cái
không cơ bản thành cái cơ bản, biến cái không bản chất thành cái bản chất,…
hoặc ngược lại. Những quan điểm trên đã phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật,
hiện tượng. Do đó, trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện khi tác
động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội
tại của nó mà còn phải chú ý tới mối liên hệ của sự vật ấy với sự vật khác.
Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các
phương tiện khác để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
1.1.2.2. Nguyên tắc lịch sử- cụ thể
Ngoài quan điểm toàn diện, nguyên lý mối liên hệ phổ biến còn mang
lại cho chúng ta nguyên tắc lịch sử cụ thể.
Nguyên tắc tính lịch sử cụ thể có nghĩa là trong những điều kiện hoàn
cảnh nhất định thì mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau.
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật hoặc
tác động vào sự vật phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển. Một luận điểm nào
đó sẽ là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ không phải là luận
điểm khoa học trong điều kiện khác.
Như vậy, khi tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến chúng ta rút ra quan
điểm toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể. Đây là hai nguyên tắc có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên
trong phạm vi bài nghiên cứu của khóa luận, chúng ta chỉ đi sâu tìm hiểu việc

Vũ Thị Lan


Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

vận dụng quan điểm toàn diện trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN ở Việt Nam
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường, thông qua trao đổi và mua bán.
Logic và lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người cho thấy rằng
trong quá trình phát triển, tiến hóa về kinh tế của nhân loại, quốc gia nào cũng
phải trải qua một thời kì dài phát triển kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Và sớm
hay muộn khác nhau nhưng quốc gia nào cũng đã đang và sẽ bước vào giai
đoạn phát triển kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của sản xuất hàng hóa là
kinh tế thị trường.
Trên cở sở nghiên cứu sâu sắc lí luận, tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã
tiến hành công cuộc đổi mới đất nước trên mọi lĩnh vực, trong đó có kinh tế.
Chủ trương đổi mới đất nước bắt đầu từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Từ đây nền kinh tế chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ở nước ta có đầy đủ cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh
tế thị trường:
- Phân công lao động xã hội: Sự phát triển của phân công lao động xã
hội thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản
phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.

- Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp.
- Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và lợi ích riêng. Mặt
khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật- công nghệ,
trình độ tổ chức quản lí nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản sản xuất cũng
khác nhau.
- Quan hệ hàng hóa – tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối
ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển
ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở
hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới.
Hơn nữa, nước ta đang trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật
cho CNXH, cần phải phát triển nhanh lực lượng sản xuất, mà chỉ có kinh tế
hàng hóa mới tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thực tế đã chứng minh những tác động to lớn của kinh tế thị trường
như: kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, thúc đẩy sự phân
công lao động và chuyên môn hóa sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu người tiêu dùng. Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời sản xuất lớn, xã hội hóa
cao. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng tồn tại nhiều hạn chế. Chúng ta dễ

nhận thấy điều đó trong nền kinh tế ở các nước TBCN. Mặc dù đạt nhiều
thành tựu trong phát triển kinh tế nhưng mô hình kinh tế thị trường cũng làm
gia tăng tình trạng bất bình đẳng trong xã hội, phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã
hội, ô nhiễm môi trường,…
Vì vậy để bước đi ngắn nhất và hiệu quả nhất phù hợp với xu thế chung
của nhân loại thì phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là tất yếu ở
Việt Nam.
1.2.2. Đặc trƣng của kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực chất là
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm
nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó
là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố mới đang vận động,
đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó nhóm thứ nhất
đóng vai trò “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả;
nhóm thứ hai đóng vai trò “hướng dẫn” , “chế định” sự vận động của nền kinh
tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế
những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội. Có

thể thấy rằng, kinh tế thị trường ở nước ta vừa mang những đặc trưng chung
của kinh tế thị trường vừa mang những nét đặc thù, đó là tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường không phủ
nhận các quy luật kinh tế mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế
thị trường ở nước ta với các nước khác. Tính định hướng của nền kinh tế nước
ta thể hiện ở những đặc trưng sau:
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất hoạt động gắn liền với xây dựng quan hệ sản
xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, quản lý tổ chức sản
xuất và phân phối sản phẩm nhằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực
trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội,
cải thiện từng bước đời sống nhân dân.

