PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề chung của nhân loại được cả thế
giới quan tâm. Trong một vài năm gần đây do sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế làm cho môi trường Việt Nam bị đe dọa, gây nên mất cân bằng sinh
thái, cạn kiệt các nguồn tài nguyên, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống
và sự phát triển của đất nước. Một trong những nguyên nhân chính của vấn đề
là nhận thức và thái độ của con người đối với môi trường còn hạn chế.
Hiện nay ở các thành phố lớn và các khu đô thị trên cả nước hàng ngày
thải ra trên 9.100m3 chất thải, trong đó rác thải sinh hoạt chiếm đến 74,5%, từ
tất cả các hoạt động hàng ngày của con người.[21.8] Các hoạt động này đang
ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn nước mặt, nước ngầm và đất. Lượng
chất thải trên nếu không được thu gom và xử lý một cách triệt để sẽ gây
những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của con người và sinh vật.
Thành phố Hạ Long là một trung tâm kinh tế và chính trị của tỉnh
Quảng Ninh, một cực của vùng động lực phát triển kinh tế phía bắc Hà Nội –
Hải Phòng – Quảng Ninh. Thành phố Hạ Long có nguồn tài nguyên phong
phú như khoáng sản, thủy sản, rừng…Bên cạnh đó lợi thế là một vùng ven
biển, có di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long nên ngành du lịch, dịch
vụ tại đây rất phát triển. Cùng với lợi ích do du lịch thì bãi biển đang phải
hứng chịu những tác động không tốt của môi trường do các hoạt động kinh
doanh du lịch mang lại. Trong khi đó ở nơi đây rác chưa được thu gom xử lý
một cách triệt để. Bãi chứa rác thải chưa đúng tiêu chuẩn, rác thải chưa được
phân loại gây ra không ít khó khăn cho công tác xử lý. Điều này không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người mà còn tác động
không nhỏ đến cảnh quan và môi trường sống của biển. Chính vì vậy việc
đánh giá hiện trạng rác thải là việc làm cần thiết.
1
Phường Bãi Cháy là địa điểm du lịch nổi tiếng của Quảng Ninh và cả
nước. Mỗi năm, khu du lịch Bãi Cháy đã thu hút hàng triệu lượt khách đến
tham quan, nghỉ dưỡng. Hoạt động phát triển du lịch đồng nghĩa với việc gia
tăng lượng du khách đến các điểm tham quan, du lịch, tăng cường phát triển
cơ sở hạ tầng, dịch vụ và gia tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên. Từ đó áp lực
của phát triển du lịch đến môi trường ngày càng gia tăng, đặc biệt là vấn đề
rác thải. Hàng ngày, trên địa bàn, một lượng rác thải được phát sinh từ các hộ
gia đình, các khu vực kinh doanh, vui chơi giải trí là khá lớn, gây áp lực lên
công tác quản lý, thu gom của các công nhân viên ngành môi trường
Xuất phát từ thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá hiện trạng và đề xuất một số giải pháp quản lý và xử lý rác thải tại khu
du lịch biển phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh”.
1.2. Mục đích, yêu cầu
1.2.1. Mục đích
- Đánh giá hiện trạng quản lý và xử lý rác thải tại khu du lịch biển
phường Bãi Cháy, TP Hạ Long, Quảng Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý và xử lý rác thải tại khu du lịch
phường Bãi Cháy.
1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực ảnh hưởng
đến rác thải trong khu vực.
- Điều tra thực trạng rác thải tại khu du lịch phường Bãi Cháy, TP Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý, thu gom, và xử lý rác thải tại
khu du lịch phường Bãi Cháy.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải góp phần bảo vệ môi
trường biển TP Hạ Long.
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Khái niệm rác thải
Rác thải là bất kỳ loại vật liệu nào ở dạng rắn mà con người loại bỏ mà
không được tiếp tục sử dụng như ban đầu .
Rác thải là những vật chất ở dạng rắn do các hoạt động của con người
và động vật tạo ra. Những “sản phẩm” này thường ít được sử dụng hoặc ít có
ích do đó nó là “sản phẩm” ngoài ý muốn của con người. Rác thải có thể ở
dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, được tạo ra trong hầu hết các giai
đoạn sản xuất trong tiêu dùng .
Rác thải là các loại rác mà không ở dạng lỏng, không hòa tan được thải
ra từ hoạt đông sinh hoạt, công nghiệp. Rác thải còn bao gồm cả bùn cặn, phế
phẩm nông nghiệp, xây dựng, khai thác mỏ…[11].
2.2. Nguồn gốc và phân loại rác thải
2.2.1. Nguồn gốc phát sinh rác thải
- Từ các khu dân cư.
- Từ các khu dịch vụ, các trung tâm thương mại.
- Từ các cơ quan công sở, trường học, công trình công cộng.
- Từ các hoạt động sản xuất công - nông nghiệp.
