Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng TMCP công thương việt nam – chi nhánh ba đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.89 KB, 79 trang )

Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

MỤC LỤC

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
1


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
2


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh


PHẦN MỞ ĐẦU


Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng được coi như phương tiện hiệu quả nhất để
đầu tư cho sản xuất, mở rộng hoạt động kinh doanh của các thành phần thuộc mọi tầng
lớp trong nền kinh tế. Chính vì vậy, quan tâm tới sức khỏe tín dụng luôn được coi một
trong những hoạt động quan trọng nhất của một ngân hàng, nhất là trong hoàn cảnh
hiện nay, dưới sức ép của sự phát triển, ngày càng có nhiều những tồn tại được bộc lộ
hoặc nảy sinh ra cần được xem xét giải quyết một cách nhanh chóng, hiệu quả nhằm
đảm bảo lợi ích cho các ngân hàng và cho toàn nền kinh tế.
Là một chi nhánh của Vietinbank, Chi nhánh Vietibank Ba Đình đã và đang
hoàn thiện, phát huy hơn nữa vai trò và thế mạnh của mình trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng của Vietinbank Ba Đình là một trong những yêu cầu bức thiết hiện nay.
Đứng trước những đòi hỏi của thực tiễn, qua thực tế hoạt động của Vietinbank
Ba Đình, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Ba Đình" làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động tín dụng của Vietinbank giai đoạn 20102013, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng tại Vietinbank Ba Đình.


Mục đích nghiên cứu

- Góp phần hoàn thiện những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHCT Ba Đình, từ đó đánh giá
kết quả đạt được cũng như hạn chế và tìm ra những nguyên nhân của hạn chế này.
- Đóng góp giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng

tại NHCT Ba Đình.


Phương pháp nghiên cứu.

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
3


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Phương pháp thu thập số liệu từ các báo cáo tài chính, những thông tin qua trao
đổi với cán bộ chuyên môn trong công ty để đảm báo thông tin được thu thập là chính
xác, đầy đủ và mang tính thực tiễn.
Phương pháp xử lý số liệu: phân loại, tính toán số liệu để tìm ra các chỉ tiêu
giải quyết vấn đề. Sau đó phân tích, lý luận, tổng hợp thông tin để đưa ra giải pháp
kiến nghị.

Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này được thực hiện tại Ngân hàng Công thương Ba Đình, chỉ xem xét các
chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
tại chi nhánh.
Số liệu phân tích chủ yếu trong 4 năm 2010 - 2011 – 2012 - 2013



Kết cấu của đề tài

Đề tài: : "Nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Ba Đình" được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHCT Ba Đình
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHCT Ba Đình
Do thời gian nghiên cứu không nhiều cũng như kiến thức và kinh nghiệm thực
tế còn hạn chế nên bài luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và bạn đọc.
Em xin chân thành cảm ơn:
Ban giám đốc và nhân viên phòng Kế toán Ngân hàng Công thương Ba Đình đã
chấp nhận em vào thực tập và tạo điều kiện để tiếp xúc với môi trường làm việc thực
tế và cung cấp số liệu cho việc phân tích.
Giảng viên Th.s Nguyễn Phương Anh – Giảng viên hướng dẫn đã nhiệt tình
đóng góp ý kiến, góp khắc phục và hoàn thiện bài luận văn.

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
4


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Các thầy cô giáo trong khoa Quản Lý Kinh Doanh, trường ĐH Công Nghiệp Hà
Nội.

Đã giúp em hoàn thành bài luận văn này. Một lần nữa gửi lời tri ân!

Chương 1
Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng của
Ngân hàng thương mại
1.1 Tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được hình thành và phát triển qua một quá trình lâu dài và
gắn liền với nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Sự ra đời và phát triển của hệ
thống ngân hàng Thương mại gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá.
Cừng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế ngân hàng Thương mại đã và
đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng trở thành trung gian tài chính
lớn nhất trong nền kinh tế.
NHTM có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc các nhiệm vụ mà
chúng thực hiện. Hiện nay, có khá nhiều khái niệm khác nhau về NHTM đã được đưa
ra tuỳ thuộc vào tập quán, luật lệ của mỗi quốc gia, phụ thuộc vào quan điểm của từng
nhà kinh tế học, và sự khác nhau trên mỗi góc độ nghiên cứu ví dụ như:
Tại Mỹ đưa ra khái niệm “NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính”.
Tại Pháp, theo luật được ban hành vào ngày 13/06/1941: “Ngân hàng là một xí
nghiệp hay cơ sở mà ngành nghề thường xuyên là nhận tiền của dân chúng dưới hình
thưc ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các
nghiệp vu chiết khấu, tín dụng, tài chính.”
Tại nước ta, theo luật TCTD số 47/2010/QH12 “Ngân hàng thương mại là loại
hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Có thể nói rằng, NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng. Như vậy, về mặt bản chất thì NHTM cũng
Sv : Võ Thị Hương

Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
5


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

giống như các doanh nghiệp khác ở chỗ: đều là tổ chức được pháp luật thừa nhận và
kinh doanh với mục đích lợi nhuận.

Khái niệm tín dụng
Tín dụng có nguồn gốc từ tiếng La-tinh: Creditum tức là sự tín dụng, tín nhiệm
hoặc nói cách khác là sử dụng sự tin tưởng tín nhiệm để thực hiện các quan hệ vay
mượn một lượn giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian. Có thể định nghĩa “Tín
dụng là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang người đi vay và sẽ
quay lại với người cho vay cả vốn lẫn lãi suất sau một thời gian xác định nào đó”.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng là hoạt động rất đa dang và phong phú.
Nếu căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng ta có thể chia tín dụng thành: tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng và tín dụng nhà nước
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là một trong ba hình thức tín dụng nếu chia theo chủ thể tín
dụng trong quan hệ tín dụng chính vì vậy tín dụng ngân hàng mang đầy đủ bản chất
của tín dụng đó là quan hệ vay mượn giữa các thành phần kinh tế. Căn cứ vào đó, các
nhà kinh tế đưa ra khái niệm: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân
hàng và các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, trong đó ngân hàng (TCTD)
chuyển giao tài sản cho khách hàng vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận, và khách hàng vay có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng

(TCTD) khi đến hạn thanh toán.”
(Nguồn: Tr.52, Giáo trình Kế toán ngân hàng, ĐHCNHN)
Ngày nay, do nhu cầu ngày càng tăng của các thành phần trong nền kinh tế,
nghiệp vụ của các ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển, các hình thức tín
dụng trong ngân hàng theo đó cũng trở nên ngày một phong phú, đa dạng hơn. Theo
luật tổ chức TD thì "Hoạt động TD là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động đế cấp tín dụng".