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

Kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ phát triển theo hướng còn
tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở
hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành

phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường,
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh,…; giá cả do thị trường
quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn
lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh đó còn có
sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của thị trường theo nguyên tắc kết
hợp kế hoạch với thị trường. Nhằm đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng ổn định,
đạt hiệu quả cao, đặc biệt là bảo đảm công bằng xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện đa dạng hóa các hình
thức phân phối “thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác
thông qua phúc lợi xã hội”. [6, tr. 77- 78]. Trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Sự khác biệt cơ bản
giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động.
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học


Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu.
Vì thế, phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu
trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường nước ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, làm
cho chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống tinh thần của nhân dân. Có những nước đặt vấn đề tăng trưởng kinh
tế trước, giải quyết công bằng xã hội sau. Có những nước lại muốn dựa vào
viện trợ và vay nợ nước ngoài để cải thiện đời sống nhân dân rồi sau đó mới
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân
dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích
làm giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
1.3. Nội dung của sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc phát
triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN ở Việt Nam
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), nền kinh tế nước
ta vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp. Cơ chế này có đem lại
hiệu quả nhưng càng về sau nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, hạn chế.
Hậu quả đã làm cho đất nước ta lâm vào khủng hoảng vào những năm 80, 90
của thế kỷ XX.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận thức lại và thực hiện chủ trương
đổi mới tại Đại hội VI. Với chủ trương đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực trong
đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Đại hội đã kiên quyết xóa bỏ nền kinh
tế theo cơ chế cũ và áp dụng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành có

Vũ Thị Lan


Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

sự quản lý của nhà nước. Sau đó, ở những kỳ đại hội sau, Đảng ta tiếp tục
hoàn thiện nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta vẫn tồn
tại nhiều hạn chế. Quan điểm toàn diện sẽ vận dụng vào xem xét kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta trên những phương diện sau:
1.3.1. Về chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Để đạt được mục tiêu đã đề ra của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh”. Đảng và Nhà nước kết hợp chặt chẽ và đồng bộ các chính sách một
cách phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Các chính sách đó bao gồm:
chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách phát triển,…
Thứ nhất, về chính sách tài chính: trong đó đặc biệt là ngân sách nhà
nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã
hội. Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước
điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo đảm
công bằng trong phân phối và thực hiện chức năng của mình. Nội dung của
ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và các khoản chi. Bộ phận chủ
yếu của các khoản thu là thuế. Các chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo
nguồn thu cho ngân sách mà còn khuyến khích điều tiết và tiêu dùng. Cụ thể
là từ khi đổi mới Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách giúp
tăng nguồn thu như Sửa đổi luật đất đai (1987), mở cửa cho xuất khẩu các
loại nông sản đặc biệt là gạo, ban hành Luật Đầu tư nước ngoài trực tiếp, bãi
bỏ nhiều loại giấy phép xuất khẩu và quản lý bằng chế độ hạn ngạch, ban

hành Luật công ty, cho phép các công ty tư nhân được trực tiếp xuất, nhập
khẩu,… Chính nhờ những pháp cụ thể trên mà nền kinh tế đã có những kết
quả khả quan. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990 Việt Nam trở thành nước
xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới, lạm phát phi mã kiềm chế và kiểm

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

soát; năm 1990, GDP tăng trưởng 8,3%, vốn FDI đăng kí đạt hơn 1 tỷ
USD,…
Thứ hai, về chính sách tiền tệ: là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu,
vai trò của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát
triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phải khống
chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách
tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung cầu tiền tệ.
Việc thắt chặt nới lỏng cung ứng tiền tệ, kìm chế lạm phát thông qua hoạt
động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Nhận thức
được tầm quan trọng này của chính sách tiền tệ, trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách cụ thể trong đó phải kể đến: thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp,
xóa bỏ chế độ hai giá, thống nhất hệ thống tỷ giá và thực hiện chế độ lãi xuất
dương để chống lạm phát; thông qua pháp lệnh về ngân hàng Nhà nước, pháp
lệnh về các ngân hàng Thương mại và các Tổ chức tín dụng (giai đoạn 19881990),… Kết quả đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho những
giai đoạn tiếp theo.