- Từ các hoạt động xây dựng.
- Từ các làng nghề, các trạm xử lý nước thải.[11]
2.2.2. Phân loại rác thải
Rác thải sinh hoạt: Phát sinh hàng ngày ở các đô thị, làng mạc, khu dân
cư, các trung tâm dịch vụ, công viên.
Rác thải công nghiệp: Phát sinh từ quá trình sản xuất công nghiệp và
thủ công nghiệp (gồm nhiều thành phần phức tạp, đa dạng, trong đó chủ yếu
là các dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí).
3
Rác thải xây dựng: Là các phế thải như đất đá, gạch ngói, bê tông vỡ,
vôi vữa đồ gỗ, nhựa, kim loại do các hoạt động xây dựng tạo ra.
Rác thải nông nghiệp: Sinh ra do các hoạt động nông nghiệp như trồng
trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản trước và sau thu hoạch [11].
2.3. Thành phần rác thải
2.3.1 Thành phần lý hoá học của rác thải sinh hoạt
Thành phần lý, hoá học của rác thải sinh hoạt rất khác nhau tuỳ thuộc
từng địa phương, vào các mùa khí hậu, các điều kiện tự nhiên kinh tế và nhiều
yếu tố khác nữa. Thành phần của rác thải sinh hoạt bao gồm: Chất thải thực
phẩm, giấy, cotton, chất dẻo, vải vụn, cao su, da vụn, sản phẩm vườn, gỗ,
thuỷ tinh, kim loại, tro bụi,…
Bảng 2.1. Thành phần rác thải ở một số quốc gia trên thế giới
Thành phần(%)
Các chất dễ cháy
Nhật Bản
Pháp
Singapo
Mỹ
28,2
0
0
0
Giấy
12,1
30
20 - 25
30 -40
Thực phẩm
8,1
34
26 - 45
9,4
Vải
5,1
2
0
2,0
Gỗ
1,9
4
23 - 26
0,5
Chất dẻo
19,8
0
0
7,0
Cao su
Da
Kim loại
1,4
0,8
20
10
7
0
1-2
2-4
3-7
0,5
0,5
0,5
Thủy tinh
22,7
13
5-9
7,9
Sỏi, cát
3,9
0
0
0
Vật liệu khác
3,2
0
5 - 10
3,2
Nguồn :PGS.TS Nguyễn Xuân Thành, Giáo trình công nghệ VSV trong xử
lý ô nhiễm môi trường. NXB nông nghiệp,2004
2.3.2. Đặc điểm về thành phần rác thải Việt Nam
4
CTR tại Việt Nam phần lớn phát sinh từ các đô thị. Việt Nam có 679
đô thị (gấp 1,4 lần so với năm 1990) với số dân chỉ chiếm 24% nhưng lại phát
sinh khoảng hơn 6 triệu tấn rác thải mỗi năm (tương đương 50% lượng chất
CTR của cả nước). Ước tính mỗi người dân đô thị Việt Nam phát thải khoảng
trên 0,7 kg rác thải mỗi ngày, gấp đôi lượng thải bình quân đầu người của dân
cư nông thôn.[3]
Quá trình đô thị hoá làm tăng dòng người di dân từ nông thôn ra thành
thị, gây nên áp lực đáng kể về nhà ở và VSMT, hình thành các khu nhà ổ chuột
và khu nghèo đô thị. Điều này làm phát sinh một lượng lớn rác thải sinh hoạt.
Thông tin chung về lượng CTR sinh hoạt phát sinh trên địa bàn toàn quốc, theo
báo cáo quan trắc của Trung tâm Kỹ thuật môi trường - ĐH Xây dựng, mức gia
tăng về lượng CTR sinh hoạt trong vài năm gần đây (bảng 2.2). [21.1]
Bảng 2.2. Thông tin chung về chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam
Phát sinh chất thải rắn sinh hoạt (tấn/năm)
12.800.000
·
Toàn quốc
6.400.000
·
Các khu vực đô thị
6.400.000
·
Các khu vực nông thôn
Tốc độ phát sinh kg/người/ngày
0,4
·
Toàn quốc
0,7
·
Các khu vực đô thị
0,3
·
Các khu vực nông thôn
Tỷ lệ được thu gom % tổng lượng phát sinh
71%
·
Toàn quốc
<20%
·
Các khu vực đô thị
10-20%
·
Các khu vực nông thôn
Số lượng bãi chôn lấp
74
Bãi rác và các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh
17
Bãi chôn lấp hợp vệ sinh
57
Nguồn: Trích dẫn từ báo cáo hiện trạng môi trường 2004
Bảng 2.3. Lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh hàng năm (tấn/năm)
5
Năm
2002
2003
2004
Khu vực
Toàn quốc
11.302.000
Khu vưc đô thị
5.568.000
Khu vực nông thôn
5.800.000
Tốc độ gia tăng so với năm
12.800.000
6.400.000
6.400.000
16.000.000
8.640.000
7.360.000
trước(%)
1,05