1.1.2 Đặc trưng của hoạt động tín dụng ngân hàng
Quan hệ tín dụng chỉ được diễn ra khi những cá nhân, tổ chức có nhu cầu đi vay
và cho vay vốn gặp nhau trên thị trường với các ràng buộc về không gian thời gian và
các điều kiện khác đã được thoả mãn. Do đó nó mang các đặc trưng cơ bản sau:

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
6


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Thứ nhất: Quan hệ tín dụng ngân hàng phải được xuất phát từ sự tin tưởng hai
chiều giữa chủ thể cho vay là ngân hàng với chủ thể đi vay là khách hàng. Trong đó,
ngân hàng cần tin tưởng vào những khía cạnh như khả năng tài chính của người đi
vay, mong muốn trả nợ... tin tưởng vào khả năng người đi vay sẽ hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời như thời hạn mà hai bên đã cam kết. Ngược lại, ngân hàng đó cần
có tạo dựng được uy tín nhất định đối với người đi vay, giúp người đi vay tin rằng

ngân hàng có khả năng đáp ứng một cách tốt nhất những nhu cầu của mình về quan hệ
tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng được kèm theo và có liên quan như: về số
lượng vốn vay, lãi suất cho vay, thời hạn- kế hoạch giải ngân cụ thể...
Thứ hai: Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị gốc ban đầu, tức là
nó bao hàm cả gốc và lãi. Phần lãi này được coi như một dạng doanh thu cho ngân
hàng nhằm bù đắp toàn bộ những khoản chi phí, rủi ro có liên quan và mang lại cho
ngân hàng một phần lợi nhuận.
Thứ ba: Quan hệ tín dụng có nguyên tắc hoàn trả, có nghĩa là ngân hàng chỉ
giao vốn cho người đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã được thoả
thuận trước và được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng, đến khi đáo hạn, nếu như không
có thoả thuận khác thì người đi vay phải hoàn trả toàn bộ số vốn đó cộng thêm phần
thặng dư cho ngân hàng như đã thỏa thuận từ trước.
Thứ tư: Hai bên tham gia vào quy trình tín dụng có nghĩa vụ phải thực hiện
chính xác như những gì đã cam kết trong hợp đồng đã ký như một quy định bắt buộc
của pháp luật trừ khi cả hai đi đến một sự đồng thuận trong việc thay đổi một phần
hoặc toàn bộ những gì đã thỏa thuận.
Thứ năm: Hoạt động tín dụng luôn ẩn chứa nhiều rủi ro do tính phong phú và
đa dạng của chính hoạt động này. Tính đa dạng của nó biểu hiện ở: đối tượng cho vay
(có thể là cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp hoạt động ở mọi lĩnh vực...), hình thức
cấp tín dụng (cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính...). Những hình thái biểu hiện rủi
ro: rủi ro trực tiếp từ chính hoạt động của ngân hàng như: rủi ro thanh khoản, rủi ro
mất vốn do hoạt động tín dụng mang lại
Thứ sáu: Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với hệ thống lưu thông tiền tệ
của một quốc gia. Biểu hiện chính của nó là các ngân hàng thương mại thông qua việc
huy động vốn và cho vay đã thực hiện đưa vốn tiết kiệm từ dân cư (vốn ngoài lưu
thông) vào quá trình đầu tư có hiệu quả làm tăng vòng quay vốn của nền kinh tế.

1.1.3 Nguyên tắc tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm
bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các

quy định của ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại.
Sv : Võ Thị Hương
Luận văn tốt nghiệp
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5
7


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

1.1.3.1 Mục đích cho vay
Trước khi nhận được khoản vay, ngân hàng phải có một cam kết xác nhận, ghi
rõ mục đích sử dụng của khoản vốn được vay và cam kết thực hiện đúng như mục đích
đã nêu ban đầu. Khách hàng có thể được vay để sử dụng với nhiều mục đích khác
nhau như vay sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, bảo lãnh,...nhưng không được sử dụng vào
các mục đích mà ngân hàng và pháp luật nghiêm cấm hoặc có thể nằm ngoài phạm vi
cho phép của ngân hàng, ngoài ra, trong quá trình sử dụng, khác hàng không được
phép tự ý thay đổi mục đích sử dụng dưới mọi hình thức. Trong trường hợp khách
hàng sử dụng sai mục đích, tùy theo mức độ, ngân hàng có thể quyết định đơn phương
ngừng cho vay, thu hồi nợ sớm, phạt tiền, thậm chí khởi kiện trong những trường hợp
gây hậu quả nghiêm trọng.
1.1.3.2 Khả năng sinh lời
Ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh đặc biệt trong nền kinh tế
với mặt hàng giao dịch chính là tiền tệ - vốn nhận được những sự đòi hỏi đặc biệt về
uy tín, còn gọi là lĩnh vực kinh doanh lòng tin. Chính vì vậy, sinh lời với các ngân
hàng không chỉ mang tính chất cơ bản như bù đắp các chi phí, tổn thất phát sinh trong
quá trình kinh doanh cũng như thu về một mức lợi nhuận chấp nhận được cho chủ sở
hữu, mức sinh lời và sự ổn định, chắc chắn trong sự sinh lời còn được coi như một
trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc đánh giá uy tín, tạo danh tiếng tốt cho

ngân hàng.
1.1.3.3 Đa dạng hóa rủi ro
Rủi ro là một trong những yếu tố tiêu biểu luôn hiện hữu trong hoạt động tín
dụng ngân hàng. Nếu khách hàng không có khả năng hoàn trả những khoản vay do
những điều kiện khách quan thì ngân hàng không thể thu hồi được khoản nợ gốc chưa
tính đến các khoản lãi. Ngân hàng nên trải rộng trên nhiều đối tượng cho vay và những
thành phần vốn khác nhau tránh tập trung vốn quá lớn vào một đối tượng vay hoặc
một lĩnh vực, một thành phần kinh tế nhất định nào đó như vậy dễ dàng bị tổn thất khi
đối tượng vay gặp khó khăn về vấn đề tài chính. Điều này dẫn đến một tập hợp các
món vay có tính cân bằng và bền vững.
1.1.3.4 Tính an toàn
Tín an toàn trong hoạt động tín dụng được hiểu là khả năng hoàn trả nợ đầy đủ
và đúng với thời hạn cam kết. Trong thực tế, những yêu cầu về trả nợ luôn được thỏa
thuận kỹ lưỡng và quy định rõ ràng trong hợp đồng. Ngân hàng đánh giá tín an toàn
của một món vay thông qua những tiêu chí như: mục đích sử dụng, phương án kinh
doanh, đạo đức của người đi vay, chất lượng- số lượng tài sản đảm bảo,...Tính an toàn
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
8


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

của các khoản vay được coi như một trong những yếu tố sống còn với mọi ngân hàng,
ảnh hưởng trực tiếp tới nguy cơ phá sản, khả năng phát triển của ngân hàng.


