Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật thực tiễn huyện tam bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.88 KB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT
(Niên khóa 2009 – 2013)

ĐỀ TÀI:
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT THỰC
TIỄN HUYỆN TAM BÌNH

Giảng viên hướng dẫn:
Nguyễn Hữu Lạc
Bộ môn Luật Hành Chính

Sinh viên thực hiện:
Phan Thúy Vy
MSSV: 5095397
Lớp: Luật Hành Chính K35

Cần Thơ, 11/2012

Cần Thơ, Tháng 5 Năm 2011


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................1
2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................2


3. Mục đích ngiên cứu....................................................................................2
4. Cơ sở phương pháp nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.....................2
5. Kết cấu đề tài..............................................................................................3

CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN...........................6
1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN
PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN.......................................................................................................................6
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản trong xử lý vi phạm hành chính. .......................6
1.1.2 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên ..............................................................7
1.2 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.................10
1.2.1 Khái niệm................................................................................................10
1.2.2 Đặc điểm.................................................................................................12
1.2.2.1 Đặc điểm sinh lí..............................................................................12
1.2.2.2 Đặc điểm tâm lí.............................................................................14
1.2.2.3 Đặc điểm về ý thức.........................................................................16
1.3 MỤC ĐÍCH VÀ NGUYÊN TẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ....................................17
1.3.1 Mục đích............................................................................................17
1.3.2 Nguyên tắc........................................................................................18
1.4 CƠ SỞ KHOA HỌC, QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM
..............................................................................................................................20
1.4.1 Cơ sở khoa học..................................................................................20
1.4.2 Quan điểm của Nhà nước..................................................................21

CHƯƠNG 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH

NIÊN...................................................................................................................23
2.1 CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH............................23
2.1.1 Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính..........................................23


2.1.1.1 Phạt cảnh cáo.................................................................................24
2.1.1.2 Phạt tiền.........................................................................................25
2.1.2.4 Các hình thức xử phạt bổ sung.......................................................26
2.1.2 Các biện pháp xử lý hành chính khác....................................................28
2.1.2.1 Giáo dục tại xã, phường, thị trấn...................................................28
2.1.2.2 Đưa vào trường giáo dưỡng...........................................................32
2.1.2.3 Đưa vào cơ sở chữa bệnh...............................................................37
2.1.3 Các biện pháp khắc phục hậu quả, ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo
đảm việc xử lý vi phạm hành chính.......................................................................38
2.1.3.1 Các biện pháp khắc phục hậu quả..................................................38
2.1.3.2 Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử
lý vi phạm hành chính...........................................................................................39
2.2 BIỆN PHÁP THAY THẾ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN..........................................................................40
2.2.1 Đối tượng áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính........40
2.2.2 Điều kiện áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chinh.........41
..................................................................................................................................
2.2.3 Thẩm quyền áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính.....41
2.2.4 Thủ tục xem xét áp dụng và thi hành biện pháp thay thế xử lý vi phạm
hành chính.............................................................................................................42
2.3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
..............................................................................................................................43
2.3.1 Các biện pháp xử phạt hành chính......................................................43

2.3.2 Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn........................................44
2.3.3 Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng................................................45
2.3.4 Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh...................................................46
2.3.5 Biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi
phạm hành chính...................................................................................................46

CHƯƠNG 3:THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN, PHƯƠNG
HƯỚNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN........................................................48
3.1 THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TAM BÌNH......................48
3.1.1 Khái quát chung về vị trí địa lí, điều kiện kinh tế xã hội ở địa bàn
Huyện Tam Bình-Vĩnh Long.................................................................................48


3.1.2 Thực trạng tình hình vi phạm hành chính của người chưa thành niên
trên địa bàn Huyện Tam Bình................................................................................49
3.2 NGUYÊN NHÂN CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM
PHÁP LUẬT........................................................................................................51
3.2.1 Từ bản thân người chưa thành niên....................................................51
3.2.2 Từ phía gia đình..................................................................................52
3.2.3 Từ phía nhà trường.............................................................................54
3.2.4 Từ phía xã hội.....................................................................................55
3.3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH ĐÓ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN.56
..................................................................................................................................
3.3.1 Phương hướng.........................................................................................56
3.3.2 Giải pháp.................................................................................................58

3.3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên....................................................................................58
3.3.2.2 Nâng cao hiệu quả; khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên..............61
3.3.2.3 Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật ở
người chưa thành niên và của các cơ quan nhà nước trên một số lĩnh vực để đạt
hiệu quả cao nên...................................................................................................63
3.3.2.4 Tăng cường vai trò của gia đình, sự phối hợp giữa nhà trường và
gia đình, giữa nhà trường và các cơ quan chức năng khác..................................66
3.3.2.5 Các giải pháp khác.......................................................................67
KẾT LUẬN ........................................................................................................74
..................................................................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình đổi mới và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người làm mục tiêu để thúc đẩy sự phát
triển thì vấn đề tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật càng trở thành
thực trạng đáng báo động bởi địa vị vô cùng quan trọng của tầng lớp trẻ đó đối với
sự ổn định, tồn tại và phát triển của mỗi nước đang phát triển, xã hội phải đối đầu
với những hệ quả do tác động của hành vi vi phạm pháp luật đó mang lại đối với
con người mà đặc biệt là người chưa thành niên. Hiện nay, trong hoàn cảnh của
đất nước đang có những thay đổi, biến đổi khá sâu rộng về nhiều mặt thì theo xu
hướng chung đó trên địa bàn Huyện Tam Bình nói riêng, là một Huyện đang trong
giai đoạn vươn mình phát triển của Thành Phố Vĩnh Long bên cạnh những thành
quả đạt được đã xuất hiện một thực trạng đáng lo ngại là tình hình người chưa
thành niên vi phạm pháp luật đang dần gia tăng. Hậu quả tiêu cực của người chưa
thành niên vi phạm pháp luật không chỉ ảnh hưởng một cách không tốt đến nền
kinh tế còn đang trên đà phát triển của Huyện mà còn ảnh hưởng đến những chuẩn

mực sống, giá trị đạo đức của dân tộc ta.Vì lẽ đó, “Xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật-thực tiễn Huyện Tam Bình” là đề tài
được sinh viên chọn để nghiên cứu nhằm tìm thấy những nguyên nhân của tình
hình vi phạm và hạn chế của thực trạng xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp
luật ở Huyện Tam Bình, đồng thời có những ý kiến đóng góp để kéo giảm tình
hình vi phạm của người chưa thành niên đang và sẽ là lực lượng lao động có trình
độ trong tương lai và trọng yếu của Huyện.
Thực tế cho thấy những năm gần đây trên địa bàn Huyện Tam Bình tình
hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ngày càng gia tăng đòi hỏi cần có
một cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, để vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, vừa nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh
có hiệu quả chống lại những hành vi vi phạm pháp luật do người chưa thành niên
thực hiện. Với mong muốn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng


cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trong thực tiễn. Đối tượng nghiên cứu của
đề tài là người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
và các quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với họ. Đề tài có ý nghĩa là
những nghiên cứu cơ bản, xuất phát từ thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng
các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nguyên nhân người
chưa thành niên vi phạm pháp luật hành chính, những biện pháp xử lý vi phạm
hành chính được áp dụng với đối tượng đặc biệt này. Để từ đó giúp chúng ta có
những phương hướng, giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu tới mức thấp nhất số
lượng người chưa thành niên vi phạm pháp luật cũng như tạo điều kiện cho người
chưa thành niên phát triển nhân cách một cách bình thường. Xử lý hành chính với
người chưa thành niên là hoạt động cưỡng chế, áp dụng các biện pháp hạn chế
những quyền và lợi ích nhất định với người chưa thành niên có hành vi trái

pháp luật, là giai đoạn mà sự can thiệp của Nhà nước còn nhằm mục đích giáo
dục, quản lý, phòng ngừa với người chưa thành niên đã có những biểu hiện sai
lệch trong hành vi. Đề tài lấy cơ sở pháp lí chủ yếu là Pháp Lệnh Xử Lý Vi Phạm
Hành Chính năm 2002 (Đã được sữa đổi, bổ sung các năm 2007, 2008). Bên cạnh
đó đề tài còn tiếp thu những điểm mới, sữa đổi hay bổ sung những qui định về
biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên được định
hướng trong Luật Xử Lý Vi Phạm Hành Chính sẽ có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm
2013.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Trên cơ sở đó phân
tích những ưu điểm và hạn chế của của các biện pháp xử lý đối với họ, tìm hiểu về
nguyên nhân vi phạm. Đồng thời, ghi nhận những điểm mới của Luật xử lý vi
phạm hành chính. Cuối cùng người viết đưa ra những giải pháp để góp phần kéo
giảm tình hình người chưa thành niên vi phạm trên địa bàn Huyện Tam Bình.
4. Cơ sở phương pháp luận và Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài là nền tảng cơ
bản để xây dựng đề tài với nội dung và hình thức một cách logic và khoa học. Cơ
sở phương pháp luận của việc nghiên cứu này là những quy luật, phạm trù đã được


các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin tìm tòi, khám phá, đó là thuyết duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, cho nên lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và
nhà nước và pháp luật kết hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
là cơ sở định hướng lý luận của việc nghiên cứu.
Trong đề tài, người viết đã sử dụng nhiều phương pháp bao gồm: phương
pháp nghiên cứu và tổng hợp những bài nghiên cứu, ý kiến của các đại biểu Quốc
hội, quy định của pháp luật Việt Nam và một số quốc gia khác,…kết hợp phương
pháp phân tích, so sánh, đối chiếu những quy định của pháp luật để tìm ra điểm
mới, những mặt đã đạt được cũng như những mặt còn hạn chế để có thể đưa ra

những giải pháp cần thiết, từ đó có được một bài nghiên cứu hoàn chỉnh.
5. Kết cấu luận văn
Bên cạnh lời nói đầu, mục lục, tài liệu tham khảo và kết luận. Bố cục luận
văn “Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp
luật-thực tiễn huyện Tam Bình” gồm các chương sau đây:
Chương 1: Lí luận chung về xử lý vi phạm hành chính đối với người
chưa thành niên
Chương 2: Qui định của pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính
đối với người chưa thành niên
Chương 3: Thực trạng và nguyên nhân, phương hướng, giải pháp hoàn
thiện các quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên
Người viết có sử dụng trong luận văn những từ như: “Người chưa thành
niên”, “trẻ”, “con trẻ”, “trẻ vị thành niên”, “họ”. Đều nhằm để chỉ một đối tượng
chung và có liên quan mật thiết với đối tượng là người chưa thành niên được
nghiên cứu và tìm hiểu chủ yếu trong luận văn.


Danh mục các từ viết tắt
VPPL

Vi phạm pháp luật

VPHC

Vi phạm hành chính

XLHC

Xử lý hành chính


XLVPHC

Xử lý vi phạm hành chính

PLXLVPHC

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính

LXLVPHC

Luật xử lý vi phạm hành chính

HĐND
UBND
NCTN

Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Người chưa thành niên


LỜI CẢM ƠN
Đề tài nghiên cứu : “Xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên vi phạm pháp luật-thực tiễn huyện Tam Bình” dù đã cố gắng rất nhiều, song
trong quá trình thực hiện đề tài có gặp khó khăn do sự hạn chế về kiến thức lí luận
cũng như thực tiễn tìm kiếm số liệu mới nhất có liên quan. Vì vậy, đề tài sẽ không
tránh khỏi thiếu sót. Kính mong giáo viên hướng dẫn và quý Thầy, Cô thông cảm
và đóng góp ý kiến để bài luận văn hoàn thiện hơn. Sinh viên thực hiện xin chân
thành gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy Nguyễn Hữu Lạc trong thời gian qua đa tận

tình hướng dẫn và truyền đạt tận tình cũng như giải đáp mọi thắc mắc để người
viết hoàn thành bài luận văn. Người viết cũng gửi lời cảm ơn đến quý Thầy, Cô
khoa Luật, thư viện khoa Luật cùng tập thể các bạn đã quan tâm giúp đỡ tạo mọi
điều kiện thuận lợi trong quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tam Bình, tháng 11 năm 2012
Người viết

Phan Thúy Vy


CHƯƠNG 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Chương này người viết trình bày khát quát chung về xử lý vi phạm hành
chính và người chưa thành niên. Trước tiên là nêu khái quát chung về quá trình
hình thành các quy định của pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên. Sau đó tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm về
tâm lí, sinh lí và ý thức pháp luật của đối tượng đặc biệt này. Tiếp đến, người viết
đề cập đến mục đích và nguyên tắc trong việc xử lý vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên. Sau cùng là phần trình bày về cơ sở khoa học cũng như
quan điểm của Nhà nước trong việc xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên.
1.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ

BIỆN PHÁP XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản trong xử lý vi phạm hành chính



Vi phạm hành chính:

Thuật ngữ vi phạm hành chính xuất hiện trong thời gian gần đây. Trước khi
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ban hành ngày 30/11/1989 thì người ta
không gọi là vi phạm hành chính mà gọi là vi cảnh. Từ sau ngày 30/11/1989 đến
khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành ngày 6/7/1995 thì người ta
gọi là vi phạm hành chính. Trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 cũng
như Pháp lệnh hiện hành (có hiệu lực ngày 01/10/2002) không đưa ra khái niệm vi
phạm hành chính mà chỉ đưa ra khái niệm xử lý vi phạm hành chính, bao gồm:


-

Xử phạt vi phạm hành chính;

-

Các biện pháp xử lý hành chính khác.