Thứ ba, Về chính sách phát triển: Trước đổi mới, nhà nước luôn làm
thay vai trò của thị trường từ khâu sản xuất đến phân phối sản phẩm. Nền sản
xuất được duy trì theo cơ chế kế hoạch hóa. Vì vậy, mà làm cho nền kinh tế
nước ta trì trệ, kém hiệu quả. Nhận thức được điều này, từ sau đổi mới, nhà
nước chỉ thực hiện chính sách quản lý kinh tế nói chung và thị trường ở tầm
vĩ mô. Định hướng sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng các chiến
lược, cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng quy luật của thị trường. Cụ thể là
tại Đại hội VI (1986) đã đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng
việc đề ra đường lối đổi mới, trong đó phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp, thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hóa
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước”. Tiếp tục hoàn thiện tư duy về kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, tại Đại hội Đảng VII, thông qua “Cương lĩnh đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh đã khẳng định đường lối “ phát
triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN,
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo… Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Đồng thời
nhà nước cũng tạo môi trường pháp lý và những điều kiện thuận lợi để phát
huy hiệu quả các nguồn lực xã hội cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhà nước
còn hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng hệ thống kết cấu, hạ tầng kinh tế xã

hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội. Nếu như trước đổi mới, chúng ta chỉ
thừa nhận sự tồn tại của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể thì sau đổi mới,
Đảng đã có cái nhìn toàn diện hơn. Để phát triển hiệu quả cho nền kinh tế thị
trường, nhà nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế với
những hình thức sở hữu khác nhau. Hiến pháp năm 1992 thừa nhận nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, ban hành Luật doanh nghiệp và đưa vào áp
dụng năm 2000 đã giúp khu vực kinh tế tư nhân thoát khỏi nhiều ràng buộc
thủ hành chính bất hợp lý, tạo ra sự bùng nổ phát triển trong nền kinh tế.
Cùng với đó khu vực kinh tế Nhà nước cũng được chú trọng phát triển để
xứng đáng với vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Như việc Thí điểm cổ phần
hóa doanh nghiệp Nhà nước (1992), ban hành Luật doanh nghiệp Nhà
nước,… đã có những kết quả bước đầu. Ngoài ra Nhà nước còn ban hành một
số chính sách khác nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển như chính sách “kích cầu
đầu tư” (1988) đã khắc phục tình trạng suy giảm tăng trưởng kinh tế ở nước ta
do ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế trước đó trên thế giới.

Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học

1.3.2. Về điều kiện tồn tại và phát triển của kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua
thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau

chúng khác nhau về trình độ phát triển song về cơ bản chúng có cùng nguồn
gốc và cùng bản chất.
Kinh tế hàng hóa ra đời dựa trên những điều kiện khách quan của nó
đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động trong xã hội.
Vì vậy kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ra đời dựa trên những
điều kiện khách quan sau:
Thứ nhất, đó là sự phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở
chung của sản xuất hàng hóa chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu
vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công
lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng về chất lượng ngày càng
cao của sản phẩm đưa ra trên thị trường.
Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu,
đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở
hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ
thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể
thực hiện bằng quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Và thực hiện thông qua thị trường.
1.3.3. Về các nhân tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN
1.3.3.1. Chủ thể của kinh tế thị trường định hướng XHCN
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước. Vì sở hữu trong nền
Vũ Thị Lan

Lớp 34A- GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Chuyên ngành triết học


kinh tế đa dạng (sở hữu toàn dân, sở tập thể, sở hữu tư nhân) nên chủ thể của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng hết sức phong phú. Chủ thể
của nền kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là tất cả mọi công dân Việt
Nam, là chủ sở hữu các tài sản hợp pháp được nhà nước bảo hộ, nằm trong
các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các chủ thể này
đều được nhà nước bảo vệ quyền lợi và bình đẳng trước pháp luật. Trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo để phù hợp với tính định hướng XHCN
của nền kinh tế.
Trong quá trình phát triển, chủ thể của kinh tế thị trường ở nước ta
không ngừng tăng cả về số lượng và trình độ. Vì vậy để đảm bảo cho các chủ
thể của nền kinh tế thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình đòi hỏi nhà
nước phải có các chính sách sát sao và nghiêm khắc hơn.
1.3.3.2. Các nguồn vốn cho kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN
Vốn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo
ra, tích lũy và những yếu tố tự nhiên,… được sử dụng vào quá trình sản xuất.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, vốn là yếu tố không thể thiếu trong quá
trình phát triển kinh tế và tạo tiền đề cho công nghiệp hóa.
Vốn hiện có của nền kinh tế chưa đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn
của các chủ thể kinh tế. Vì vậy, cần phải có chính sách huy động vốn phù
hợp. Vốn được huy động theo hai nguồn chính đó là vốn trong nước và vốn
đầu tư nước ngoài.
* Vốn trong nƣớc: nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của
nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực dân cư các tổ chức kinh tế,
các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào trình tái sản
xuất của xã hội. Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi
hoạt động đầu tư phát triển trong nước.
Vũ Thị Lan


Lớp 34A- GDCD


×