1.1.4 Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.1.4.1 Với ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng, theo thống kê,
70% chi phí hoạt động phát sinh thông qua các nghiệp vụ tín dụng, đồng thời hoạt
động này cũng đóng góp trung bình khoảng trên 70% thu nhập cho các ngân hàng
thương mại. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng ngân hàng, nó
mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời tín
dụng ngân hàng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, do vậy các ngân hàng thương
mại thường coi vấn đề "Quản trị rủi ro tín dụng" là vấn đề trọng tâm trong công tác
quản trị.
1.1.4.2 Với khách hàng
Tín dụng ngân hàng bắt nguồn từ nhu cầu của thị trường, nó thoả mãn chính
nhu cầu về phương tiện thanh toán của chủ thể đi vay- khách hàng. Thực tế, một khách
hàng với nhu cầu cấp thiết là y tế mà không có nguồn thanh toán lúc đó thì hậu quả sẽ
ra sao? Tương tự khi một nhà kinh doanh đứng trước một cơ hội đầu tư lớn có khả
năng sinh lời cao và độ an toàn cao mà lại bất lực bởi vốn đầu tư thì thiệt hại đó quả
không nhỏ...
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư lớn, có tổ chức thì việc tiếp
cận với nguồn tín dụng ngân hàng được coi là một nguồn vốn tương đối dễ dàng,
nhanh chóng và chi phí cho việc sử dụng nguồn vốn này tương đối thấp (chi phí đầu
vào cho hoạt động kinh doanh thấp), tức là nó đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh
doanh của họ do vậy nó làm tăng khả năng sinh lời, tăng tính hiệu quả cho những kế
hoạch đầu tư của khách hàng.
1.1.4.3 Với nền kinh tế
Thứ nhất, Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm sản xuất cung ứng
các loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường với mục đích đem lại lợi nhuận. Để tiến hành
sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định bao gồm
cả vốn cố định, vốn lưu động và các nguồn vốn chuyên dụng khác. Vốn là một yếu tố

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
9


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

đầu vào hết sức quan trọng, là điều kiện cần thiết để đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng
và phát triển bền vững của bất kỳ đơn vị kinh doanh nào, là nguồn gốc của mọi đồng
lãi được sinh ra. Sự cần thiết không thể thiếu vốn được thể hiện thông qua hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn vay của ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không
chỉ riêng đối với các doanh nghiệp mà đối với cả nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động
và phát triển của các công ty, doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính của
NHTM cung cấp, trong đó có hoạt động cấp tín dụng. Không một doanh nghiệp nào là
không vay vốn ngân hàng nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị
trường. Trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp vay ngắn hạn ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng hoặc đầu tư theo
chiều sâu của doanh nghiệp. Trong nền sản xuất hàng hóa, tín dụng ngân hàng là một
trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định cho doanh nghiệp vì vậy
tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới ra đời.
Đồng thời góp phần thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục,
thúc đẩy đầu tư công nghệ dây chuyền hiện đại.
Nhìn chung đối với hoạt động của doanh nghiệp thì nguồn vốn đi vay từ tín
dụng Ngân hàng là nguồn vốn quan trọng và tương đối ổn định. Nếu doanh nghiệp chỉ
sử dụng nguồn vốn tự có của mình sẽ không đủ sức cạnh tranh và không thúc đẩy

được quá trình sản xuất kinh doanh hiệu quả, khó phát triển được trên thị trường.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng thúc đẩy nền kinh tế phát triển
Hoạt động của hàng là trung gian tài chính, tập trung các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi chưa sử dụng nằm phân tán ở dân cư và trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà
nước. Từ đó cấp tín dụng cho các chủ thể kinh tế cần vốn vay, qua hoạt động này đã
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tạo đòn bẩy để thực hiện tái sản xuất, ứng
dụng công nghệ từ đó nâng cao năng suất sản xuất và hiệu quả kinh tế.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ thực hiện các dự án nhà nước
Nhà nước luôn có các dự án nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục
tiêu xóa đói giảm nghèo và các dự án chương trình mang tính xã hội khác. Tuy nhiên,
để thực hiện các dự án phúc lợi xã hội cần một lượng kinh phí lớn nếu chỉ dựa vào
ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khoản vay nước ngoài là không đủ. Vì vậy
tín dụng Ngân hàng là nguồn tài trợ cho những phần còn thiếu để phục vụ tốt hơn các
chính sách của chính phủ. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng tài trợ cho các ngành kinh tế
kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện quan hệ kinh tế với nước ngoài
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
10


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò
ngày càng lớn của hoạt động tài chính, tiền tệ. Cùng với sự phát triển cả về chiều rộng
và hiều sâu của quá trình toàn cầu hóa thì tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong

những phương tiện kết nối nền kinh tế các nước với nhau.
Thứ năm, góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của
các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả có lợi tức.
Nhờ vậy hoạt động tín dụng đã thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng
vốn của ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trách nhiệm hoàn trả nợ đủ và
đúng hạn. Qua đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn,
giảm chi phí sản xuất, thực hiện công khai tài chính, thực hiện chế độ kế toán đầy đủ
theo đúng quy định của pháp luật.
Thông qua hoạt động tín dụng của ngân hàng, nhà nước có thể kiểm tra, kiểm
soát các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp, các chính sách
kinh tế.

1.1.5 Các hình thức cấp tín dụng ngân hàng
Điều 49 Luật các tổ chức tín dụng quy định: "Tổ chức tín dụng được cấp tín
dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, cầm cố thương
phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của ngân hàng nhà nước".
1.1.5.1 Cho vay đối với các tổ chức cá nhân
Đây là hình thức cấp tín dụng phổ biến của các ngân hàng thương mại nhằm
đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Tài sản giao dịch được biểu hiện dưới trạng thái tiền tệ.
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN và các quyết định bổ sung sửa đổi của các
quyết định này như: quyết định 127/QĐ-NHNN, quyết định 783/QĐ-NHNN của thống
đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng, các ngân hàng thương mại có thể áp dụng các phương thức
sau:
Cho vay từng lần: Trong phương thức này, khi khách hàng có nhu cầu tín dụng thì
khách hàng phải đến ngân hàng và hoàn thành các thủ tục đúng như quy định của ngân
hàng và ký kết giao hẹn với ngân hàng.
• Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả

thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định.


Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
11


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội














Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Cho vay theo dự án đầu tư: Khi có nhu cầu đầu tư thực hiện các dự án kinh doanh dịch
vụ, dự án phát triển sản xuất hay các dự án đầu tư cho các công trình công cộng phục
vụ cho lợi ích chung của cả cộng đồng khác, các tổ chức tín dụng và các nhân đóng vai

trò nhà đầu tư sẽ tới ngân hàng xin cấp tín dụng.
Cho vay hợp vốn: Là phương thức cho vay trong đó một nhóm các tổ chức tín dụng
cùng cho vay đối với một dự án đầu tư hoặc phương án vay vốn của khách hàng.
Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra dàn xếp, phối hợp các tổ chức tín dụng
khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của qui chế cho vay hiện hành và
quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành.
Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay mà khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách
hàng xác định và thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để
trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời gian cho vay
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Trong nhiều trường hợp, khi khách hàng có
nhu cầu thực hiện vay vốn nhằm mục đích bảo đảm tín thanh khoản nhất thời nào đó,
tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn
mức nhất định. Tùy theo nhu cầu, thời gian hiệu lực và hạn mức cụ thể cho mức dự
phòng sẽ được giao hẹn từ trước một cách rõ ràng giữa ngân hàng cấp tín dụng và
người đi vay.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng
chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng
để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Tổ chức tín dụng cho phép khách hàng chi vượt mức
số tiền ghi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình phù hợp với các qui định của
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán.
Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định của
quy chế cho vay và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm
của khách hàng vay
(Nguồn: Tr.53 Giáo trình Kế toán ngân hàng, ĐHCNHN)
1.1.5.2 Chiết khấu cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển nhượng
thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho ngân hàng để đổi lấy một số tiền bằng
mệnh giá, trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có). Đây là một trong những

nghiệp vụ lâu đời nhất, xuất hiện từ thời các ngân hàng thương mại được thành lập,
nhưng nghiệp vụ cho vay cổ điển này của ngân hàng vẫn chiếm vai trò đáng kể và vẫn
được áp dụng rộng rãi cho đến ngày nay.
Xét trên góc độ quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia, có hai loại chiết khấu:

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
12


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Chiết khấu truy đòi: Là hình thức chiết khấu trong đó TCTD mua lại thương phiếu
theo giá trị hiện tại và khi đáo hạn có quyền yêu cầu thanh toán từ người phát hành.
Trong trường hợp người phát hành không có khả năng thanh toán thì TCTD có quyền
truy đòi đến khách hàng vay chiết khấu.
• Chiết khấu miễn truy đòi: Là hình thức chiết khấu trong đó TCTD mua hẳn thương
phiếu theo giá trị hiện tại và khi đáo hạn chỉ có quyền yêu cầu thanh toán từ người
phát hành.


Số tiền cho vay chiết khấu (PV) được tính theo công thức toán tài chính, theo đó
PV phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và thời hạn còn lại của thương phiếu.
PV=FV*(1+i)-n
Trong đó:






PV: Số tiền cho vay chiết khấu (giá trị hiện tại)
FV: Giá trị nhận được khi đáo hạn trong tương lại
i: Lãi suất chiết khấu
n: Thời hạn còn lại của thương phiếu
(Nguồn: Tr.64 Giáo trình Kế toán ngân hàng, ĐHCNHN)

1.1.5.3 Cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, trong đó ngân hàng
theo đơn đặt hàng của khách hàng mua tài sản về cho thuê và kết thúc hợp đồng thuê
khách hàng có thể mua lại tài sản theo giá thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
Nội dung của cho thuê tài chính:
Thời hạn thuê: Chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thời gian cần thiết để khấu hao tài
sản theo quy định, ít nhất 60% thời gian để khấu hao tài sản.
Ngân hàng không trích khấu hao tài sản cho thuê tài chính mặc dù tài sản này
vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng vì giá trị của tài sản được thu hồi dần qua tiền thuê.
Kết thúc hợp đồng thuê, nếu người thuê trả tài sản, gọi là giao dịch cho thuê tài
chính (leasing), nếu người thuê mua lại tài sản, gọi là giao dịch thuê mua (leasing –
purchase).
Định kỳ (thông thường là theo năm) ngân hàng thu tiền cho thuê tài chính bao
gồm cả tiền thuê gốc và lãi.
(Nguồn: Tr.68,69 Giáo trình Kế toán ngân hàng, ĐHCNHN)
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
13



Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Mặc dù hoạt động cho thuê đã trải qua hàng nghìn năm, nhưng cho đến thế kỷ
XX, loại hình nghiệp vụ này mới thực sự được nhìn nhận một cách đáng kể hơn, từng
bước trở thành một ngành kinh doanh thật sự hấp dẫn với các ngân hàng thương mại.
So với các nước trên thế giới hoạt động cho thuê tài chính xâm nhập vào Việt Nam
muộn hơn, hiện nay cả nước ta mới chỉ có khoảng 12 công ty cho thuê tài chính bao
gồm: các công ty cho thuê trực thuộc các ngân hàng thương mại, các công ty liên
doanh và công ty cho thuê 100% vốn nước ngoài.
Hoạt động cho thuê tài chính ra đời là hình thức tài trợ bổ sung, nhằm tạo thêm
những điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong việc hoàn thiện và nâng cao năng
lực cạnh tranh.
1.1.5.4 Bảo lãnh
Bảo lãnh ngân hàng được coi là một hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng
(bên bảo lãnh) cam kết bằng văn bản với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và trả
nợ cho ngân hàng số tiền đã trả thay.
Các loại bảo lãnh:






Bảo lãnh vay vốn

Bảo lãnh thanh toán
bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh dự thầu
Cam kết thanh toán L/C trả chậm...
(Nguồn: Tr.66 Giáo trình Kế toán ngân hàng, ĐHCNHN)

1.2 Chất lượng tín dụng
1.2.1 Khái niệm chung về chất lượng tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng về bản chất là mối quan hệ giữa người cho vay- ngân hàng
và người đi vay- khách hàng của ngân hàng dựa trên nền tảng uy tín và sự hiểu biết lẫn
nhau. Ngoài ra, xét trong tổng thể toàn nền kinh tế, sự hợp tác lẫn nhau này còn tạo ra
sự thuận lợi, phù hợp, lợi ích cho những thành phần khác có thể trực tiếp hay gián tiếp
có liên quan tới mối quan hệ này. Như vậy, theo một góc nhìn rộng hơn, mối quan hệ
tín dụng đó còn góp phần làm lợi chung cho toàn nền kinh tế. Do đó, chất lượng tín
dụng dưới giác độ vi mô chính là mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng là người
gửi tiền cũng như người vay tiền và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,
còn khi xét trên giác độ vĩ mô, đó là khả năng phù hợp với sự phát triển kinh tế của
toàn xã hội nói chung. Chất lượng tín dụng ngân hàng được hiểu cụ thể như sau:
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
14