Căn cứ vào khoản 2, Ðiều 1Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) về khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và
dưới góc độ pháp lý ta có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.1
Bên cạnh đó thì Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 có hiệu lực 1/7/ 2013 có quy
định cụ thể hơn về khái niệm vi phạm hành chính tại Khoản 1 Điều 2 như sau:
1. Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.



Xử phạt vi phạm hành chính:

Ta có thể đưa ra khái niệm xử phạt vi phạm hành chính như sau: Xử phạt vi phạm
hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang tính quyền
lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính; biểu hiện ở việc áp dụng các
chế tài hành chính gây cho đối tượng bị áp dụng thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần và do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh nhà nước thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Luật xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể hơn tại Khoản 2 Điều 2 như sau:
2. Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp
dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức
thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính.
Để làm rõ hơn về một số khái niệm cơ bản được sử dụng nhiều trong luận văn,
người viết xin nêu lên một số khái niệm được Luật xử lý vi phạm hành chính mới
đề cập tại Khoản 3, Khoản 4 Điều 2 như sau:

1

Ts. Phan Trung Hiền, Phương cách quản lý nhà nước, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam,
phần 2, trang 30.


3. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân
vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm,
bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng;
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
4. Biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính là biện pháp mang tính

giáo dục được áp dụng để thay thế cho hình thức xử phạt vi phạm hành chính
hoặc biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm hành
chính, bao gồm biện pháp nhắc nhở và biện pháp quản lý tại gia đình.
1.1.2 Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Trải qua 40 năm kể từ khi những qui định đầu tiên về xử lý vi phạm hành
chính ra đời, Pháp lệnh về XLVPHC đã và đang được xây dựng ngày càng hoàn
thiện về cả nội dung và hình thức. Tuy nhiên, những qui định về xử lý vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên chỉ thật sự ra đời năm 1977 với điều lệ
xử phạt vi cảnh được ban hành kèm theo Nghị định số 143(NĐ/143/NĐ-CP ngày
27/5/1977). Điều lệ xử phạt vi cảnh2 là văn bản đầu tiên qui định có hệ thống về
xử phạt vi phạm hành chính. Trước đó Thủ Tướng chính phủ đã ra quyết định về
tổ chức lại các trường giáo dưỡng thiếu niên, trường phổ thông công nghiệp là
tiền thân của trường giáo dưỡng ngày nay.3 Đối tượng của quyết định này là những
người chưa thành niên có hành vi nguy hại cho xã hội và lu manh chuyên nghiệp,
tuy nhiên đây là những đối tượng phạm pháp hình sự.
Điều lệ xử phạt vi cảnh chỉ qui định về vi phạm hành chính và xử phạt hành
chính trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội do phạm vi rộng nên những qui
định đối với người chưa thành niên vẫn chưa cụ thể. Sau một thời gian ngày
30/11/1989 Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính4
có hiệu lực ngày 1/1/1990 đánh dấu bước phát triển trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên trong lịch
sử pháp luật Việt Nam những vấn đề mang tính nguyên tắc về XPVPHC được thể
hiện tập trung trong một văn bản, đặc biệt những qui định đối với người chưa
thành niên cũng được kế thừa và phát huy, sau hơn 5 năm thì Pháp lệnh 1989
không phù hợp. Ngày 6/7/1995 UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính thay thế có hiệu lực 1/8/1995 điểm mới là ngoài biện pháp xử phạt còn
qui định thêm những biện pháp xử lý hành chính khác đối với cá nhân có hành vi
2


Điều lệ xử phạt vi cảnh.
Quyết định 217TTg/NC ngày 18/2/1967.
4
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 1989, Điều 29.
3


vi phạm pháp lý về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự. Cũng vì sự mở rộng này mà Pháp lệnh xử phạt hành
chính được gọi là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.5 Các biện pháp xử lý hành
chính khác bao gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng;
đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. Tuy
nhiên, nhìn chung các qui định cụ thể về biện pháp xử lý đối với người chưa thành
niên không nhiều. Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các qui định pháp luật về xử lý
VPHC Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 ra đời thay thế cho PLXLVPHC 1995 được
Ủy Ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 2/7/2002 có hiệu lực ngày
1/10/2002.6 Pháp lệnh ra đời có ý nghĩa về thực tiễn và lí luận vì có những qui
định đối với người chưa thành niên có nhiều điểm mới để phù hợp với đối tượng
này.
Cũng như các lĩnh vực quan trọng khác trong đời sống xã hội pháp luật về
xử lý đối với “người chưa thành niên” vi phạm pháp luật hành chính cũng thể hiện
rõ chính sách của Đảng, nhà nước thể hiện trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành năm 2002, được sửa đổi, bổ
sung một số lần ở năm 2007, 2008. Nhìn chung, qua mỗi lần sửa đổi bổ sung hoặc
thay thế, Pháp lệnh đã được hoàn thiện thêm một bước, góp phần đắc lực vào việc
đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, trật tự quản lý nhà nước. Đối tượng điều
chỉnh bao gồm mọi công dân trong đó có đối tượng là “người chưa thành niên”.
Đối với các quy định đối với “người chưa thành niên” vi phạm cũng được quy
định trên 2 lĩnh vực là xử phạt vi phạm và các biện pháp xử lý hành chính khác
(bao gồm 4 biện pháp, trong đó “người chưa thành niên” bị áp dụng 3 biện pháp).

