Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạn môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (893.03 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP
----------  ----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009- 2013
Đề tài:

HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VỀ TỘI PHẠN MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn:
CN. LÊ QUỲNH PHƯƠNG THANH

Sinh viên thực hiện:
NGÔ THANH TOÀN
MSSV: 5095667
LỚP: Luật tư pháp 2- K35

Cần Thơ, năm 2012


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại trường, tác giả đã lĩnh hội
được nhiều kiến thức chuyên sâu về ngành Luật, làm nền tảng cho
công việc trong tương lai. Trong quá trình học tập, tác giả luôn
được tìm hiểu, nghiên cứu và kiểm tra các kiến thức về pháp luật
song cơ hội để nghiên cứu một chuyên sâu và tổng hợp kiến thức


pháp luật một cách toàn diện không nhiều. Thực hiện khóa luận tốt
nghiệp thật sự là một cơ hội tốt để bản thân tác giả có thể tổng hợp
lại phần lớn kiến thức đã học, đặc biệt là kiến thức chuyên nghành
Luật hình sự.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tác giả xin được bài
tỏ lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu cùng các Thầy Cô
Khoa luật- Trường Đại học Cần Thơ đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành khóa
luận. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời biết ơn đến giáo viên hướng dẫn
Cô Lê Quỳnh Phương Thanh đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ và tạo
điều kiện tốt cho tác giả hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.
Xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè lớp Luật tư pháp 2 K35 đã động viên
và hỗ trợ trong lúc tác giả gặp khó khăn.
Vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về môi trường bằng biện
pháp biện pháp hình sự là vấn đề hết sức phức tạp cả về mặt xây
dựng pháp luật lẫn đưa vào thực tiễn áp dụng trong khi nhận thức
pháp luật của bản thân tác giả cũng chưa toàn diện nên có thể có
một số nội dung đưa ra trong khóa luận chưa thật sự đạt yêu cầu.
Rất mong sự đóng góp nhiệt tình của quý thầy, cô và bạn bè để tác
giả có thể hoàn thiện hơn đề tài này cũng như nhận thức bản thân.
Xin chân thành cảm ơn!

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

1

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG VÀ YÊU CẦU BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .................................... 1
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................................................... 1
1.1.1. Môi trƣờng và vi phạm pháp luật về môi trƣờng ........................................ 1
1.1.1.1. Môi trường, chức năng môi trường ......................................................... 1
1.1.1.2. Vi phạm pháp luật môi trường ................................................................ 3
1.1.1.3. Yêu cầu bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự .............................. 6
1.1.2. Tội phạm môi trƣờng ...................................................................................... 8
.................................................................................................................................................................................................................

1.1.2.1. Khái niệm Tội phạm môi trường ............................................................. 8
1.1.2.2. Đặc điểm của tội phạm môi trường ...................................................... 10
1.1.3. Luật hình sự về môi trƣờng và mối quan hệ với các ngành luật khác ..... 13
1.2. VẤN ĐỀ TỘI PHẠM HÓA MỘT SỐ HÀNH VI XÂM HẠI MÔI TRƢỜNG
HIỆN NAY ................................................................................................................... 16

CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG ................................................................... 19
2.1. DẤU HIỆU PHÁP LÝ CHUNG .......................................................................... 19
2.1.1. Khách thể ....................................................................................................... 19
...........................................................................................................................................
2.1.2. Mặc khách quan ............................................................................................ 20
2.1.3. Mặt chủ quan ................................................................................................. 23
2.1.4. Mặt chủ thể .................................................................................................... 24
2.2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ................................................................................. 24
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh


2

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
2.3. CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ ............................................................................. 26
2.3.1. Tội gây ô nhiễm môi trƣờng (Điều 182) ..................................................... 26
2.3.2. Các tội phạm về chất thải: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải
(Điều 182a) và Tội đƣa chất thải vào Việt Nam (Điều 185) ..................................... 28
2.3.3. Tội vi phạm các quy định về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trƣờng
(Điều 182b) ................................................................................................................... 31
2.3.4. Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho ngƣời (Điều 186) và Tội làm lây
lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187) ................................... 33
2.3.5. Tội hủy hại nguồn lợi thủy sản (Điều 188) và Tội hủy hại rừng
(Điều 189................................................................................................................... 34
2.3.6. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp,
quý, hiếm, đƣợc ƣu tiên bảo vệ (Điều 190) ................................................................ 36
2.3.7. Tội vi phạm quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191) ..... 38
2.3.8. Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều 191a) .............. 39

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG XỬ LÝ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG .................. 41
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀO XỬ LÝ TỘI
PHẠM MÔI TRƢỜNG ............................................................................................... 41
3.1.1. Thực trạng xử lý tội phạm môi trƣờng ...................................................... 41
3.1.1.1. Kết quả đạt được trong công tác xử lý tội phạm môi trường ................ 41
3.1.1.2. Hạn chế của việc áp dụng pháp luật hình sự vào xử lý tội phạm môi
trường ........................................................................................................................... 43

3.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật hình sự
vào xử lý tội phạm môi trƣờng ................................................................................... 46
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI PHẠM MÔI
TRƢỜNG ..................................................................................................................... 54

KẾT LUẬN ................................................................................................ 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

3

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

LBVMT

Luật bảo vệ môi trường


TNHS

Trách nhiệm hình sự

TPMT

Tội phạm môi trường

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

4

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, thế giới đang đứng trước sự đe dọa của ô nhiễm nguồn nước, ô
nhiễm không khí, hiệu ứng nhà kính, nạn hủy hoại tài nguyên thiên nhiên, rung lên hồi
chuông cảnh báo về an toàn sự sống của con người và sinh vật khác trên trái đất. Cũng
như nhiều quốc gia khác trên thế giới, môi trường nước ta ngày càng ô nhiễm nghiêm
trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới chất lượng cuộc sống con người. Nhận thức được vai
trò quan trọng của môi trường đối với con người và sự suy giảm trầm trọng chức năng
môi trường trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự quan tâm
đúng mực thông qua các chính sách về pháp luật, xã hội. Nghị quyết số 41-NQ/TW
ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/01/2009

của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị; Luật
Bảo vệ môi trường 2005; Nghị định hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường…
bước đầu đã tạo được những chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường.
Ngày 21/12/1999 Quốc hội đã thông qua BLHS (Bộ luật hình sự) năm 1999 (có hiệu
lực từ ngày 1/7/2000) xây dựng một chương riêng biệt quy định trách nhiệm hình sự
(TNHS) đối với những hành vi xâm hại môi trường có tính nguy hiểm cao. Sau 10
năm đi vào thực hiện, BLHS 1999 đem lại một số hiệu quả nhất định trong việc xử lý,
đấu tranh phòng chống tội phạm môi trường (TPMT) song các hành vi xâm hại môi
trường biến đổi không ngừng khiến cho BLHS không phát huy tác dụng một cách triệt
để, vi phạm pháp luật về môi trường vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Trước đòi hỏi
phải sửa đổi BLHS năm 1999, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 (có hiệu lực ngày 01/01/2010), hoàn thiện
hơn các quy định của BLHS về TPMT. Mặc dù chỉ mới được áp dụng trên thực tế một
thời gian ngắn nhưng chế định TPMT trong BLHS lại tiếp tục thể hiện sự yếu kém
trong việc xử lý TPMT trong khi tình hình vi phạm pháp luật về môi trường ngày
càng gia tăng về số lượng lẫn tính đa dạng trong hành vi phạm tội. Trong giới hạn của
một quốc gia, chính sách hình sự thể hiện qua các quy định của BLHS đóng vai trò hết
sức quan trọng đối với vấn đề bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà việc hoàn thiện
pháp luật hình sự về tội phạm môi trường là một yêu cầu hết sức cấp thiết, đảm bảo
hiệu quả ngăn ngừa, loại bỏ các vi phạm pháp luật nghiêm trọng về môi trường. Xuất
phát từ yêu cầu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