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Đối với khách hàng: Về mục đích, khoản tín dụng được cấp phải phù hợp với lý

do, nhu cầu tín dụng của khách hàng. Ngoài ra, một số yếu tố cơ bản, thiết yếu khác
không thể không nhắc đến như lãi suất và kỳ hạn cần có sự hợp lý, cũng như đảm bảo
thủ tục đơn giản thuận tiện, vừa thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được
nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Tín dụng được sinh ra nhằm giải quyết, đáp
ứng những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất cũng nhưng thúc đẩy quá
trình lưu thông, phân phối hàng hóa, qua đó một mặt mang lại công ăn việc làm cho
người dân, một mặt tạo ra những hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội.
Nói rộng hơn, tín dụng giúp thúc đẩy quá trình sản xuất, tạo sự phát triển cho nền kinh
tế.
Đối với bản thân các ngân hàng thương mại: cần đảm bảo các nhân tố như
phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng đã thực hiện phải phù hợp với năng lực của ngân
hàng và đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và
có lãi, hạn chế mức thấp nhất rủi ro trong hoạt động, đồng thời đảm bảo lợi nhuận và
khả năng thanh khoản.
Như vậy, Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, mà dựa trên chỉ tiêu đó,
người ta có thể nhìn ra được sức đề kháng, khả năng thích ứng, biến đổi để bắt kịp với
những đòi hỏi không ngừng tăng của thị trường cũng như thể hiện sức mạnh của ngân
hàng với các đối thủ cạnh tranh cùng ngành và uy tín, tầm ảnh hưởng của nó với toàn
nền kinh tế
Chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm vừa cụ thể (có thể thể hiện qua
các chỉ tiêu định lượng như: kết quả kinh doanh, tỷ lệ nợ quá hạn, hiệu suất sử dụng
vốn vay...) lại vừa mang tính trừu tượng (thể hiện ở khả năng thu hút khách hàng, tác
động đến vấn đề xây dựng hình ảnh thương hiệu cho ngân hàng, tác động của nó đến
nền kinh tế...).
.
Chất lượng tín dụng là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động giữa những
con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung, do đó để
có chất lượng tín dụng cần có sự quản lý đồng bộ trong ngân hàng từ việc theo dõi, tìm
hiểu và loại trừ những nguyên nhân gây ra những cản trở trong việc cấp tín dụng.

Qua đó có thể rút ra kết luận là để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín
dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy
tín trong hoạt động.

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
15


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ở các ngân hàng
thương mại
Trong chiều dài lịch sử hàng trăm năm hình thành và phát triển, tín dụng ngân
hàng vẫn luôn giữ vững vị thế độc tôn, đóng vai trò là trung tâm trên mọi phương diện
của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì rủi ro trong
kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt, trong lĩnh vực tín dụng, khi mối quan hệ
được xây dựng trên yếu tố tâm lý, lòng tin,những rủi ro trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng còn trở nên đặc biệt nghiêm trọng do có tính dây chuyền, tính lây lan mạnh
mẽ và với thực tế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, những hệ lụy từ rủi ro tín dụng
ngày càng có ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế và có thể lan rộng sang quy
mô quốc tế.
Chính vì vậy, không giống với các thành phần khác trong nền kinh tế, Chính
phủ của tất cả các quốc gia trên thế giới luôn dành sự quan tâm, giám sát và đưa ra
những quy định mang tính đăc thù, hết sức chặt chẽ cho khối ngân hàng và các hoạt
động liên quan.

Đối với các ngân hàng thương mại, chất lượng tín dụng luôn là yếu tố hàng đầu
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng:
Chất lượng tín dụng tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các ngân hàng
thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn tín dụng và thu hút
được nhiều khách hàng, bởi lẽ sự phong phú và chất lượng của các sản phẩm dịch vụ
tạo ra một hình ảnh, uy tín cho ngân hàng tạo ra những khách hàng trung thành với
ngân hàng.
Chất lượng tín dụng tạo thuận lợi cho sự tồn tại của ngân hàng bởi vì chất lượng tín
dụng cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và những khoản lợi nhuận
để bổ sung vào vốn đầu tư.
Một ngân hàng muốn giảm thiểu sự chậm trễ, yếu kém còn tồn đọng trong những
hoạt động nghiệp vũ cũng như công tác quản lý, tránh nguy cơ thất thoát tài sản từ
những khoản vay rủi ro cao, đồng thời vẫn đảm bảo đem về lợi nhuận cao cho ngân
hàng thì yêu cầu tất yếu là phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng.
Chất lượng tín dụng củng cố mối quan hệ xã hội của ngân hàng bằng những điều
kiện lao động tốt nhất.
Chất lượng tín dụng cải thiện tình hình tài chính của ngân hàng, nâng cao uy tín,
tạo thế mạnh cho các ngân hàng trong cạnh tranh.

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
16


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh


Đứng trước sức ép cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ phía các đối thủ, mức độ yêu
cầu ngày một cao của thị trường cũng như những đòi hỏi, giám sát gắt gao của chính
phủ cùng mục tiêu chung là tăng trưởng kinh tế - xã hội và sự phát triển vững mạnh
của hệ thống ngân hàng, việc không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng là
cần thiết khách quan.
Ngoài ra, với toàn nền kinh tế, việc chất lượng tín dụng ngày càng nhận được
những sự quan tâm sâu sát do:
Muốn thực hiện tốt vai trò là trung tâm thanh toán chủ yếu trong nền kinh tế,
thực tế bặt buộc phải ngày càng đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng: chất lượng tín
dụng được đảm bảo sẽ làm tăng vòng quay vốn tín dụng, qua đó, chỉ một số lượng tiền
như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu
thông và củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế và nâng cao uy tín quốc gia: Thực vậy, do sự gắn bó mật thiết giữa hoạt động
tín dụng của các ngân hàng thương mại với khối lượng tiền mặt trong lưu thông, cho
nên thông qua các nghiệp vụ hiện đại như cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán
không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại được coi như một mắt xích vô cùng
quan trọng trong cơ chế tạo tiền, mở rộng số nhân tiền tệ trong nền kinh tế.
Chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian
tín dụng trong nền kinh tế: tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp
phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Tăng cường chất lượng tín dụng đồng nghĩa với
việc giảm thiểu lãng phí vốn do không sử dụng hết lượng tiền trong lưu thông giải
quyết mối quan hệ về cung cầu vốn trên thị trường, điều hoà và ổn định lưu thông tiền
tệ .
Chất lượng tín dụng góp phần làm lành mạnh hoá quan hệ tín dụng: Hoạt động
tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản, thuận tiện, đảm bảo nguyên tắc tín
dụng góp phần cho vay đúng các đối tượng cần thiết, giảm thiểu và xoá bỏ tình trạng
cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay ở khu vực nông thôn và miền núi xa xôi.
Tín dụng là một trong những công cụ đắc lực nhất của chính phủ trong việc
thực hiện các chủ trương, đường lối, định hướng về phát triển kinh tế - xã hội theo

phân bố địa lý, các ngành nghề và lĩnh vực đầu tư. Như vậy, nâng cao chất lượng tín
dụng là góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các
ngành các vùng trong cả nước, ổn định và phát triển nền kinh tế.
Từ những đòi hỏi thiết thực, khắt khe đó, sự hoàn thiện, nỗ lực của riêng những
ngân hàng thương mại là không đủ trong việc cải thiện chất lượng tín dụng. Điều này
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
17


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

còn đòi hỏi có sự tham gia, trợ giúp, quản lý đắc lực từ phía chính phủ bằng việc đưa
ra các cơ chế chính sách phù hợp, thêm vào đó là sự phối hợp nhịp nhàng và có hiệu
quả giữa các cấp các ngành là điều cần thiết.