Tuy nhiên, về kỹ thuật lập pháp, mặc dù chỉ có một vài điều quy định trong Pháp
lệnh nhưng cơ bản thể hiện những nguyên tắc, chính sách của nhà nước ta. Cụ thể
các quy định những nguyên tắc điều kiện, nguyên tắc phân định về độ tuổi “người
chưa thành niên” bị xử phạt, bị áp dụng các hình thức phạt. Đối với việc áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác trong Pháp lệnh quy định cũng chỉ rất khái
quát tại một số điều.7
Phải khẳng định rằng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có vai trò rất
5

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995.
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính số 44/2002/UBTVQH10 được Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội ban hành ngày 02/7/2002, có hiệu lực 01/10/2002; được sửa đổi một số điều bởi Pháp lệnh số
31/2007/UBTVQH11 ngày 08/3/2007 và sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Pháp lệnh số
04/2008/UBTVQH12 ngày 02/04/2008.
6

7

Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính do Ủy Ban thường vụ Quốc hội ban hành năm 2002, được
sửa đổi, bổ sung một số lần (năm 2007, 2008), Điều 22, 23, 24, 25.


quan trọng trong đời sống xã hội, phạm vi điều chỉnh tất cả lĩnh vực quản lý của
nhà nước có ý nghĩa quan trọng cả về thực tiễn và lý luận, góp phần tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc trong công tác xử lý vi phạm hành chính, tăng cường tác
dụng răn đe, giáo dục người vi phạm, thiết lập trật tự, kỷ cương trong đời sống xã
hội. Điều quan trọng là rất nhiều nội dung liên quan đến quyền cơ bản của công
dân được quy định trong Hiến pháp và Pháp lệnh chẳng hạn quyền tự do, quyền sở
hữu tài sản. Do đó, Pháp lệnh do Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ban hành là không
phù hợp với xu hướng của Nhà nước pháp quyền, những vấn đề liên quan đến

quyền cơ bản của công dân cũng như tổ chức quyền lực của cơ quan, người có
thẩm quyền phải do Quốc hội quyết định với hình thức văn bản Luật. Để đáp ứng
yêu cầu trước tình hình mới Quốc hội ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính có
hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2013.
1.2 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.2.1 Khái niệm
Hiện nay đối với khái niệm người chưa thành niên ở nước ta được quy định
tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, với những tên gọi khác chủ yếu là “người
chưa thành niên”,“trẻ em” và “vị thành niên”. Để làm rõ thêm những khái niệm
này giống và khác nhau như thế nào người viết xin đưa ra một số dẫn chứng như:
Từ điển tiếng việt (Viện ngôn ngữ học, 2004) ghi nhận “thanh niên” là
người ở độ tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ,“vị
thành niên” là chưa đến tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ.
Theo từ điển luật học (nhà xuất bản Bách Khoa, Hà Nội 1999) không đưa
ra khái niệm “thành niên” trước mà đưa ra khái niệm “vị thành niên” và chú giải là
người chưa thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật coi là có đủ khả năng
để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Theo đó người chưa đủ 18
tuổi là “vị thành niên”.Từ điển Luật học đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, theo đó
“người chưa thành niên” là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên theo định nghĩa này thì
khi chưa thành niên sẽ không được pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm, nhưng mỗi ngành luật lại có những qui
định khác nhau căn cứ vào đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên, ý thức của
họ khi tham gia vào quan hệ xã hội bị điều chỉnh bởi những qui phạm của ngành
luật đó cụ thể:


Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: " Trẻ em quy định
trong luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi".8 Trong khi đó, Công ước của
Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (20/11/1989) được Việt Nam phê chuẩn năm 1990

lại xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ
em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1). Như vậy, nếu theo Công ước
của Liên Hợp quốc, thì nhóm tuổi vị thành niên theo quan niệm mà chúng ta vẫn
thường hiểu xưa nay hoàn toàn có thể được xếp vào nhóm trẻ em.
Bộ luật Dân sự Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định
rằng :"...Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên"; Điều 20 quy định năng
lực hành vi dân sự của người chưa thành niên là từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
và đồng thời cũng lại quy định trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi
có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.9
Bộ luật Hình sự của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội thông qua ngày 21/12/ 1999, tại chương X quy định" Người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
của chương này...", tiếp đó Điều 69 khoản 5 lại có sự phân biệt trách nhiệm hình
sự của người chưa thành niên đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi.10
Trong khi đó, trên khía cạnh những vấn đề về lao động và việc làm, Bộ
Luật lao động của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại có quy định như
sau: Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao
kết hợp đồng lao động ( Điều 6), Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi
( Điều 119 khoản 1). Trẻ em là người dưới 15 tuổi ( Điều 120).11
Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định độ tuổi người chưa thành niên là
rất khó, việc đồng nhất khái niêm “chưa thành niên”,”vị thành niên” và “trẻ em” là
không hợp lí. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất cho rằng không nhất thiết
phải có một khái niệm cụ thể về người chưa thành niên, chỉ cần xác định người
chưa thành niên bao gồm những người ở lứa tuổi nào, hợp lí nhất là những người
ở độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi bởi đây là giai đoạn mà theo tâm lí học là
giai đoạn có những biến đổi cơ bản nhất, ở độ tuổi này người chưa thành niên
chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
8


Luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Điều 1.
Bộ Luật dân sự 2005, Điều 18, Điều 20.
10
Bộ Luật Hình Sự 1999 của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Điều 68, Khoản 5
Điều 69.
11
Bộ Luật lao động 1994 (23/6/1994), sửa đổi bổ sung 2002, 2006, 2007.
9


nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Mặt khác, khi nghiên cứu về các biện
pháp xử lý VPHC đối với người chưa thành niên theo Pháp lệnh XLVPHC thì trẻ
em và người chưa thành niên từ đủ 12 tuổi có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính khác. Pháp lệnh XLVPHC cũng không có một điều nào qui định cụ thể
người chưa thành niên là người ở độ tuổi nào nhưng có thể thấy được đối tượng
người chưa thành niên bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là người từ đủ
12 đến dưới 18 tuổi.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn
độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, trong pháp
luật Việt Nam “trẻ em và người chưa thành niên là hai khái niệm khác nhau được
xác định căn cứ vào độ tuổi. Mặc dầu các quy định về người chưa thành niên và
trẻ em trong các đạo luật ở nước ta có khác nhau về độ tuổi nhưng giữa “người
chưa thành niên” và “trẻ em”có đặc điểm chung trên cơ sở đó là được xây dựng
dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người được giới hạn
bằng độ tuổi; ở lứa tuổi này nhìn chung “người chưa thành niên” và “trẻ em” cơ
thể chưa phát triển đầy đủ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, tâm sinh lí chưa vững
vàng ổn định do đó quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác với người thành niên.
Tuy nhiên, tuỳ từng mối quan hệ mà độ tuổi của “người chưa thành niên” và “trẻ