5

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
tội phạm môi trường” để nghiên cứu nhằm đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện

hơn các quy định của BLHS năm 1999 về TPMT, tạo hiệu quả trong việc phòng chống
các hành vi xâm hại môi trường.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu hệ thống hóa một số nhận thức chung về
TPMT; nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng BLHS 1999 qua công tác đấu tranh
phòng, chống TPMT, qua đó xác định những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót và nguyên
nhân những thiếu sót đó. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về
TPMT cùng với xem xét, học hỏi kinh nghiệm trong pháp luật hình sự về môi trường
của một số quốc gia khác, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, tăng khả năng áp dụng
các quy định của BLHS về môi trường trên thực tiễn.
Để đạt được mục đích nêu trên, khi nghiên cứu đề tài, tác giả phải giải quyết
những nhiệm vụ sau: nghiên cứu những vấn đề chung, nhận thức cơ bản về TPMT;
nghiên cứu các quy định của BLHS 1999 về TPMT trong thời gian qua; đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện BLHS.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề chung và các quy định cụ thể về
TPMT trong pháp luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu thực trạng áp dụng BLHS 1999
về các tội phạm môi trường.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung phân tích những điểm mới và mặt hạn
chế của TPMT theo BLHS 1999 đã sửa đổi, bổ sung.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, đường lối chính sách của Đảng, các quy định của Nhà nước về các
tội phạm môi trường. Nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê, logic, so sánh để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu đề tài này đã có một số công trình và một số bài báo chuyên ngành
sau: “Tội phạm môi trường – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tiến sĩ Phạm Văn
Lợi, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2004; “Toàn cầu hóa và việc hoàn thiện các
quy định liên quan đến các tội phạm về môi trường”, PGS.TSKH Lê Văn Cảm; “Nhận

thức chung đối với tội phạm về môi trường và một số vấn đề liên quan”, Tiến sĩ Trần
Lê Hồng…

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

6

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội phạm môi trường một cách có hệ
thống, toàn diện sẽ củng cố nhận thức đầy đủ và khách quan hơn về các tội phạm môi
trường quy định trong BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Thông qua thực
tiễn áp dụng các quy định của BLHS tìm ra nguyên nhân, hạn chế, vướng mắc cần
khắc phục, từ đó đưa ra định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự về môi trường. Trên
cơ sở đó, tạo hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm môi
trường đẩy lùi vấn nạn ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh sinh thái.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm lời mở đầu, 3 chương và phần kết luận.
- Phần mở đầu giới thiệu về tính cấp thiết của đề tài, mục đích, phạm vi, phương
pháp, tình hình nghiên cứu và ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
- Phần nội dung bao gồm 3 chương:
+ Chương 1: Tội phạm môi trường và yêu cầu phải bảo vệ môi trường bằng pháp
luật hình sự.
+ Chương 2: Quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 về tội phạm
môi trường.
+ Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về xử lý
tội phạm môi trường.

- Phần kết luận: Tổng kết lại những nội dung chính của đề tài.

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

7

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường

CHƢƠNG 1
TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG VÀ YÊU CẦU BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM MÔI TRƢỜNG TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Môi trƣờng và vi phạm pháp luật về môi trƣờng
1.1.1.1. Môi trường, chức năng môi trường
Môi trường là yếu tố không thể thiếu trong đời sống của con người, chỉ tại đó
con người mới có thể tồn tại, lao động và hưởng thụ thành quả lao động của mình. Để
có thể nghiên cứu về tội phạm môi trường thì việc xác định thế nào là môi trường, các
yếu tố hình thành nên “môi trường” đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trên cơ sở
nghiên cứu một cách toàn diện các thành tố, chức năng và hiện trạng môi trường,
chúng ta có thể hoàn thiện được những quy định của pháp luật hình sự về môi trường,
đảm bảo áp dụng Luật hình sự phù hợp, có hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường.
Theo định nghĩa của UNESCO năm 1981 thì môi trường “là toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và hệ thống do con người tạo ra, những cái vô hình và những cái hữu
hình, trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên
thiên nhiên và nhân tạo để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Như vậy, môi trường

sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực
thể sinh vật là con người mà còn là khung cảnh cuộc sống, sự lao động và sự nghỉ
ngơi của con người”.
Với tư cách là một đạo luật chính điều chỉnh vấn đề giữ gìn và bảo vệ môi
trường trong pháp luật Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 (LBVMT 2005)
cũng đưa ra khái niệm về môi trường tại khoản 1 Điều 3: “Môi trường bao gồm các
yếu tố vật chất và tự nhiên bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
Mặc dù có rất nhiều quan điểm về khái niệm môi trường được đưa ra như vậy
nhưng tựu chung lại thì khái niệm môi trường với những đặc trưng cơ bản của nó là
không gian tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người, tác động đến sự tồn tại và phát
triển của con người cũng như các sinh vật khác. Đánh giá tác động của môi trường đến
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

8

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
đời sống con người là phải đánh giá tất cả các yếu tố môi trường mang nghĩa tự nhiên
và các yếu tố môi trường có tính xã hội như môi trường giáo dục, môi trường kinh tế…
Tuy nhiên, đối với việc bảo vệ môi trường trong pháp luật hình sự chúng ta chỉ đi sâu
nghiên cứu môi trường dưới khía cạnh môi trường tự nhiên. Các quy định trong Luật
hình sự Việt Nam cho thấy, vấn đề cốt yếu được đặt ra là bảo vệ các yếu tố tự nhiên
trong môi trường, đảm bảo sự an toàn cho hệ thống sinh thái môi trường, cung cấp cho
con người một môi trường sống tự nhiên trong sạch và bền vững nhất.
Bảo vệ môi trường tự nhiên nghĩa là bảo vệ các thành phần tự nhiên trong môi
trường . Các thành phần này vô cùng đa dạng, được quy định tại khoản 2 Điều 3
LBVMT 2005, bao gồm: đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh

thái hoặc các hình thức vật chất khác như khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên
nhiên, khu di tích văn hóa… Các thành phần này là những đối tượng trực tiếp có tác
động đến đời sống con người và cũng chính là những đối tượng để chủ thể hướng tới
khi thực hiện các hành vi xâm hại môi trường.
Môi trường cùng với các thành phần trọng yếu của nó đã trở thành những yếu tố
không thể thiếu trong quá trình tồn tại của con người cũng như các sinh vật khác. Chức
năng cơ bản của môi trường gắn liền với hoạt động sống của các sinh vật nói chung và
nhờ đó mà chúng có thể sống, lao động và thỏa mãn các nhu cầu của mình.
Chức năng thứ nhất cơ bản đầu tiên của môi trường là tạo nên không gian sống
của con người. Mỗi một con người để có thể tồn tại được thì cần phải có một không
gian sống tương ứng với các hoạt động của mình như: nhà ở, nơi sản xuất, nơi vui
chơi. Và trong không gian ấy các yếu tố về không khí, ánh sáng, nguồn nước phải
được đảm bảo thì con người mới hoạt động tốt được.
Chức năng thứ hai không kém phần quan trọng, môi trường là nơi chứa đựng
các nguồn tài nguyên mà con người có thể khai thác, phục vụ đời sống. Trong suốt
nhiều thập kỷ qua, môi trường tự nhiên cung cấp cho con người rừng để khai thác lấy
gỗ, nguồn nước với thủy lực để lam thủy điện, khoáng sản trong lòng đất để sản xuất
nhiên liệu… Nguồn tài nguyên có được từ môi trường đem lại lợi ích kinh tế cũng như
lợi ích về kỹ thuật, phục vụ đời sống của con người mỗi ngày.
Chức năng thứ ba môi trường phục vụ cho con người đó là khả năng tự xử lý
chất thải do con người tạo ra trong quá trình sống. Với hoạt động của hơn bảy tỷ người
trên trái đất thì mỗi ngày sẽ thải vào môi trường hàng ngàn tấn chất thải. Nhiệm vụ của
môi trường là thực hiện chức năng tiêu hủy lượng chất thải khổng lồ ấy thông qua quá
trình sinh địa hóa, tái tạo lại một môi trường sống sạch đẹp cho con người.