1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng
Được tổng hợp từ rất nhiều chỉ tiêu khách quan, độc lập, không chỉ đến từ phía
khách hàng mà còn từ phía môi trường hoạt động kinh doanh, chất lượng tín dụng trở
thành một biến số hết sức nhạy cảm trong kinh doanh. Dưới đây là một số những nhân
tố có ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng tín dụng ngân hàng:
1.2.3.1 Nhân tố từ phía khách hàng
Khách hàng đến với ngân hàng nhằm mục đích kiếm nguồn tài trợ phục vụ cho
mục đích của mình dù là mục đích tài chính hay phi tài chính, do vậy chất lượng tín
dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng phụ thuộc lớn vào khách hàng và phương án
sử dụng vốn của khách hàng:

Mục đích sử dụng vốn: Được coi là vấn đề đầu tiên được ngân hàng xem xét tới
khi khách hàng yêu cầu được cấp tín dụng. Dựa trên mục đích của khoản vay quyết
định trực tiếp tới sự thành bại của kế hoạch, dự án sẽ được triển khai cũng như quy
mô, thời gian cần tài trợ, mức độ rủi ro, khả năng thu hồi của dự án.
Mục đích của phương án: Dự án có phù hợp với mục tiêu của ngành, của địa
phương và của cả nước không (mục tiêu này căn cứ vào định hướng phát triển của
từng địa phương, của đất nước trong từng thời kỳ).
Tính khả thi của phương án dự án: Quyết định khả năng thực hiện và tạo ra
nguồn để trả nợ cho ngân hàng.
Tính hợp pháp của phương án, dự án: Đây là đièu kiện tối thiểu đối với mọi
hoạt động nói riêng cũng như kinh doanh nói chun, một hoạt động dù có đem lại
nguồn lợi nhuận lớn đến đâu, nhưng không được pháp luật cho phép thì cũng không
được ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng để đảm bảo an toàn cho mình và đảm bảo tuân
thủ hoạt động đúng luật pháp.
Uy tín, khả năng của khách hàng: Tính khả thi của phương án, dự án không
những ảnh hưởng lớn bởi mục đích sử dụng vốn của khách hàng mà còn phụ thuộc vào
năng lực của khách hàng: Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, năng
lực tài chính, năng lực thị trường, năng lực quản lý, khả năng đáp ứng các điều kiện tín
dụng của ngân hàng, tư cách đạo đức:
1.2.3.2 Nhân tố từ phía ngân hàng
Là các nhân tố bên trong ngân hàng thuộc về bản thân ngân hàng trên tất cả các
mặt hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Sự tác động đó được
biểu hiện:
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
18



Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng là nguyên tắc cơ bản chi phối sự mở rộng tín dụng giúp
ngân hàng thiết lập kế hoạch tín dụng một cách chủ động trên cơ sở nghiên cứu tình
hình thị trường của ngân hàng. Chính sách tín dụng có nhiệm vụ nêu rõ những yếu tố
bao gồm quy mô cho vay tối đa trong danh mục cho vay, yếu tố pháp luật, cơ cấu danh
mục cho vay, những tiêu chuẩn chất lượng tín dụng.
Đảm bảo mỗi quyết định tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của
NHNN Việt Nam và phù hợp với thông lệ chung quốc tế. Ngân hàng tự quyết trong
việc xác định: Đối tượng có thể cho vay vốn, ràng buộc về tài chính, phương thức
quản lý hoạt động tín dụng, các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung
cấp, thời hạn điều kiện áp dụng các loại sản phẩm tín dụng khác nhau...
Xác định giới hạn áp dụng trong hoạt động tín dụng, đồng thời thiết lập môi
trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Khi có được chính sách tín dụng đúng đắn, ngân hàng sẽ đáp ứng được cơ bản
những điều kiện để thu hút khách hàng, trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật
cũng như đường lối chính sách của Đảng và nhà nước mà đảm bảo khả năng sinh lời
của hoạt động tín dụng ngân hàng. Do đó, việc xây dựng chính sách tín dụng linh hoạt,
phù hợp đối với ngân hàng trước những điều kiện mới của môi trường kinh doanh là
điều kiện để ngân hàng có chính sách tín dụng tốt.
Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong
việc cấp tín dụng với các bước cụ thể theo trình tự nhất định mang tính liên hoàn gắn
bó chặt chẽ với nhau. Một quy trình tín dụng hợp lý và sự tuân thủ quy trình tín dụng
của các cán bộ tín dụng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, giảm thiểu
rủi ro và nâng cao doanh lợi cho vay. Mỗi ngân hàng, mỗi loại cho vay có một quy
trình tín dụng riêng, tuy nhiên một quy trình tín dụng hợp lý phải bao gồm các giai

đoạn cơ bản sau: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng, phân tích tín dụng, quyết định tín
dụng, giải ngân, giám sát thu nợ và thanh lý tín dụng.
Chất lượng tín dụng ngân hàng có được đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào việc
thực hiện tốt quy trình tín dụng ở các khâu và sự phối hợp nhịp nhàng đồng bộ ở mỗi
khâu.
Công tác tổ chức và chất lượng nguồn nhân lực trong ngân hàng:
Nhằm tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng, đồn thời có thể
theo dõi quản lý sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay, tổ chức
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
19


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

ngân hàng cần được sắp xếp một cách khoa học, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ nhịp
nhàng giữa các phòng ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng
cũng như giữa ngân hàng với các cơ quan tài chính pháp lý khác... Đây là cơ sở để tiến
hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh và quản lý có hiệu quả nguồn vốn tín dụng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, bên cạnh những máy móc, thiết bị tiên
tiến...thì con người vẫn luôn là yếu tố quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Khi xã hội ngày càng
phát triển thì chất lượng nhân sự ngày càng phải được nâng cao để có thể đối phó kịp
thời và có hiệu quả với các tình huống khác nhau của hoạt động tín dụng ngân hàng.
Việc tuyển chọn nhân sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, trình độ chuyên môn cao
thể hiện bằng khả năng phân tích, xử lý các yêu cầu vay vốn, kiểm tra giám sát việc sử