em” cũng được quy định khác nhau với mục đích là bảo đảm cho họ quyền lợi phù
hợp với đặc điểm của họ về mặt thể chất và tinh thần. Nhìn ở các góc độ khác thì
“người chưa thành niên” và “trẻ em” có thể được thể hiện bằng nhiều cách khác
nhau theo lứa tuổi, học sinh tiểu học, trung học phổ thông hoặc đội viên thiếu nhi,
đội viên đội thiếu niên tiền phong, đoàn viên. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu
người viết chỉ nghiên cứu dựa trên những qui định dựa trên Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi 2007, 2008) qui định tại Điều 7 là người từ
đủ 12 đến dưới 18 tuổi và định hướng phát triển là Luật XLVPHC sẽ có hiệu lực
ngày 1 tháng 7 năm 2013.
1.2.2 Đặc điểm
Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả
quá trình phát triển và hoàn thiện. Ở giai đoạn này các em chưa phát triển đầy đủ
về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, người chưa thành niên là những
người không phải trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn. Trình độ nhận thức
và kinh nghiệm sống của họ còn bị hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, thiếu điều


kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, dễ bị lôi
kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Họ thường chưa làm chủ được
hành vi của mình, luôn hướng tới sự ham thích mới lạ, hiếu động, bồng bột, nhẹ
dạ, thiếu kinh nghiệm sống, dễ va vấp. Chính vì vậy, họ không ý thức được hậu
quả của những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Nghiên cứu người chưa thành
niên qua các đặc điểm tâm sinh lí sẽ lí giải được cơ sở khoa học của những qui
định pháp luật nói chung và của Pháp lệnh XLVPHC nói riêng dành cho đối tượng
đặc biệt này.
1.2.2.1 Đặc điểm sinh lí
Tuổi chưa thành niên được định nghĩa là giai đoạn chuyển tiếp của sự
tăng trưởng và phát triển từ cuối tuổi trẻ em đến bắt đầu tuổi trưởng thành, cụ
thể từ 12 đến 18 tuổi. Giai đoạn này bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối về mặt
sinh lí. Trọng lượng cơ thể phát triển nhanh, cân nặng của thanh niên 16, 17

tuổi có thể gấp đôi cân nặng của thiếu niên. Các tố chất thể lực như sức mạnh,
sức bền, sự dẻo dai được tăng cường. Sự phát triển của hệ thần kinh có những
thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng
não phát triển, hệ thần kinh chưa có khả năng chịu được kích thích mạnh có thể
gây ức chế, lãnh đạm, uể oải đôi khi cư xử không đúng vi phạm đạo đức xã hội
hơn nữa là vi phạm pháp luật.Vì là có sự chuyển biến mạnh mẽ về khí chất
cũng như tâm lí nên nhiều khi các em không làm chủ bản thân, không kiềm chế
được cảm xúc dễ bị kích động, chỉ cần những va chạm nhỏ cũng có thể dẫn đến
gây gỗ, đánh nhau thậm chí sử dụng hành vi bạo lực để giải quyết vấn đề mà
bất chấp hậu quả xảy ra. Người vị thành niên được dẫn dắt tới một cách tư duy
hoàn toàn mới mẻ. Lần đầu tiên họ có khả năng thực nghiệm được tư duy trừu
tượng hay tư duy hình thức. Đó thực sự là đỉnh cao của cái đã xây dựng được
trong suốt thời kỳ trẻ em. Tất cả các quá trình tư duy đều được tổ chức lại ở
một tầm cao hơn, tầm của những người trưởng thành
Đây là thời kỳ trưởng thành về giới tính và sự phát triển trong quá trình
này là khá hoàn chỉnh. Đa số các em đã vượt qua thời kỳ phát dục, những
khủng hoảng tuổi dậy thì chấm dứt để chuyển sang thời kỳ ổn định hơn, cân
bằng hơn, xét cả trên các mặt hoạt động hưng phấn, ức chế của hệ thần kinh
cũng như các mặt phát triển khác của cơ thể về thể chất. Sự phát triển kịch tính
của các cơ quan sinh dục dẫn đến sự thức tỉnh và các ham muốn tính dục,
nhưng lại có những ràng buộc rất nghiêm ngặt chi phối các ứng xử tính dục của
người vị thành niên, mặc dù chín muồi về chức năng sinh lý, người vị thành


niên vẫn được xem là trẻ em về mặt cảm xúc và xã hội. Giai đoạn này tuyến nội
tiết hoạt động mạnh gây nên hiện tượng mất cân bằng chung dễ xúc động hay
bực tức và nổi nóng, phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những người xung
quanh, những sự việc không hài lòng.12
Tất cả cơ, xương, khớp và đều có một giai đoạn lớn nhanh, khiến chúng
đặc biệt dễ bị căng và đau, xương tay, chân phát triển rất nhanh, xương ngón

tay, ngón chân ngược lại phát triển chậm hơn tạo cơ thể phát triển không cân
đối nên ở giai đoạn này người chưa thành niên thường lóng ngóng, vụng về hay
làm đỗ vở đồ đạc. Chức năng vận động tiếp tục phát triển, người vị thành niên
có thêm sức lực, thêm khả năng phối hợp, khả năng chịu đựng. Cơ bắp, sức lực
phát triển mạnh dễ đạt những thành tích trong thể thao.
Trong sự tăng trưởng của hệ tim mạch, quả tim có thể quá nhỏ không
chống đỡ nổi các căng thẳng gây mệt mỏi, chóng mặt, nên người vị thành niên
cần được bảo vệ để tránh bị kiệt sức ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt cũng
như tâm lí ở giai đoạn này. Do những biến đổi sinh lí như đã nêu trên nên ở giai
đoạn này người chưa thành niên nhìn chung vẫn chưa phát triển đầy đủ về đặc
trưng sinh lí như người trưởng thành.
1.2.2.2 Đặc điểm tâm lí
Đặc trưng cơ bản của nhóm vị thành niên biểu hiện trước hết ở vị trí vai trò
của nó trong đời sống xã hội cũng như trong chính cuộc đời của mỗi người. Nếu
trong cuộc đời, tuổi vị thành niên là giai đoạn quan trọng, giai đoạn bản lề có thể
quyết định toàn bộ cuộc sống sau này của mỗi người thì trong xã hội, thế hệ vị
thành niên bao giờ cũng đại diện cho một sự chuyển tiếp vào các thế hệ mới,
hướng tới tương lai. Nguồn nhân lực cho sự phát triển được nảy sinh, bảo vệ, nuôi
dưỡng từ tuổi trẻ em, bổ sung và hoàn thiện dần về thể chất, tri thức và nhân cách
từ vị thành niên và bắt đầu thực sự đóng góp cho xã hội ở những giai đoạn sau đó.
Người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên vi phạm pháp luật nói
riêng là người đang trong quá trình phát triển về sinh lí lẫn tâm lí, ý thức,do sự
trưởng thành và tích lũy ở những giai đoạn trước, người chưa thành niên đã có một
vị trí xã hội mới đó là họ không hoàn toàn còn trẻ con nhưng chưa phải là người
lớn.13

12

GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội, Trách nhiệm của gia đình,
nhà trường và xã hội, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, năm 2004, trang 184.