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

9

SVTH:Ngô Thanh Toàn



Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Chức năng thứ tư bảo vệ con người và sinh vật tránh khỏi những tác động bên
ngoài. Khi có một trong các yếu tố bên ngoài trái đất gây hại làm ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của các loài sinh vật sống trên trái đất, các yếu tố môi trường có
lợi sẽ bảo vệ con người tránh được những tác động tiêu cực đó.
Môi trường là nơi chứa đựng tất cả những vật chất tồn tại xung quanh con
người. Chính vì vậy mà môi trường thực hiện nhiệm vụ làm nơi lưu trữ, cung cấp
thông tin cho con người. Nghiên cứu những dạng vật chất tồn tại ở môi trường ta có
thể cập nhật được thông tin về lịch sử hình thành của trái đất; sự tiến hóa của các sinh
vật; sự phát triển của văn hóa loài người; hay các thông tin mang tính dự báo về các
hiểm họa có thể xảy ra với con người… Trên cơ sở đó, con người xây dựng cho mình
những kế hoạch, chương trình cụ thể để khai thác tài nguyên thiên một cách thích hợp,
hành động loại bỏ những hiểm họa, bảo tồn sự sống của con người và các sinh vật
khác…
Nói tóm lại chức năng cơ bản và tổng hợp của môi trường chính là đảm bảo
cho hoạt động sống của con người và các sinh vật khác thông qua hình thức phục vụ
và bảo vệ. Bảo vệ môi trường cũng có nghĩa là bảo vệ chính sự sống của chúng ta, đó
chính là trách nhiệm, là nghĩa vụ của mỗi một con người khi sinh ra, cần phải tạo được
một môi trường sạch đẹp không chỉ cho hiện tại mà còn cho cả các thế hệ tương lai.
1.1.1.2. Vi phạm pháp luật môi trường
Mặc dù môi trường có những vai trò vô cùng to lớn đối đời sống của con người
nhưng trên thực tế con người với những hoạt động vi phạm quy tắc bảo vệ môi trường
đã gây nên những thiệt hại nặng nề cho môi trường. Ở Việt Nam những con sông lớn
dần bị suy thoái, giảm chức năng bởi lượng chất thải đổ ra sông quá lớn như: Thị Vải,
Thị Tính, Trà Khúc…Những khu rừng bạt ngàn đã bị thay thế bằng những khoảng đồi
trơ trụi. Các thành phố lớn bị sương mù bao quanh bởi ô nhiễm khói bụi từ các nhà
máy, từ khí thải của phương tiện giao thông. Môi trường sống của chúng ta đang bị đe
dọa nghiêm trọng vì ô nhiễm. Những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến môi trường như

vậy là những hành vi trái với chuẩn mực đạo đức đã được thừa nhận và là hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường.
Theo từ điển pháp luật thì vi phạm pháp luật là “hành vi trái pháp luật, có lỗi
của chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý xâm hại tới quan hệ được pháp luật bảo
vệ”. Vi phạm pháp luật môi trường được coi là một sự kiện pháp lý đặc biệt, đó là
hành vi (hành động hoặc không hành động) do các chủ thể pháp luật có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện (một cách cố ý hay vô ý) trái với các yêu cầu của quy phạm

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

10

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
pháp luật về môi trường, xâm hại tới các quan hệ diễn ra trong quá trình khai thác, sử
dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được pháp luật bảo vệ. Một hành vi bị coi là “vi
phạm pháp luật môi trường” khi có các dấu hiệu cơ bản: là hành vi, có tính trái pháp
luật môi trường, gây thiệt hại cho xã hội, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện.
Vi phạm pháp luật môi trường được thực hiện với nhiều dạng hành vi khác
nhau, mức độ xâm hại khác nhau và khách thể hướng tới cũng khác nhau. Dựa trên cơ
sở phân nhóm phân nhóm ngành luật của Việt Nam thì vi phạm pháp luật môi trường
có thể phân chia nhiều loại khác nhau như vi phạm pháp luật hành chính về môi
trường, vi phạm pháp luật dân sự về môi trường, vi phạm kỷ luật về môi trường hay vi
phạm pháp luật hình sự về môi trường. Việc phân chia các loại vi phạm pháp luật môi
trường một cách cụ thể làm cho việc giải quyết các vi phạm đúng đắn hơn bởi xuất
phát từ bản chất của hành vi vi phạm cùng với sự phân hóa mức độ nguy hiểm của
hành vi sẽ có những chế tài khác nhau để áp dụng.

Để có thể truy cứu TNHS một hành vi xâm hại tới môi trường thì việc phân biệt
rõ những hành vi xâm hại thuộc loại vi phạm pháp luật nào là rất quan trọng. Chỉ khi
xác định được chúng thuộc loại vi phạm nào thì mới có thể đưa ra đường lối xử lý
đúng đắn. Trong lĩnh vực môi trường, vi phạm pháp luật về dân sự chủ yếu là những vi
phạm ngoài hợp đồng về bồi thường thiệt hại do hành vi ô nhiễm môi trường gây ra.
Những vi phạm này xuất phát từ sự tự do thỏa thuận giữa các bên, nghĩa là bên vi
phạm đã không tôn trọng sự thỏa thuận hoặc không thực hiện đúng như thỏa thuận
giữa hai bên. Chính vì vậy mà các vi phạm này có thể giải quyết thông qua biện pháp
hòa giải, thỏa thuận. Do đó, chúng ta dễ phân biệt vi phạm pháp luật dân sự về môi
trường với các vi phạm khác như vi phạm hành chính hay hình sự về môi trường bởi
loại vi phạm này mang bản chất “tư”, không có thính quyền lực nhà nước.
Cùng là ngành luật mang tính quyền lực nhà nước nên ngành Luật hình sự và
ngành Luật hành chính cùng với những đặc trưng của nó có những nét khá tương đồng
nhau. Do đó, ranh giới giữa vi phạm hành chính và vi phạm hình sự về môi trường còn
chưa được rõ ràng. Việc phân định rõ ranh giới này là vô cùng quan trọng vì mỗi loại
vi phạm có mức độ nguy hiểm khác nhau, theo đó sẽ có sự phân hóa trách nhiệm pháp
lý khác nhau. Khi thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật về môi trường bất kể là vi
phạm hành chính hay hình sự thì chủ thể đó cũng phải chịu trách nhiệm trước nhà
nước. Song tùy thuộc vào bản chất của từng loại vi phạm mà chế tài áp dụng lại hoàn
toàn khác biệt.

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

11

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định 117/2009/NĐ-CP của Chính phủ

về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường thì “vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi phạm quy định về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hay vô ý
mà không phải là tội phạm mà theo quy định của Nghị định này phải bi xử phạt hành
chính”. Trong khi đó, một hành vi vi phạm pháp luật hình sự về môi trường hay còn
gọi là TPMT phải đảm bảo các điều kiện quy định tại Điều 8 BLHS năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009 “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất…”. Như vậy, để phân định ranh giới giữa vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường và TPMT cần căn cứ vào các tiêu chí là tính
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khách thể bị xâm hại và chủ thể thực hiện hành vi.
Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi hành chính là không đáng
kể và theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
2002 “chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự”. Ngược lại, hành vi vi phạm
pháp luật hình sự về môi trường lại là những hành vi có tính nguy hiểm cao nhất. Và vì
vi phạm pháp luật hình sự là hành vi nguy hiểm nhất cho nên loại vi phạm này phải
được ghi nhận trong BLHS – một đạo luật với những chế tài có tính răn đe nghiêm
khắc.
Thứ hai, so với TPMT thì vi phạm hành chính về môi trường có phạm vi khách
thể xâm hại rộng hơn rất nhiều, bao gồm tất cả những hành vi gây hại đến môi trường
được quy định trong văn bản pháp luật chuyên ngành môi trường Việt Nam. BLHS với
đặc thù là văn bản quy phạm pháp luật quy định những chế tài nghiêm khắc nhất sẽ chỉ
điều chỉnh những hành vi gây nguy hại cho những khách thể là các quan hệ xã hội
quan trọng. Do đó, khách thể xâm hại của TPMT có phạm vi hạn chế hơn so với vi
phạm hành chính về môi trường. Đồng thời hậu quả mà TPMT gây ra là những thiệt
hại nghiêm trọng cho xã hội như thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe của con
người, thiệt hại đến môi trường sinh thái.
Do chính sự xâm hại nguy hiểm và gây ra hậu quả nghiêm trọng nói trên mà
chủ thể thực hiện TPMT phải TNHS đối với hành vi của mình bằng những chế tài hết
sức nghiêm khắc. Người vi phạm sẽ bị kết án và có thể bị áp dụng hình phạt theo quy