dụng vốn vay của khách hàng sẽ giúp nâng cao hiệu quả các khoản vay. Việc vận hành
các hoạt động tín dụng ngân hàng bởi các nhân viên đủ tiêu chuẩn là yếu tố quyết định
sự thành công trong cho vay của ngân hàng.
Thiết bị công nghệ phục vụ hoạt động tín dụng ngân hàng
Nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu áp dụng các công nghệ tiên tiến vào
trong các nghiệp vụ của ngành tài chính ngân hàng là một ngành có vai trò quan trọng
và có tốc độ phát triển chóng mặt là cần thiết. Vì nó không những làm giảm khoản chi
phí bình quân cho các nghiệp vụ...tiết kiệm thời gian giao dịch...tạo cho cả ngân hàng
và khách hàng dễ dàng hơn trong việc nắm bắt các cơ hội đầu tư mới, đồng thời làm
giảm gánh nặng trong công tác quản trị nhân sự đối với ngân hàng...sự phân tích của
hệ thống công nghệ hiện đại sẽ nhanh, nhạy, chính xác và hạn chế được sự lợi dụng
quyền hạn của một số cán bộ ngân hàng đưa ra quyết định cho vay không đủ tiêu
chuẩn...Như vậy sự áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động tín dụng ngân hàng
cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng cũng như sự tác động của các nhân tố này
đến hoạt động tín dụng ngân hàng nhằm tìm ra biện pháp ngăn ngừa hạn chế rủi ro tín
dụng có thể xảy ra.
1.2.3.3 Nhân tố ảnh hưởng từ môi trường kinh doanh
Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng từ môi trường kinh doanh bao
gồm các nhóm nhân tố sau:
Nhân tố kinh tế:
Đây là nhân tố đầu tiên quan trọng trong nhóm nhân tố thuộc môi trường kinh
doanh bởi bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng diễn ra trong một môi trường kinh tế
nhất định và chịu tác động mạnh mẽ bởi môi trường đó.
Chính sách kinh tế của nhà nước:
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
20



Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Nhằm ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực để hạn chế
những tiêu cực và đảm bảo sự phát triển cân đối trong nền kinh tế cũng có tác động
định hướng cho hoạt động tín dụng và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Chu kỳ kinh tế:
Chu kỳ kinh tế có tác động trực tiếp và rõ nét đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Được biểu hiện qua các chỉ số kinh tế vĩ mô như: GDP, lãi suất, tỷ giá, lạm
phát... khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng là nền tảng cho quá trình sản xuất kinh
doanh của các đơn vị kinh tế diễn ra bình thường và không chịu tác động tiêu cực của
lạm phát và khủng hoảng. Trên cơ sở đó hoạt động tín dụng diễn ra một cách thuận lợi
nhu cầu tín dụng tăng phục vụ cho mục tiêu phát triển sản xuất, khả năng hoàn trả nợ
của khách hàng được đảm bảo. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế lại là mục tiêu của bất
kỳ một quốc gia nào, để tăng trưởng kinh tế có thể duy trì mức lạm phát nhất định để
tăng trưởng tín dụng, kích cầu đầu tư. Ngược lại, trong thời kỳ kinh tế đình trệ, sản
xuất kinh doanh bị thu hẹp, hoạt động tín dụng gặp khó khăn trên tất cả các lĩnh vực.
Nhu cầu vốn tín dụng giảm trong thời kỳ này, với các khoản tín dụng được thực hiện
cũng khó có thể được sử dụng có hiệu quả và trả nợ đúng hạn cho các ngân hàng
thương mại. Trường hợp mở rộng quy mô tín dụng quá mức có thể làm cho giá cả
tăng, lạm phát cao, các ngân hàng thương mại sẽ chịu thiệt hại do mất giá đồng tiền.
Sự tăng trưởng quá nóng của một nền kinh tế luôn báo trước những rủi ro. Đó là chưa
kể đến xu hướng tăng trưởng của một nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh của nó có
thể dẫn đến chạy đua trong sản xuất kinh doanh, nạn đầu cơ tích trữ làm nhu cầu vốn
tín dụng tăng quá cao và quá nhiều khoản tín dụng được thực hiện nhưng những khoản
này có thể khó được hoàn trả nếu sự phát triển sản xuất kinh doanh không có kế hoạch
dẫn đến suy thoái và khủng hoảng.

Tính cạnh tranh của thị trường: ảnh hưởng tới nguồn thu, lợi nhuận thậm chí
suy thoái và phá sản của khách hàng.
Môi trường tự nhiên:
Có thể mang lại khó khăn nhưng cũng có thể mang tới những điều kiện thuận
lợi cho ngân hàng và khác hàng mà khó có thể dự báo trước, thay đổi ngẫu nhiên qua
các năm. Đặc biệt đối với các khoản tín dụng được cấp cho các đơn vị hoạt động chịu
tác động lớn của môi trường tự nhiên như ngành nông nghiệp, khai thác thuỷ hản sản,
khai khoáng...đòi hỏi ngân hàng luôn phải thận trọng trong việc cấp tín dụng, không
nên tập trung nguồn tín dụng quá lớn vào một hoặc một số lĩnh vực hoạt động trong
môi trường chung tiềm ẩn nhiều rủi ro bất khả kháng...
Môi trường khoa học - công nghệ:
Sự tiến bộ của khoa học - công nghệ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh, năng lực cạnh tranh và hoạt động của các ngân hàng và đặt ra vấn đề thời đại
cho cả doanh nghiệp và ngân hàng về việc nắm bắt tiếp cận và sử dụng có hiệu quả
khoa học và công nghệ tiên tiến.
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
21


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Môi trường chính trị - pháp luật:
Sự ổn định về chính trị, sự thống nhất và hoàn thiện, sự thay đổi của chính sách
pháp luật có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động cũng như nguồn thu của các chủ thể
và mọi cá nhân trong nền kinh tế do đó cũng ảnh hưởng lớn đến chất lượng của hoạt

động tín dụng ngân hàng.

1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu quan trọng và phức tạp: nó không những
được thể hiện qua những góc cạnh, cách nhìn khác nhau mà khi đánh giá, nó vừa mang
tính chất trừu tượng lại vừa có nét cụ thể. Về cơ bản, việc cung cấp tín dụng cho khách
hàng phải đảm bảo mục tiêu hiệu quả, an toàn và lợi nhuận cho ngân hàng, do vậy chất
lượng tín dụng cần được thỏa mãn các yêu cầu theo những chỉ tiêu sau:

1.2.4.1 Các chỉ tiêu định tính
1.2.4.1.1 Việc thực hiện quy trình tín dụng
Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước cần phải thực hiện theo
một thủ tục nhất định trong việc cho vay. Bắt đầu từ việc xem xét đơn xin vay của
khách hàng đến khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Chất lượng tín dụng
phụ thuộc vào việc lập ra một quy trình tín dụng đảm bảo tính khoa học, vừa nhanh
chóng, thuận tiện vừa đảm bảo thực hiện nghiêm túc các bước của quy trình.
Một quy trình tín dụng thường gồm ba bước chính sau:
Bước 1: Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Giai đoạn này
chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc chấp
nhận các quy định về điều kiện và thủ tục cho vay của ngân hàng.
Bước 2: Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi dự báo rủi
ro: Việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng hiệu quả các hình thức kiểm tra
sẽ góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng tín dụng.
Bước 3: Thu nợ và thanh lý: Sự linh hoạt của cán bộ tín dụng của ngân hàng
trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro và hạn chế nợ quá hạn, bảo toàn
vốn và nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.4.1.2 Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ
Đây là biện pháp giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có được những thông tin về
thực trạng tín dụng cũng như hoạt động kinh doanh chung trong ngân hàng, nhằm xây
dựng, điều chỉnh, bổ sung các chính sách kinh doanh một cách hiệu quả nhất. Trong

lĩnh vực tín dụng thì kiểm soát bao gồm:

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
22


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Kiểm tra định kỳ do kiểm toán viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường hợp
ngoại lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán và các nghiệp vụ khác
liên quan đến cho vay.
Kiểm soát chính sách tín dụng và các thủ tục liên quan đến các khoản vay như:
kiểm soát thẩm quyền và điều hành, quản lý giám sát các khoản cho vay, kiểm soát hồ
sơ thủ tục cho vay...
Hoạt động kiểm soát giúp phát hiện những sai sót và nguyên nhân các sai sót
phát sinh trong quá trình thực hiện các khoản tín dụng, chính vì vậy mà ban lãnh đạo
có thể kịp thời khắc phục sai sót, tránh rủi ro và đảm bảo chất lượng tín dụng.
1.2.4.1.3 Mức độ hài lòng của khách hàng
Một trong những thách thức lớn nhất đối với hệ thống ngân hàng thương mại
trong điều kiện hội nhập là năng lực cạnh tranh. Một ngân hàng muốn phát triển bền
vững không thể không quan tâm đến giữ khách hàng sẵn có và tìm kiếm khách hàng
mới. Để làm được điều này cần phải thấu hiểu được mức độ hài lòng của khách hàng
về dịch vụ ngân hàng cung cấp cho họ, nhận diện những yếu tố làm khách hàng hài
lòng. Có thể đánh giá mức độ hài lòng thông qua các phiếu khảo sát, sản phẩm dùng
thử, phản hồi của khác hàng về các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, các ý kiến đóng

góp, thắc mắc qua trang web hoặc điện thoại...
Có nhiều yếu tố đánh giá trên bao trùm toàn bộ các khâu liên quan đến quá
trình cung cấp dịch vụ. Có yếu tố thể hiện trình độ chuyên môn của nhân viên ngân
hàng, có yếu tố phụ thuộc vào kỹ năng, thái độ phục vụ cũng như tác phong lịch sự
của người cung cấp dịch vụ, nhưng cũng có nhiều yếu tố không liên quan đến người
trực tiếp cung cấp dịch vụ như cách bài trí nơi giao dịch, công nghệ ngân hàng sử
dụng, quy trình cung cấp sản phẩm và bản thân sản phẩm,… Điều này nói lên một sự
thật rằng, chất lượng dịch vụ ngân hàng phụ thuộc vào nhiều khâu, liên quan đến nhiều
người ở các vị trí công việc khác nhau. Tất cả các yếu tố đó tổng hợp lại không nằm
ngoài mục đích nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu, sự kỳ vọng của khách hàng.

1.2.4.2 Các chỉ tiêu định lượng
Bên cạnh những chỉ tiêu định tính, chất lượng tín dụng cũng được phản ánh
bằng các chỉ tiêu mang tính định lượng nhằm hỗ trợ cho công tác quản trị ngân hàng
một cách có hiệu quả như: Nợ quá hạn, nợ xấu, trích lập dự phòng...
1.2.4.2.1 Nợ quá hạn, nợ xấu
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng hướng tới hai mục tiêu cơ bản: an
toàn và sinh lời. Song song với mục tiêu sinh lời các ngân hàng còn quan tâm đến các
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
23


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

chỉ số an toàn, đo lường mức độ rủi ro tín dụng như: nợ quá hạn, nợ rủi ro, nợ xấu, tỷ

lệ nợ có tài sản đảm bảo, tình hình trích lập và sử dụng dự phòng tín dụng.
Trước khi tìm hiểu về các chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ xấu ta tìm hiểu về quy định
phân loại nợ theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Điều 1
khoản 3 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi bổ sung một
số quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD, TCTD
thực hiện phân loại nợ theo 5 nhóm sau:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm:
Các khoản nợ mà TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng
thời hạn.
Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ
cả gốc và lãi đúng hạn.
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày.
Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ
chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc
và lãi đúng kỳ hạn điều chỉnh lần đầu).
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả
nợ lần đầu phân vào nhóm 2 theo quy định trên.
Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy
đủ theo hợp đồng tín dụng.
Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn dưới 30 ngày.
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

24

Luận văn tốt nghiệp


Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội

Khoa: Quản Lý Kinh Doanh

Các khoản nợ phải thực hiện nghĩa vụ theo cam kết quá hạn từ 30 ngày đến 90 ngày.
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm:
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được
cơ cấu lại lần thứ hai.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc
đã quá hạn.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc (hoặc) và lãi đã quá
hạn. Hoặc khi ngân hàng nhận thấy khách hàng sử dụng vốn sai mục đích ghi trong
hợp dồng tín dụng, hoặc tài sản đảm bảo giảm hoặc mất giá trị.
Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn thường được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức
độ chất lượng tín dụng và được xác định theo công thức:

Từ công thức trên, ta thấy: Tỷ lệ nợ quá hạn có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với
tổng dư nợ. Về lý thuyết, khi tổng dư nợ tăng lên trong khi số dư nợ quá hạn không
đổi, tỷ lệ nợ quá hạn sẽ giảm xuống. Tuy nhiên, trên thực tế, việc giảm tỷ lệ nợ quá
hạn thông qua phương pháp này thường gặp phải một số khó khăn, do khi đẩy mạnh
tăng trưởng tổng dư nợ, sẽ rất khó để có thể giữ nguyên số dư nợ quá hạn, thậm chí tỷ

lệ này còn có xu hướng tăng, nhất là khi nền kinh tế có những dấu hiệu không thuận
lợi. Vì vậy, biện pháp điều chỉnh tổng dư nợ nhằm giảm tỷ lệ nợ quá hạn đòi hỏi sự
nghiên cứu, tính toán thận trọng và chỉ có thể áp dụng trong những điều kiện kinh tế
thích hợp.
Tỷ lệ nợ quá hạn phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu tỷ lệ
nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho vay càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng tốt vì khả
năng thu hồi nợ cao, rủi ro tín dụng ở mức thấp và ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá hạn càng
lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao. Theo quy định thì tỷ lệ nợ nhóm 2 đến nhóm 5
chỉ được phép nhỏ hơn 5% tổng dư nợ.

Sv : Võ Thị Hương
Lớp: ĐH TCNH 4 – K5

Luận văn tốt nghiệp
25


×