13

Giáo trình tâm lí học tội phạm, trường Đại Học Luật Hà Nội, nhà xuất bản CAND trang 116.


Các nhà tâm lý học đều đã viết và nói nhiều về sự đa dạng và phức tạp
trong tình cảm, tâm lý trầm tư, u uất, sự khép mình vào thế giới nội tâm của nhiều
bạn gái trẻ, hoặc thái độ ngang bướng thậm chí phá phách, muốn khẳng định mình
ở các bạn trai, khi ở vào tuổi vị thành niên. Do vậy, có thể nói rằng, tuổi vị thành
niên cũng là giai đoạn có nhiều biến động nhất trong sự hình thành các giá trị đạo
đức, lối sống và nhân cách của mỗi người. Để rồi, khi vượt qua lứa tuổi này, con
người có thể bước vào đời như những công dân tương lai với tất cả những gì được
tạo dựng từ đó, những tốt và xấu, những đúng đắn và sai lệch đan xen nhau, đấu
tranh với nhau trong suốt quãng đường còn lại của đời người. Ở lứa tuổi này tâm lí
các em cũng có những thay đổi rõ rệt. Có thể nói lứa tuổi này được tạo thành bởi
nhiều yếu tố khác nhau. Những biểu hiện của tâm lí không diễn ra lập đi lập lại,
mỗi biểu hiện chỉ xảy ra trong một giai đoạn nhất định. Điều này tạo nên đặc trưng
cơ bản cho lứa tuổi này:
Nhu cầu tự khẳng định đòi hỏi mọi người phải đối xử với mình như người
lớn và khước từ mọi sự áp đặt của người lớn: Ở tuổi này, các em có xu hướng tách
ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ. Khi bắt đầu thoát khỏi ảnh hưởng của gia đình, quan
điểm của các em về bản thân, về cha mẹ và về thế giới nói chung sẽ thay đổi rất
nhiều. Khi được tự chủ nhiều hơn, các em không còn cho mình là trẻ con nữa
nhưng cũng nhận ra rằng mình chưa phải là người lớn, các em bắt đầu tìm câu trả
lời cho vô số câu hỏi. Để tạo nên bản sắc của riêng mình và để trở thành người lớn
khoẻ mạnh, có trách nhiệm, biết lao động sản xuất và có đạo đức, các em cần được
tiếp cận với các hệ thống hỗ trợ cũng như cơ hội để phát triển những mối quan hệ
gần gũi, gắn bó với gia đình, nhà trường, bạn bè và cộng đồng. Nếu thiếu sự hỗ trợ
này, các em sẽ bị người khác lạm dụng và bóc lột. Sự hỗ trợ của gia đình, trường
học, bạn bè, người thân sẽ tạo ra một môi trường an toàn trong đó các em vừa

được bảo vệ, vừa có khả năng chủ động và độc lập. Đây là một lĩnh vực cần quan
tâm nhưng phải kiên trì, mềm dẻo, linh hoạt, uốn nắn để tránh tự ái, làm tổn
thương tinh thần trẻ vị thành niên. Mọi xung đột giữa cha mẹ, người lớn với các
em sẽ được giải quyết ổn thoả nếu cả hai phía đều có sự hiểu biết, thông cảm lẫn
nhau.
Bộc lộ cá tính, lòng tự trọng cao: Do mong muốn được trở thành người lớn
và muốn được cư xử như người lớn, trẻ vị thành niên có khuynh hướng sống trong
hai thế giới: thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài. Trong giai đoạn này, việc tự
đánh giá và tự phê bình bắt đầu định hình và phát triển sự tự ý thức. Tự ý thức là
một loại đặc biệt của ý thức trong đời sống cá nhân, có chức năng tự điều chỉnh
nhận thức và thái độ của bản thân. Đó là quá trình tự quan sát, tự phân tích, tự


kiểm tra, tự đánh giá về hành động và kết quả hành động của bản thân, về tư tưởng
tình cảm, phong cách, đạo đức, hứng thú.Tự ý thức là điều kiện để phát triển và
hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội. Về mặt xã hội, trẻ
vị thành niên hiểu biết môi trường xã hội rộng lớn hơn nhiều ngôi nhà nơi các em
sống, hàng xóm láng giềng, ngôi trường các em học.
Ở tuổi này, con người đang hình thành những hứng thú và thay đổi mới, có
xu hướng tư tưởng hoá, vị tha, quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển các kỹ năng
nói, cách ứng xử mới, tác phong đĩnh đạc để đối diện với môi trường xã hội ngày
một mở rộng (phát triển mạnh mẽ cá tính và xã hội hoá). Đó là sự tự khẳng định
mình, tự coi mình là người lớn, muốn được người khác tôn trọng và đối xử như
người lớn. Ở lứa tuổi này các em luôn có ý thức tự trọng và mong muốn làm
những điều mà người lớn hay làm, các em thường có tâm lí phóng đại các năng
lực của mình, đánh giá cao hơn hiện thực nên công việc các em thường tự mình
làm lấy không muốn dựa dẫm hay phụ thuộc vào người lớn và nghĩ điều đó là cách
để khẳng định bản thân. Các em không hiểu rằng, khả năng nhận thức và chuẩn
mực đạo đức, pháp luật, về nghĩa vụ và bổn phận, về các giá trị xã hội, như giá trị
lao động học tập của các em còn rất nhiều hạn chế.14

Ý thức với tư cách là chủ thể cộng đồng nhóm bạn: Mối quan hệ bạn bè có
sức mạnh ghê gốm, xu hướng nghe lời bạn bè hơn là nghe lời những người thân.
Bên cạnh đó, việc ý thức bản thân mình đã lớn xuất hiện nhóm xã hội với tư cách
là chủ thể cộng đồng. Vì thế làm xuất hiện một đặc biệt rất cơ bản ở lứa tuổi này
hình thành ở các em xu hướng tìm kiếm các mối quan hệ ngoài gia đình rất cao,dễ
ngộ nhận nhầm lẫn giữa biểu hiện như liều lĩnh nhưng các em lại cho rằng điều đó
là dũng cảm, ngang ngược hỗn xược thì lại cho là bản lĩnh. Chính vì vậy mà nhóm
bạn bè không chính thức có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức, hành vi và nhân
cách của người chưa thành niên.
Tình yêu từ sắc thái giới tính chưa bộc lộ rõ đến tình bạn cũng tự nhiên lành
mạnh dần có sắc thái giới tính: Sự phát dục ở tuổi vị thành niên đã kích thích các
em bắt đầu quan tâm đến bạn khác giới, làm xuất hiện những cảm giác, cảm xúc
giới tính mới lạ. Những rung cảm mới lạ này đôi khi lướt qua nhanh chóng, nhưng
cũng có khi kéo dài. Các em thường che dấu những rung cảm của mình bằng các
biểu hiện khác nhau như: bông đùa, ngượng ngùng, suồng sã, ồn ào. Những rung
cảm được dấu kín này chứa đựng biết bao tâm trạng: thiện cảm, buồn rầu, nhớ
nhung, phấn khởi, muốn được nghe một lời nói dịu dàng âu yếm, một cử chỉ quan
14