định của pháp luật hình sự. Lúc này, chủ vi phạm sẽ bị coi là có án tích – dấu vết về án
hình sự của người bị tuyên là có tội. Trong khi đó, vi phạm hành chính về môi trường
chịu xử phạt hành chính tương ứng với luật chuyên ngành cụ thể về môi trường như
Nghị định 117/2009/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

12

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
hay Nghị định 99/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản… Hiển nhiên chủ thể này không bị coi là có án
tích sau khi bi xử phạt hành chính.
Thứ ba điểm phân biệt cuối cùng của hai loại vi phạm này là về chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm. Nếu vi phạm hành chính có thể thực hiện bởi cả tổ chức, pháp
nhân (gọi chung là pháp nhân) và cá nhân thì TPMT không ghi nhận việc pháp nhân
thực hiện hành vi xâm phạm môi trường. Pháp luật hình sự của Việt Nam chỉ truy cứu
TNHS đối với cá nhân thực hiện hành vi vi phạm.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể nhận thấy yếu tố quyết định và có ý
nghĩa sống còn cho việc phân định giữa TPMT và vi phạm pháp luật hành chính căn
cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Từ việc xác định tính nguy hiểm của
hành vi xâm hại môi trường dẫn đến có sự phân hóa về thiệt hại do hành vi gây ra cũng
như phân hóa về trách nhiệm pháp lý mà chủ thể thực hiện phải gánh chịu. Như vậy,
để có thể phân định một cách rõ ràng ranh giới giữa vi phạm hành chính trong lĩnh vực
môi trường và TPMT cần phải đánh giá đúng tính nguy hiểm của hành vi vi phạm. Và
để đánh giá hiệu quả tính nguy hiểm của hành vi thì pháp luật hình sự Việt Nam cần
phải xây dựng được các tiêu chí cụ thể, chính xác và khoa học dựa trên thực trạng thực
tế của môi trường Việt Nam. Những tiêu chí đánh giá cơ bản nhất phải được quy định

các cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể, đảm bảo tính khách quan, tính chính xác khi áp
dụng để truy cứu TNHS một hành vi nhất định. Có làm được điều đó thì quá trình tố
tụng hình sự mới chính xác, pháp luật được áp dụng phù hợp, đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.1.1.3. Yêu cầu bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự
Trong những năm gần đây, tình hình vi phạm pháp luật môi trường ngày càng
gia tăng, gây nên ô nhiễm nghiêm trọng cho các yếu tố cấu thành môi trường. Vấn nạn
này đặt ra yêu cầu phải bảo vệ môi trường bằng pháp luật hình sự để đảm bảo tính răn
đe, loại bỏ những hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường.
Theo thống kê tính đến tháng 6 năm 2012, trên cả nước có 334 khu chế xuất,
khu công nghiệp được phê duyệt thành lập trong đó có 232 khu công nghiệp đang hoạt
động. Chất thải ở các khu công nghiệp hầu hết được tháo đổ ra sông làm suy giảm
chức năng của nhiều con sông Thị Vải, Thị Tính, sông Sài Gòn – Đồng Nai, sông
Nhuệ - Đáy…Theo một con số thống kê, lượng nước thải công nghiệp đổ xuống sông
Thị Vải trong một ngày ước khoảng trên 33.000m3 , các doanh nghiệp sản xuất gạch
men thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có tổng tải lượng các chất ô nhiễm gồm các chất

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

13

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
hữu cơ, cặn lơ lửng…thải thẳng xuống sông Thị Vải khoảng hơn 4.000kg/ngày. Dọc
sông Thị Vải có hàng trăm nhà máy công nghiệp mỗi ngày thải ra sông thấp thì vài
trăm kilogam các chất ô nhiễm, còn mức trung bình thì mỗi ngày nhà máy cũng thải cả
nghìn kilogam các chất ô nhiễm/ngày.(1)
Tại các đô thị lớn nạn ô nhiễm không khí do khói bụi từ các phương tiện vận

chuyển, từ các nhà máy cũng trở thành vấn nạn về ô nhiễm môi trường. Thành phố Hồ
Chí Minh- địa phương tập trung đông dân cư và mật độ giao thông cũng như khu công
nghiệp, nhà máy cao nhất cả nước thì nồng độ bụi lơ lửng đo được ở các quận nội
thành đều vượt tiêu chuẩn 3 đến 4 lần. Khi quan trắc nồng độ benzen trong không khí
cho thấy nồng độ benzen thấp nhất là 8,2 microgram/m3 và cao nhất là 136,9
microgram/m3 trong khi nồng độ cho phép không được vượt quá 22 microgram/m3
(mức trung bình giờ) và 10 microgram/m3 (mức trung bình năm)(2). Môi trường ở nông
thôn không chịu sức ép từ khói bụi thì lại bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự lạm dụng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và nước thải từ làng nghề truyền thống. Nguồn nước
bị ô nhiễm phèn, nhiễm độc tố nguy hại, đất đai bị xói mòn trầm trọng, bệnh dịch
hoành hành ở các làng quê.
Nạn chặt phá rừng diễn ra tại nhiều địa bàn trên cả nước, chỉ tính riêng trong
năm 2010 đã có 1.553,68 ha rừng bị chặt phá làm độ che phủ rừng giảm đi 10% và đến
nay tổng độ che phủ rừng nguyên sinh của nước ta chỉ còn 39,5%(3) . Cùng với nạn
chặt phá rừng thì các hành vi xâm phạm đến động vật hoang dã quý, hiếm cũng gia
tăng. Thống kê từ năm 2005 đến 2010 tình trạng săn bắt, bẫy bắt, buôn bán động vật
hoang dã ngày càng tăng về số vụ vi phạm, điển hình: 7 cá thể voi bị giết ở khu vực
Đồng Nai, 1 cá thể tê giác 1 sừng ở vườn quốc gia Cát Tiên, trên 100 cá thể Vọoc chà
vá chân đen bị giết ở Tây Nguyên4.

1.Quốc Thanh: Báo động nguồn nước ô nhiễm, Báo tuổi trẻ, 2007, [26/9/2007]
2. Quốc Thanh: Ô nhiễm không khí: "Kẻ giết người thầm lặng", Báo Tuổi Trẻ, 2008, />
Xa-hoi/249134/O%C2%A0nhiem-khong-khi-Ke-giet-nguoi-tham-lang.html, ngày truy cập [25/3/2008].
3. Ngọc Cẩm: Nạn phá rừng và những hiểm họa khủng khiếp, Báo cao su Việt Nam, 2010,
ngày truy cập 23/11/2010]
4. Tổng cuc môi trường: Hội nghị Khoa học về Đa dạng sinh học: Các loài động vật hoang dã nguy cấp quý,
hiếm được ưu tiên bảo vệ, thực trạng và giải pháp bảo tồn ở Việt Nam />BB%81%C4%90ad%E1%BA%A1ngsinhh%E1%BB%8DcC%C3%A1clo%C3%A0i%C4%91%E1%BB%99ng
v%E1%BA%ADthoangd%C3%A3nguyc%E1%BA%A5pqu%C3%BD,hi%E1%BA%BFm%C4%91%C6%B0%
E1%BB%A3c%C6%B0uti%C3%AAnb%E1%BA%A3ov%E1%BB%87,th%E1%BB%B1ctr%E1%BA%A1ngv
%C3%A0gi%E1%BA%A3iph%C3%A1pb%E1%BA%A3ot%E1%BB%93n%E1%BB%9FVi%E1%BB%87tNa

m.aspx, [ngày truy cập22/11/2010]

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

14

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Từ những con số trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng tình hình vi phạm pháp
luật môi trường diễn ra hết sức nghiêm trọng và có dấu hiệu tăng đáng kể. Những vi
phạm này ẩn chứa mối nguy hại lớn cho sức khỏe của con người cùng các sinh vật
khác, cho sự bền vững của môi trường sinh thái, báo hiệu những thiệt hại nghiêm trọng
do thiên tai, dịch bệnh. Theo báo cáo của FAO (tổ chức lương thực thế giới), Việt Nam
là một trong năm quốc gia chịu sự ảnh hưởng nặng nề nhất từ thiên tai, đặc biệt là mưa
bão, lũ lụt do rừng bị tàn phá, khả năng ngăn chặn dòng chảy kém, lũ lụt tập trung
nhanh hơn. Trong năm 2009 tổng thiệt hại trong các đợt lũ của cả nước là 23.745 tỷ
đồng với 426 người chết, 28 người mất tích, 1.390 người bị thương cùng thiệt hại về
nhà cửa, hoa màu, tài sản và các công trình công cộng...(1)
Với sự xâm hại môi trường ngày càng gia tăng và những thiệt hại nghiêm trọng
cho môi trường sống, cho con người, cho động thực vật như vậy thì việc pháp luật phải
tham gia vào công tác bảo vệ môi trường là điều hết sức thiết yếu. Những hành vi xâm
hại về môi trường ngày càng trở nên tinh vi hơn và gây thiệt hại nghiêm trọng hơn, cho
nên Luật hình sự có vai trò là một đạo luật có tính răng đe cao nhất cần phải tham gia
vào công cuộc bảo vệ môi trường, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm có dấu hiệu
của tội phạm: có tính nguy hiểm cao, xâm phạm những khách thể quan trọng là môi
trường sống. Truy cứu TNHS cùng với việc áp dụng các hình phạt thích đáng sẽ là
biện pháp cưỡng chế nhà nước hữu hiệu nhằm ngăn chặn sự phát sinh của TPMT một
cách có hiệu quả.

1.1.2. Tội phạm môi trƣờng
1.1.2.1. Khái niệm Tội phạm môi trường
Luật hình sự Việt Nam đóng vai trò khá quan trọng trong công tác bảo vệ môi
trường bằng cách quy định những hành vi xâm hại là TPMT và áp dụng biện pháp
thích hợp để xử lý. Để hoàn thiện pháp luật hình sự về TPMT thì vấn đề tiên quyết là
phải xác định rõ khái niệm TPMT.
Các TPMT sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung đã được ghi nhận thành một chương
riêng trong BLHS 1999 – chương XVII. Thế nhưng không có một quy định nào trong
BLHS quy định cụ thể thế nào là TPMT. Việt xác định rõ vấn đề này là vô cùng quan
trọng dựa vào khái niệm này chúng ta có được cơ sở quan trọng trong việt quy định
các tội phạm cụ thể, đồng thời giải quyết đúng đắn TNHS đối với hành vi xâm phạm
môi trường. Bàn về vai trò của khái niệm tội phạm, Tiến sĩ Phạm Văn Beo khẳng định
1. Ái Kiều,Bộ Tài Nguyên Và Môi Trường: Việt Nam đứng thứ 4 trên bản đồ rủi ro,
/>Ngày
truy cập 24/5/2011]

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

15

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
“Nội dung của khái niệm tội phạm được xem là điều kiện cần thiết có tính chất nguyên
tắc để giới hạn giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác, giữa trách nhiệm hình
sự và trách nhiệm pháp lý khác”.(1 )Tuy nhiên, hiện nay khái niệm TPMT chỉ mới
được đề cập trong các nguyên cứu chuyên khảo của các nhà nghiên cứu chứ chưa được
luật hóa cụ thể.
Khái niệm TPMT được đề cập trong Giáo trình Luật hình sự của Đại học Luật

Hà Nội năm 2005 như sau: “Các tội phạm về môi trường là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội vi phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, qua đó gây thiệt
hại cho môi trường”(2).Khái niệm này khá ngắn gọn, xúc tích nhưng lại chưa thật sự
chính xác. Việc cho rằng TPMT là “hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm quy định
của nhà nước về bảo vệ môi trường” như trên là không hợp lý. Hành vi vi phạm quy
định về bảo vệ môi trường là những vi phạm pháp luật nói chung như vi phạm pháp
luật hình sự, vi phạm pháp luật hành chính hay vi phạm pháp luật dân sự. Chỉ trong
trường hợp hành vi vi phạm là vi phạm pháp luật hình sự thì mới trở thành “tội phạm”.
Như vậy khái niệm trên đã không xác định được vi phạm pháp luật có tư cách như
TPMT phải là vi phạm pháp luật hình sự, dẫn tới cách hiểu sai cho người đọc.
Ngoài ra, khách thể của TPMT được xác định trong khái niệm trên cũng không
chính xác, không phù hợp với nhận thức chung về khách thể tội phạm. Khách thể tội
phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Tuy
nhiên khái niệm trên lại cho rằng khách thể của TPMT là các “các quy định của Nhà
nước về bảo vệ môi trường”. Các quy định này chỉ là đối tượng mà thông qua việc vi
phạm các đối tượng này là chủ thể thực hiện xâm hại các quan hệ xã hội về bảo vệ môi
trường, khai thác tài nguyên chứ hoàn toàn không phải là khách thể mà tội phạm xâm
hại. Khách thể được đặt ra ở đây phải là các quan hệ xã hội trong quá trình sử dụng,
khai thác tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái.
Thêm vào đó, việc cho rằng TPMT phải “gây thiệt hại cho môi trường” cũng là
một nhược điểm của khái niệm TPMT trong Giáo trình Đại học Luật Hà Nội. Bởi lẽ,
yếu tố này sẽ làm cho người đọc liên tưởng rằng một hành vi nguy hiểm là TPMT
“phải là hành vi đem lại sự thiệt hại cho môi trường”. Cách hiểu như vậy vô hình
chung đã thừa nhận tất cả các CTTP của TPMT đều được xây dựng dưới dạng cấu
thành vật chất. Nhận thức này vừa không chính xác về lý luận vừa không phù hợp với
thực tiễn.
1. Tiến sĩ Phạm Văn Beo: Luật hình sự Việt Nam Quyển 1(phần chung), Nxb Chính Trị Quốc Gia Hà Nội, 2009,
tr.125
2. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập1, Nxb Công an nhân dân, năm 2005,
tr.133


GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

16

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Trong cuốn sách chuyên khảo “Tội phạm môi trường – một số vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Tiến sĩ Phạm Văn Lợi cho rằng: “Các tội phạm về môi trường là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định, xâm phạm đến các quan hệ
xã hội liên quan đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên thuận lợi, có chất lượng, đến việc
sử dụng hợp lý nguồng tài nguyên thiên nhiên và việc đảm bảo an ninh sinh thái đối
với dân cư”.(1) Khái niệm TPMT của Tiến sĩ Phạm Văn Lợi đã khắc phục được các
nhược điểm của khái niệm trong Giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội nêu trên
về khách thể và hành vi vi phạm. Song khi so sánh với khái niệm về tội phạm quy định
tại khoản 1 Điều 8 BLHS cùng với những đặc điểm của tội phạm nhận thấy, khái niệm
TPMT của Tiến sĩ Phạm Văn Lợi chỉ mới xác định được đó là hành vi nguy hiểm được
quy định trong BLHS và khách thể của nó. Những yếu tố cần thiết khác của một hành
vi được coi là tội phạm vẫn chưa được ghi nhận đầy đủ như dấu hiệu lỗi, dấu hiệu chủ
thể thực hiện. Thiết nghĩ, một khái niệm tội phạm phải đảm bảo được những dấu hiệu
cơ bản của một tội phạm như chủ thể thực hiện, ý chí người phạm tội, hành vi và
khách thể mà tội phạm hướng tới. Xác định đủ các tiêu chí này trong khái niệm tội
phạm sẽ nâng cao hiệu quả trong việc quy các tội phạm cụ thể cũng như việc phân biệt
nhóm TPMT với những nhóm tội phạm khác được thực hiện dễ dàng hơn.
Thông qua việc cập nhật các thông tin đồng thời với việc phân tích những ưu và
khuyết của các khái niệm về TPMT nêu ra ở trên, tác giả xin mạnh dạn đưa ra khái
niệm về TPMT như sau: Tội phạm môi trường là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS do người có trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc

vô ý, xâm hại tới các quan hệ xã hội về sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên,
về bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái nhằm đảm bảo môi trường sống an toàn cho
con người và các sinh vật khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của tội phạm môi trường
TPMT cũng như tất cả các loại tội phạm khác được quy định trong BLHS đều
mang những đặc điểm cơ bản của một tội phạm, bao gồm tính nguy hiểm cho xã hội,
tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính chịu hình phạt. Trên thực tế nội hàm đặc
điểm tội phạm vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi, các quan điểm về vấn đề này tồn tại
nhiều khác biệt. Có nhiều quan điểm cho rằng đặc điểm tội phạm bao gồm bốn yếu tố
trên, ý kiến khác lại phủ nhận “tính chịu hình phạt” là một trong những đặc điểm cơ
bản xuất phát từ sự phù hợp giữa đặc điểm tội phạm với khái niệm tội phạm được đưa
ra trong khoảng 1 Điều 8 BLHS. Trong nghiên cứu của mình tác giả sẽ đề cập đến đặc
1. TS Phạm Văn Lợi: Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp, Tội Phạm môi trường- Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, 2004, tr.95

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

17

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
điểm của tội phạm môi trường với đầy đủ cả bốn yếu tố trên bởi lẽ “tính chịu hình
phạt” là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, vì chỉ tội phạm mới chịu hình phạt. Mặc dù
không phải mọi trường hợp thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội đều phải chịu
hình phạt mà có thể bị buộc phải thực hiện một dạng TNHS khác song “khả năng đe
dọa bị áp dụng hình phạt vẫn có”,(1) nghĩa là vẫn có tính chất phải chịu hình phạt.
Thứ nhất, đặc điểm về tính nguy hiểm cho xã hội của TPMT. Tính nguy hiểm
cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng và có ý nghĩa quyết định các dấu hiệu khác

đối với tội phạm nói chung và TPMT nói riêng. Tính nguy hiểm của TPMT thể hiện ở
việc gây thiệt hại hoặc khả năng sẽ gây thiệt hại trong tương lai đến các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực môi trường. Đặc tính này tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc
vào ý chí của con người, thay đổi tùy thuộc vào một không gian và thời gian xác định.
Hành vi “vi phạm về ứng phó và phòng sự cố môi trường” trước đây không được quy
định trong BLHS 1985 và BLHS 1999 bởi lẽ tại thời điểm này nhà làm luật của chúng
ta không đánh giá đây là một hành vi có tính nguy hiểm cần phải được xử lý bằng
pháp luật hình sự. Ngày nay, với những điều kiện kinh tế mới và những nhận thức
mới, chúng ta đã nhận định tính nguy hiểm của hành vi nêu trên là cao và xác thực nên
đã quy định hành vi đó là một TPMT trong BLHS. Như vậy, tùy vào từng thời điểm và
không gian nhất định mà mức độ nguy hiểm của TPMT lại khác nhau.
Việc xác định đặc điểm này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc áp dụng
pháp luật hình sự vào bảo vệ môi trường. Đặc điểm này chính là cơ sở quan trọng để
phân biệt tội phạm với các vi phạm pháp luật khác, là bước đầu tiên để xác định một
hành vi có thể được xử lý bằng pháp luật hình sự. Ngoài ra, đặc điểm này còn là cơ sở
để đánh giá mức độ nghiêm trọng của tội phạm, từ đó tiến hành việc cá thể hóa TNHS
được chính xác hơn.
Để đánh giá mức độ nguy hiểm của TPMT phải đánh giá tổng hợp các yếu tố
như khách thể mà tội phạm xâm hại; hành vi khách quan; mức độ lỗi và các yếu tố
nhân thân người phạm tội… Nhìn chung, TPMT thường có tính nguy hiểm cao. Các
hành vi như “lợi dụng nhập khẩu đưa chất thải vào Việt Nam”, “hủy hoại rừng”, “làm
ô nhiễm môi trường”…xâm hại tới các quan hệ về bảo vệ môi trường thông qua việc
gây hại nghiêm trọng cho môi trường, có thể là làm phát tán các chất độc hại vào
không khí, có thể là gây nạn đất trồng đồi trọc hay gây ra những dịch bệnh nguy hiểm
cho con người. Môi trường sống bị đe dọa nghĩa là sự sống của con người và sinh vật
1.Tiến sĩ Phạm Văn Beo: Luật hình sự Việt Nam Quyển 1(phần chung), NXB Chính Trị Quốc Gia Hà Nội,
2009, tr.125

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh


18

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
khác cũng bị đe dọa. Do đó, các TPMT thực sự là mối nguy hiểm lớn lao mà pháp luật
hình sự cần phải loại trừ.
Tính có lỗi là đặc điểm thứ hai của TPMT thể hiện ở sự kết hợp giữa ý chí,
nhận thức với hành vi của người thực hiện tội phạm. Việc thực hiện hành vi xâm phạm
môi trường phải trải qua các giai đoạn từ nhu cầu, động cơ, mục đích, nhận thức các
điều kiện khách quan và là thực hiện lựa chọn hành vi. Nghĩa là quá trình phạm tội của
chủ thể xâm hại môi trường bao giờ cũng có sự tham gia của nhận thức và ý chí.
Người phạm tội nhận biết được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại hoặc tiềm tàng khả
năng gây thiệt hại cho môi trường nhưng vẫn thực hiện hành vi, có thể dưới hình thức
lỗi vô ý hay cố ý. Hành vi được xem là có tính lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự
lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ các điều kiện để lựa chọn và quyết
định một xử sự khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đặc điểm này là đặc điểm có mối
quan hệ mật thiết, thể hiện rõ đặc điểm “tính nguy hiểm” của TPMT. Chính vì vậy mà
việc xác định đặc tính này của TPMT cũng hết sức cần thiết trong việc định tội danh,
truy cứu TNHS một cá nhân cụ thể.
Đặc điểm thứ ba của TPMT là đặc điểm về tính trái pháp luật hình sự. Nếu tính
nguy hiểm là dấu hiệu thuộc về mặt nội dung thì tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu
về mặt hình thức pháp lý của tội phạm. Dẫn chiếu theo Điều 8 BLHS thì một cá nhân
bị truy cứu TNHS về hành vi gây hại cho môi trường nếu hành vi đó “… được quy
định trong BLHS..”. Như vậy, quy định trong luật hình sự hay tính trái pháp luật hình
sự là thuộc tính phải có trong các hành vi bị coi là TPMT. Nếu một cá nhân thực hiện
hành vi xâm hại đến môi trường nhưng hành vi đó không quy định trong luật hình sự
thì sẽ không được là tội phạm. Việc quy định tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu của
TPMT nhăm xác định đường lối đấu tranh phòng chống TPMT được thống nhất, tránh

tình trạng tùy tiện trong việc xác định tội danh và quyết định mức độ xử lý tội phạm.
Hơn nữa, tuân thủ đặc tính này cũng đảm bảo quyền con người được bảo vệ theo như
khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc: “Không ai bị kết án về
một hành vi mà lúc họ thực hiện, pháp luật Quốc gia không quy định là tội phạm”.
Tính phải chịu hình phạt là đặc điểm cuối cùng mang tính hệ quả của TPMT.
Khi thực hiện hành vi được xem là TPMT quy định trong BLHS thì hệ quả kéo theo là
người đó phải chịu TNHS theo pháp luật. Và hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất của Nhà nước, là một trong những biểu hiện sinh động nhất của TNHS mà
chủ thể của TPMT phải gánh chịu. Các TPMT luôn ẩn chứa khả năng phải chấp hành
hình phạt nếu đảm bảo các điều kiện pháp luật quy định. Hình phạt không phải là dấu
hiệu bên trong nhưng luôn đi kèm và có quan hệ mật thiết với TPMT. Đồng thời đây
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

19

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
cũng là biện không thể thiếu tạo nên hiệu quả cao trong việc đấu tranh phòng chống
TPMT.
1.1.3. Luật hình sự về môi trƣờng và mối quan hệ với các ngành luật khác
Pháp luật về môi trường tại Việt Nam với một hệ thống các văn bản đồ sộ đã có
sự phát triển mạnh mẽ cả về nội dung và hình thức, điều chỉnh tương đối và đầy đủ các
thành tố tạo nên môi trường. Việc bảo vệ môi trường không những được quy định
trong các văn bản luật bảo vệ môi trường chuyên ngành như LBVMT 2005, Luật Bảo
vệ rừng 2004, Luật Tài nguyên nước 1998, Luật Tài nguyên nước 2012,(1) Luật
Khoáng sản 2005,…mà còn được quy định trong văn bản của nhiều ngành luật khác
như Luật hành chính, Luật hình sự, Luật dân sự cùng các công ước, Hiệp ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết.