Giáo trình tâm lí học tư pháp, trường Đại học luật Hà Nội.NXB CAND 2006, trang 117.


tâm, một nụ cười trìu mến. Mọi trường hợp đó đều là những cảm xúc trong sáng
và mọi sự can thiệp thô bạo, thiếu tế nhị đều làm cho các em cảm thấy bị chế giễu
và hổ thẹn. Tuy nhiên, không phải tất cả các em đều có những rung cảm như vậy,
cũng có một số em sớm bị cuốn hút vào con đường yêu đương, tình ái. Tâm trạng
của những em này thay đổi rất nhanh và biến động mạnh. Lý trí chưa đủ giúp các
em làm chủ được những rung cảm mãnh liệt của sự yêu đương quá sớm. Đầu óc bị
phân tán, thời gian và tâm trí bị cuốn hút vào đó nên kết quả học tập, lao động và
sức khoẻ bị giảm sút rõ rệt. Trong quá trình tìm hiểu và khám phá này, các em cần

rèn luyện những kỹ năng sống để giúp các em xây dựng được các mối quan hệ bạn
bè, giải quyết mâu thuẫn, biết cách cùng hợp tác với người khác trong nhóm, hình
thành lòng tự trọng cũng như biết kìm chế trước sức ép từ bạn bè cùng lứa và
người lớn khác để không tham gia vào những hành vi nguy cơ có hại cho sức khoẻ
và an toàn của bản thân và của người khác.
1.2.2.3 Đặc trưng về ý thức
Người chưa thành niên ở lứa tuổi này còn non nớt về kiến thức xã hội và ý
thức pháp luật, những hiểu biết cũng như những nhận thức và quan niệm về pháp
luật của người chưa thành niên chưa được hoàn thiện hoặc hành vi lệch lạc theo
cách chủ quan của họ. Nhận thức tính nghiêm ngặt của pháp luật trở nên lỏng lẻo,
không mang tính chế ước đối với họ cho nên họ thường có thái độ thờ ơ vô cảm
đối với pháp luật. Sự nhận thức sai lệch trong pháp luật của người chưa thành niên
là họ cho rằng những yêu cầu và những điều cấm kị chỉ được qui định trong luật
và mang tính hình thức còn những hành động của họ chỉ căn cứ vào nhu cầu cuộc
sống. Họ cứ đinh ninh nghĩ rằng những hành vi của mình là hợp pháp là đúng để
bảo vệ quyền lợi bản thân. Ở tuổi chưa thành niên những tiền đề cơ bản của một
nhân cách hoàn chỉnh đang dần hình thành và là cơ sở chọn sự phát triển của các
em đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, sự biến đổi này đôi khi mang tính chất phá vỡ
tận gốc những đặc điểm, những hứng thú và quan hệ đã có từ trước. Bên cạnh đó,
ở lứa tuổi này các em rất tò mò, hiếu động có xu hướng tìm kiếm khám phá những
cái mới lạ, hay bắt chước nên rất dễ bị lôi cuốn vào các trò chơi vô bổ thậm chí
những hậu quả lớn hơn nếu lí trí không đủ để làm nền tảng tinh thần cho các em.
Người chưa thành niên là người bị hạn chế về tinh thần và thể chất, suy
nghĩ của họ còn rất hạn chế so với người đã thành niên. Sự suy nghĩ nông cạn dễ
dẫn đến những hành động bốc đồng, thiếu chính chắn, dễ bị người khác rũ rê, xúi
giục, kích động dẫn đến vi phạm pháp luật. Ở nước ta cũng như các nước khác,


người chưa thành niên vi phạm pháp luật trở thành nỗi nhức nhối cho gia đình và
xã hội, làm cho các cấp chính quyền và chính phủ rất lo ngại.

Tuổi chưa thành niên là tuổi đang hình thành “cái tôi”, là lứa tuổi biểu hiện
ý thức cá tính của mình rất rõ nét. Yếu tố đầu tiên của sự phát triển nhân cách ở
tuổi thành niên là tính tích cực, mạnh mẽ của bản thân nhằm lĩnh hội các chuẩn
mực nhất định, sự hăng hái sôi nổi nhiệt tình trong học tập, trong hoạt động xã hội,
trong việc xây dựng mối quan hệ với người lớn và bạn bè nhằm xây dựng nhân
cách cho bản thân. Tất cả các em bước vào cuộc sống với tư cách là một thành
viên có đủ giá trị và sự bình đẳng mặt khác thì ở tuổi này các em cũng thích tò mò
ham hiểu biết. Ngoài những tác động tích cực trên thì do ảnh hưởng tâm sinh lí
nên cũng có những hạn chế tiêu cực ảnh hưởng đến nhận thức, tình cảm và ý chí
của các em như tính hung bạo, e thẹn, dễ cáo giận. Ở tuổi chưa thành niên những
tiền đề cơ bản của một nhân cách hoàn chỉnh đang được tạo thành và là cơ sở cho
sự phát triển của các em đến tuổi trưởng thành. Vì vậy, sự biến đổi trong thời kì
này là vô cùng quan trọng.
1.3 MỤC ĐÍCH VÀ NGUYÊN TẮC TRONG VIỆC XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.3.1 Mục đích
Việc xử lý NCTN VPPL phải đáp ứng được mục đích là giáo dục, giúp đỡ
các em sữa chữa sai lầm và trở thành người có ích cho xã hội, tinh thần này được
thể hiện rõ trong Luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em15 năm 2004 và Bộ
Luật hình sự16 và cũng được ghi nhận tại khoản 1 Điều 134 Luật xử lý vi phạm
hành chính, theo đó thì việc xử lý người chưa thành niên vi phạm nói chung chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
công dân có ích cho xã hội. Các em được gia đình, nhà trường và xã hội giáo dục,
có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng qui tắc của đời sống xã hội và sống có
trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Việc tổ chức giáo dục trẻ em vi phạm
pháp luật chủ yếu thực hiện tại cộng đồng hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.17
1.3.2 Nguyên tắc