Luật hình sự về môi trường bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội quan trọng trong lĩnh vực môi trường, bị hành vi có tính nguy hiểm cao
nhất xâm hại đến. Những hành vi nguy hiểm này bị Luật hình sự cấm thực hiện thông
qua việc quy định chúng với tư cách là tội phạm trong BLHS. Luật hình sự môi trường
có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường bằng pháp
luật. Đó chính là cơ sở đảm bảo pháp luật về môi trường được bảo vệ, đấu tranh, ngăn
chặn và phòng ngừa sự xuất hiện của hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức được rằng pháp luật hình sự không là biện pháp chính,
cơ bản nhất để bảo vệ môi trường, tránh tình quá coi trọng biện pháp hình sự mà áp
dụng tràn lan, không hiệu quả. Theo như Tiến sĩ Võ Khánh Vinh nhận định thì “Trong
sự nghiệp bảo vệ môi trường thì pháp luật hình sự có khả năng mang tính tự hạn chế
khách quan. Thứ nhất, pháp luật hình sự không có khả năng khắc phục được các
nguyên nhân của hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm môi trường. Thứ hai, các
đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của luật hình sự tự mình hạn chế lĩnh vực áp
dụng…”(2). Do đó, đối với vấn đề bảo vệ môi trường thì phải xem xét các quy định
BLHS cùng với các quy định thuộc chuyên ngành khác để dảm bảo thực hiện đồng bộ
va có hiệu quả công tác xử lý vi phạm pháp luật môi trường.
Luật hình sự với vai trò là ngành luật duy nhất quy định và xử lý TPMT, có tính
độc lập tương đối với các ngành luật khác trong vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
trong quá trình vận hành Luật hình sự vào điều chỉnh các quan hệ về bảo vệ môi
trường chúng ta cần phải liên kết nó vào với các ngành luật khác. Trong mối tương
1. Luật Tài nguyên nước 2012 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2013
2. Tiến sĩ Võ Khánh Vinh: Những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tội phạm về môi trường trong
BLHS 1999 sửa đổi sung 2009, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 04/2002, tr.6

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

20

SVTH:Ngô Thanh Toàn



Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
quan với các ngành luật khác, Luật hình sự mới thật sự phát huy tác dụng và đem lại
hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống các TPMT.
Khi điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến bảo vệ môi trường, Luật hình sự có
mối quan hệ gắn kết nhất với pháp luật chuyên ngành môi trường. Có thể nói đây là
mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau. Luật hình sự tham vào quá trình bảo vệ
môi trường bằng cách xử lý và loại bỏ TPMT- những hành vi gây nguy hiểm cho môi
trường sống. Luật chuyên ngành môi trường quy định những hành vi bị cấm thực hiện
hoặc hạn chế thực hiện (phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới
được thực hiện). Theo đó, Luật hình sự sẽ điều chỉnh những hành vi gây hại có tính
nguy hiểm cao nhất và mang lại thiệt hại lớn nhất cho xã hội. Ví dụ: khoản 2 Điều 12
Luật Bảo vệ rừng 2004 quy định cấm “săn, bắn, nuôi, nhốt, giết, mổ động vật rừng trái
phép”, trên cơ sở đó Luật hình sự tội phạm hóa hành vi săn, bắn, nuôi, nhốt, giết, động
vật rừng quý, hiếm trái phép thành tội danh được quy định tại Điều 190 BLHS. Điều
đó cho thấy, thông qua việc quy định và xử lý các TPMT, Luật hình sự thực hiện việc
bảo vệ các quy định của luật môi trường chuyên ngành, đảm bảo cho các quy định này
không bị xâm hại trên thực tế.
Mối quan hệ này không chỉ là mối quan hệ một chiều mà là sự tác động qua lại
lẫn nhau. Luật hình sự bảo vệ các quy định của luật chuyên ngành môi trường nhưng
ngược lại, để có thể truy cứu TNHS một hành vi vi phạm môi trường thì phải dựa trên
cơ sở đánh giá luật chuyên ngành môi trường. Nghiên cứu về TPMT trong Luật hình
sự cùng các văn bản pháp luật môi trường chuyên ngành có thể nhận thấy các TPMT
được xây dựng dựa trên cơ sở những điều cấm của các văn bản luật như Luật Bảo vệ
rừng năm 2004, LBVMT năm 2005, Luật đa dạng sinh học năm 2008…Thêm vào đó,
việc xác định các dấu hiệu để định tội danh trong Luật hình sự như “gây hậu quả
nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, hay “vượt quá quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia”…cần có sự dẫn chiếu của văn bản luật chuyên ngành về môi trường. Các
dấu hiệu này thông thường nằm trong các văn bản luật hoặc nghị định, thông tư hướng

dẫn thi hành luật về môi trường. Ví dụ: khi xác định yếu tố “vượt quá quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất thải” thì ta cần phải căn cứ vào quy chuẩn kỹ thuật được ban
hành kèm theo Thông tư 25/2009/TT-BTNMT ngày 16 tháng 11 năm 2009 quy định
về Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia vê môi trường.
Như vậy, có thể nói các quy định của Luật hình sự về TPMT là quy định dẫn
chiếu đến pháp luật môi trường chuyên ngành. Phải có sự hỗ trợ của pháp luật chuyên
ngành thì mới có căn cứ để truy cứu TNHS và xử lý tội phạm trên cả lý luận và thực
tiễn.
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

21

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Nhận thức được mối quan hệ trên chúng ta có thể đi đến kết luận rằng khi muốn
hoàn thiện được pháp luật hình sự về TPMT thì cũng phải đồng thời hoàn thiện cả
pháp luật chuyên ngành về môi trường. Tốc độ phát triển và sự hoàn thiện của luật
chuyên ngành môi trường sẽ kéo theo sự phát triển của Luật hình sự vê TPMT.
Ngoài luật môi trường chuyên ngành thì pháp luật hình sự về TPMT còn có mối
liên hệ mật thiết với ngành Luật hành chính, mà cụ thể là các văn bản về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực môi trường. Như đã phân tích ở phần trước thì vi phạm pháp
luật hành chính và vi phạm pháp luật hình sự về môi trường có những nét tương đồng
với nhau, phân trên cơ sở mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Do đó, Luật hành
chính về môi trường và Luật hình sự về môi trường cũng có những đặc điểm chung
tương ứng. Theo như quy định của Luật hành chính thì những vi phạm nào không
được xử lý hành chính sẽ chịu xử lý về hình sự. Ví dụ: khoản 7 Điều 3 Nghị định
99/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ
rừng và quản lâm sản ghi nhận những trường hợp không xử lý vi phạm hành chính mà

phải truy cứu TNHS bởi tính nguy hiểm cao của hành vi. Và ngược lại, khi truy cứu
TNHS một hành vi gây hại cho môi trường nhưng không đủ các dấu hiệu dẫn đến
không thể định tội danh, không thể xử lý bằng hình sự thì cơ quan điều tra sẽ trả hồ sơ
để thực hiện thủ xử phạt vi phạm hành chính. Từ những phân tích trên cho thấy mối
quan hệ giữa hai ngành luật này mối quan hệ hổ trợ, bổ sung cho nhau.
Đồng thời với các mối quan hệ trên thì Luật hình sự còn có liên hệ với Luật dân
sự và Luật quốc tế trong vấn đề bảo vệ môi trường. Khi truy cứu TNHS về hành vi vi
phạm pháp luật môi trường nếu có thiệt hại xảy ra thì ngoài chịu TNHS, chủ thể vi
phạm còn phải chịu trách nhiệm dân sự về bồi thường thiêt hại hay khắc phục sự cố
môi trường, những dạng trách nhiệm dân sự này do Luật dân sự điều chỉnh. Do đó,
Luật dân sự sẽ góp phần hoàn chỉnh hơn quá trình truy cứu trách nhiệm và xử lý hình
sự khi có TPMT phát sinh.
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước và Hiệp ước quốc tế về môi
trường như: Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển Marpol năm 1973, Công ước
khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí năm 1992, Công ước về đa dạng sinh học
năm 1992…Khi tham gia các Công ước này Việt Nam có nhiệm vụ luật hóa các quy
định của Công ước vào luật quốc gia. Luật hình sự với vai trò là một ngành luật quốc
gia quan trọng cũng sẽ quy định những hành vi xâm hại là TPMT tương ứng với các
điều cấm của các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường.
Muốn có được một hệ thống các cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cũng như một cơ chế
tối ưu để bảo vệ môi trường thì cần phải phát triển một cách đồng bộ, thống nhất cùng
GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

22

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
lúc các văn bản luật thuộc các ngành luật khác nhau về môi trường. Có như vậy thì

việc bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh sinh thái mới có thể được thực hiên trên thực
tế. Và việc phát triển các ngành luật để bảo vệ môi trường này phải đặt trong mối quan
hệ tương quan, tác động lẫn nhau của chúng, làm sao để có được những cơ sở pháp lý
thống nhất và hiệu quả.
1.2. VẤN ĐỀ TỘI PHẠM HÓA MỘT SỐ HÀNH VI XÂM HẠI MÔI
TRƢỜNG HIỆN NAY
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội phạm hóa nhưng tác giả xin
dựa vào quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm để xác định thế nào là tội phạm hóa một
hành vi xâm hại môi trường. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì “Tội phạm hóa là việc ghi
nhận về mặt lập pháp trong luật hình sự một hành vi nào đó là tội phạm và quy định
biện pháp cưỡng chế về hình sự tương ứng đối với việc thực hiện hành vi đó”.(1)Như
vậy tội phạm hóa là hành vi xâm hại môi trường nghĩa là hoạt động của cơ quan lập
pháp, xác định trong luật hình sự một hành vi xâm hại môi trường có tính nguy hiểm
đáng kể là tội phạm và phải chịu những biện pháp cưỡng chế về hình sự tương ứng với
hành vi đó.
Qua từng thời kỳ, phụ thuộc vào sự thay đổi của các điều kiện về kinh tế - xã
hội mà việc tội phạm hóa lại được tiến hành cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đó.
Khi BLHS 1999 được ban hành thì việc nhận thức về tính nguy hiểm của những hoạt
động gây hại đến môi trường và ý thức về việc bảo vệ môi trường được nâng cao
thông qua việc xuất hiện nhiều hành vi xâm hại môi trường được tội phạm hóa. Nếu
như BLHS 1985, chỉ một số tội danh về môi trường được quy định nằm rải rác ở
Chương các tội phạm về kinh tế, Chương các tội phạm về trật tự công cộng thì đến
BLHS 1999 hàng loạt các hành vi được tội phạm hóa thành TPMT như: Tội làm ô
nhiễm không khí (Điều 182), Tội nhập khẩu công nghệ máy móc, không đảm bảo tiêu
chuẩn môi trường (Điều 185), Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã
quý, hiếm (Điều 190),…Tiếp tục đến lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 vào năm
2009 lại có thêm những hành vi mới được tội phạm hóa như: Tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải (Điều 182a), Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (Điều
191a).
Quá trình tội phạm hóa có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt thực tiễn lẫn lý

luận, tội phạm hóa là một trong những biện pháp của chính sách hình sự thể hiện cụ
thể nhất ý chí của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện các nhiệm vụ của luật hình sự.
1. GS.TSKH Lê Cảm: Vấn đề tội phạm hóa một số hành vi xâm hại tới môi trường trong BLHS hiện hành, Tạp
chí Nhà nước và Pháp Luật số 06,năm 2001, tr.12

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

23

SVTH:Ngô Thanh Toàn


Hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về tội phạm môi trường
Ngoài ra vấn đề tội phạm hóa còn đáp ứng được đòi hỏi của nhu cầu xã hội phải
nghiêm trị những hành vi có tính nguy hiểm cao. Thực tế cho thấy, việc tội phạm hóa
những hành vi xâm hại đến môi trường là một trong những yêu cầu cấp thiết trong việc
bảo vệ môi trường bằng pháp luật. Với sự phát triển ngày càng cao của xã hội thì
những nguy hiểm về môi trường ngày càng gia tăng nhanh chóng. Một số hành vi mới
xuất hiện gần đây đem lại hậu quả hết sức nguy hại song lại chưa được xử lý bằng chế
tài hình sự bởi hành vi đó chưa được quy định là TPMT trong BLHS. Chúng ta không
khỏi hoang mang khi một số lượng lớn chất thải y tế bao gồm cả chất thải nguy hại
được bán lẻ ra các cở sở gia công nhỏ để tái chế và đem vào sử dụng. Do nguyên liệu
nhựa chính phẩm ngày càng đắt đỏ nên các cơ sở chế biến đã sử dụng rác thải y tế tái
sinh nhiều lần làm nguyên liệu sản xuất. Với công nghệ tái chế thô sơ, không đảm bảo
kỹ thuật những vật dụng tái chế từ tác thải bệnh viện sẽ tiềm ẩn những vi khuẩn gây
bệnh nguy hiểm cho con người. Hiện nay có khoảng 20% người Việt Nam đang sử
dụng túi nhựa, vật dụng bằng nhựa làm từ nguyên liệu này. Vấn nạn về ô nhiễm tiếng
ồn và độ rung cũng gây nên những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tài sản của
con người. Bên cạnh đó còn có thể có sự xâm nhập của những TPMT mang tính quốc
tế vào Việt Nam như sản xuất vũ khí sinh học. Chính những mối nguy hiểm đang diễn

ra và có thể xảy ra đó mà chúng ta cần phải tội phạm hóa những hành vi gây hại này để
có thể xử lý nghiêm minh bằng pháp luật, loại trừ chúng ra khỏi xã hội. Vấn đề tội
phạm hóa các hành vi xâm hại môi trường có thể thực hiện đối với những hành vi gây
hại cho môi trường sống nhưng chưa được BLHS ghi nhận hoặc cũng có thể là tội
phạm hóa những hành vi chưa xảy ra song rõ ràng có điều kiện để xảy ra. Việc làm
này sẽ mang tính dự đoán và phòng ngừa cao, đảm bảo hạn chế khả năng xuất hiện các
hành vi gây hại.
Việc tội phạm hóa các hành vi xâm hại môi trường phải tiến hành căn cứ vào
những tiêu chí nhất định dựa trên các điều kiện khách quan cụ thể bởi theo quan điểm
của Các Mác về hoạt động xây dựng pháp luật thì nhà làm luật “không làm ra luật,
không sáng tạo ra chúng, mà chỉ hình thức hóa, ghi nhận trong các đạo luật thực định
và có ý thức chung những quy luật nội tại các quan hệ tinh thần”.(1)Có nhiều quan
điểm khác nhau về tiêu chí để tội phạm hóa các hành vi vi phạm môi trường nhưng cá
nhân tác giả cho rằng những tiêu chí cơ bản có tính quyết định nhất khi tiến hành tội
phạm đó là: tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ phổ biến của hành vi, sự
phù hợp về mặt đạo đức, tâm lý, phù hợp các điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với
các ngành luật khác trong cùng một hệ thống pháp luật.
1.Các Mác và PhĂngghen toàn tập, tập 1, Nxb Sự Thật, năm 1970,tr.162

GVHD: Lê Quỳnh Phương Thanh

24

SVTH:Ngô Thanh Toàn


×