15


Luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Điều 58.
Bộ Luật hình sự năm 1999, Điều 69.
17
ThS. Đặng Thanh Sơn, Giám đốc Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Pháp luật Việt Nam về tư
pháp người chưa thành niên.
16


Nguyên tắc là những nội dung cơ bản nhất, quan trọng nhất chi phối mọi
hoạt động trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính cũng như quá trình áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính. Những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đã
được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 và
được kế thừa, bổ sung tại Pháp lệnh XLVPHC năm 1995 và năm 2002 và tiếp tục
dần hoàn thiện ở LXLVPHC.
Qua thực tế thi hành pháp luật XLVPHC, các nguyên tắc được quy định
trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 đã được khẳng định là cần thiết và đúng đắn.
Do đó, được tiếp tục quy định tại Luật XLVPHC như nguyên tắc: mọi vi phạm
hành chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, mọi hậu quả do vi phạm hành
chính gây ra đều phải được khắc phục; việc xử lý vi phạm phải căn cứ vào tính
chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm và các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu
quả thích hợp. Bên cạnh đó, một số nguyên tắc mới được quy định trong Luật
XLVPHC để làm cơ sở cho việc quy định các nội dung về xử lý vi phạm hành
chính trong toàn Bộ Luật, trong xây dựng và áp dụng pháp Luật XLVPHC trên
thực tiễn như nguyên tắc công bằng, công khai, bình đẳng, khách quan, tôn trọng
quyền giải trình của cá nhân, tổ chức; nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có
trách nhiệm xác minh hành vi vi phạm bằng việc áp dụng các biện pháp hợp pháp
để xác định sự thật của vụ việc một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; nguyên
tắc áp dụng các hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với
người chưa thành niên vi phạm nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi

vi phạm. Trên tinh thần đó, Luật XLVPHC đã ghi nhận tại Điều 134 một số
nguyên tắc cơ bản cần phải xem xét trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính đối với NCTN như:
Ngoài những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 3 của Luật
này, việc xử lý đối với người chưa thành niên còn được áp dụng các nguyên tắc
sau đây:
1. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính chỉ được thực
hiện trong trường hợp cần thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong quá trình xem xét xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính,
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho
người chưa thành niên. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng chỉ được áp dụng
khi xét thấy không có biện pháp xử lý khác phù hợp hơn;


2. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính còn căn cứ vào
khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm, nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm để quyết định việc xử
phạt hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính phù hợp;
3. Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với người
chưa thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có
cùng hành vi vi phạm hành chính.
Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì
không áp dụng hình thức phạt tiền.
Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị
phạt tiền thì mức tiền phạt không quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với người
thành niên; trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực hiện
biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải thực hiện thay;
4. Trong quá trình xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, bí mật
riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ;

5. Các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính phải được xem xét áp
dụng khi có đủ các điều kiện quy định tại Chương II của Phần này. Việc áp dụng
biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính không được coi là đã bị xử lý vi
phạm hành chính.
Ngoài quy định các nguyên tắc được hình thành trong quá trình xem xét ra
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với NCTN đã nêu, Luật còn
đưa ra nguyên tắc bảo vệ bí mật đời tư đối với hồ sơ, đối với danh tính của NCTN
làm hạn chế khả năng thấp nhất khiến cho NCTN có thể bị nhận dạng. Vì thế, trên
cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự, Luật đã quy định nguyên tắc bí mật riêng tư
của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ trong quá trình xem xét
áp dụng biện pháp nhằm tránh những tổn hại có thể gây ra đối với người chưa
thành niên.
Như vậy, khi xem xét ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và quyết định áp dụng các biện pháp ngăn
chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính đối với NCTN, người có thẩm
quyền ngoài căn cứ vào các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính chung đã quy
định còn cần phải tuân theo các nguyên tắc theo qui định và định hướng để xử lý.


Việc nghiên cứu bổ sung một số nguyên tắc nêu trên là rất cần thiết để khắc
phục thực trạng cơ quan hành chính ban hành quyết định xử phạt mang tính đơn
phương, áp đặt ý chí chủ quan của người có thẩm quyền xử phạt. Mặt khác, việc
xử lý vi phạm hành chính liên quan trực tiếp đến danh dự, quyền, tự do cơ bản của
công dân, cần được tiến hành dân chủ, khách quan, chính xác trên cơ sở xác minh
rõ vụ việc. Quan trọng hơn, việc bổ sung những nguyên tắc này nhằm cụ thể hóa
các quy định của Hiến pháp về quyền tự do cơ bản của công dân: “ Mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 52 Hiến pháp 1992).Vì vậy, nguyên tắc tối
cao trong việc xử lý người chưa thành niên VPPL là luôn luôn quan tâm bảo đảm
lợi ích tốt nhất cho các em.
1.4 CƠ SỞ KHOA HỌC, QUAN ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI

PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM
1.4.1 Cơ sở khoa học
Khi xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật phải cân nhắc khả năng
nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, nguyên nhân và điều
kiện gây ra hành vi đó. Khả năng nhận thức, theo nghĩa rộng là sự thể hiện năng
lực phản ánh và tái hiện hiện thực vào tư duy, hay là quá trình nhận biết, hiểu biết
thế giới khách quan và ghi lại kết quả của quá trình đó. Theo nghĩa hẹp, khả năng
nhận thức là nhận ra và biết được, hiểu được vấn đề.
Ví dụ như nhận thức rõ khó khăn và thuận lợi; nhận thức được những qui
định và cấm đoán; nhận thức được việc làm và hậu quả mang lại. Khả năng nhận
thức của con người phải đạt ở một độ tuổi nhất định, phải căn cứ vào nhiều yếu tố:
điều kiện kinh tế, địa lí, lịch sử, dân tộc,văn hóa, xã hội để xác định và qui định
trách nhiệm hình sự.
Về khả năng điều khiển hành vi của NCTN so với người đã thành niên.18
Như chúng ta đã biết, NCTN là đối tượng chưa trưởng thành và chưa phát triển
đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, do đó những hành vi vi phạm của họ gây ra thường
có tính chất bộc phát, tạm thời. Vì thế pháp luật quốc gia trong việc bảo vệ, chăm
sóc trẻ em, đặc biệt là Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em năm 2004 quy định “Việc
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà
nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu”;
“Việc xử lý trẻ em có hành vi vi phạm pháp luật chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
18

Nguyễn Thanh Tùng,ThS.Phó Viện trưởng,Viện Khoa học xét xử, TANDTC.Thực tiễn xét xử
người chưa thành niên, đề xuất và kiến nghị. Tạp chí tòa án nhân dân, số 3, tháng 2 năm 2012.


×