1,15
1,35
-Khu vưc đô thị
1,10
1,10
1,15
-Khu vực nông thôn
Nguồn: Trích dẫn từ báo cáo quan trắc phòng CTR, CEETIA 2004
Bảng 2.4. Thành phần chất thải rắn ở một số đô thị trong năm 2001 (%)
TT Thành phần
1 Chất hữu cơ
2 Cao su, nhựa
3 Giấy, catton, vải
4 Kim loại
5 Thủy tinh, gốm sứ
6 Đất đá, gạch vụn
Độ ẩm
Độ tro
Tỷ trọng (tấn/m3)
Hà Nội Hải
Hạ Long
Phòng
50,58
4,52
7,52
0,22
0,63
36,53
45-48
16,52
0,45
50,10
5,50
4,20
2,50
1,80
35,90
47,70
15,90
0,42
Đà Nẵng Tp. HCM
40,1-44,7
2,7-4,5
5,5-5,7
0,3-0,5
3,90-8,5
47,5-36,1
40-46
11,0
0,57-0,65
31,50
22,50
6,81
1,40
1,80
36,00
39,05
40,25
0,38
41,25
8,78
24,83
1,55
5,59
18,00
27,18
58,75
0,412
Nguồn: Số liệu quan trắc – CEETTA – QLCTR
Qua bảng thống kê cho thấy:
- Thành phần hữu cơ chiếm tỷ lệ lớn nhất và thành phần này lớn nhất
tại Hải Phòng là 50,58%, nhỏ nhất là Đà Nẵng là 31,5%.
- Thành phần chiếm tỷ lệ nhỏ nhất là kim loại chỉ dao động trong
khoảng 0,3-2,5%.
- Độ ẩm chất thải nhỏ nhất ở TP. HCM là 27,18% và lớn nhất tại Hà
Nội là 47,7%.
- Tỷ trọng CTR tại các khu vực trên dao động không lớn từ 0,380,65%.
6
- Theo số liệu thống kê từ các tỉnh thành phố trong cả nước, năm 2002
cho thấy chất lượng CTR bình quân tăng lên khoảng 0,8-1,2 kg/người/ngày, ở
các đô thị lớn và các đô thị dao động từ 0,5-0,7 kg/người/ngày, tổng lượng rác
thải sinh hoạt đô thị năm 2002 tăng từ 3-12% so với năm 2001.[1]
2.4. Tác hại của rác thải
2.4.1. Ảnh hưởng của rác thải đối với môi trường
2.4.1.1. Đối với môi trường đất
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật
cạn, là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn
hóa của con người. Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng
tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung
cấp lương thực thực phẩm cho con người.
Các loại rác thải khó phân huỷ sinh học, hoặc hoàn toàn không phân
huỷ tồn tại lâu dài dưới mặt đất dần dần chúng trộn lẫn vào đất làm thay đổi
thành phần đất, ảnh hưởng tới môi trường sống của các vi sinh vật…. Những
điều kiện trên gây nên những biến đổi trong đất: đất bạc màu, khó canh tác
hoặc mất khả năng canh tác. Còn các chất dễ phân huỷ sinh học thường phân
huỷ thành những chất có khả năng kết hợp với nhau tạo thành các chất độc
theo nước ngấm dần xuống đất làm ô nhiễm môi trưòng đất.[13]
2.4.1.2. Đối với môi trường nước
Môi trường nước là nơi trú ngụ của rất nhiều loài động vật và thực vật
thủy sinh có ích. Nguồn nước ngầm phục vụ cho cuộc sống và mọi lợi ích của
con người. Tuy thế ô nhiễm môi trường nước hiện nay là một vấn đề khá
nóng bỏng, chủ yếu nguyên nhân là do ý thức của con người.
Rác thải sinh hoạt gây ô nhiễm ao hồ, sông suối do các chất dễ phân
huỷ, phân tán làm nước có màu và mùi khó chịu, còn những chất khó phân
huỷ thì trôi nổi hoặc tụ thành đống làm ảnh hương tới dòng chảy. Các chất
độc phân huỷ từ rác cũng theo đó đi vào môi trường nước gây độc cho sinh
7
vật dưới nước. Các bãi rác thải ngoài trời và các bãi chôn lấp không được xây
dựng đúng tiêu chuẩn cũng là nguồn gây ô nhiễm tiềm tàng cho nguồn nước
mặt và nước ngầm.[13]
2.4.1.3. Đối với môi trường không khí
Không khí là một thành phần rất quan trọng, không thể thiếu được
trong cuộc sống của con người và sinh vật. Cùng với sự phát triển kinh tế và
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, tình trạng
ô nhiễm không khí đang gia tăng ở các đô thị ở Việt Nam. Sự phát triển kèm
theo đó là sự phát sinh lượng rác khổng lồ. Tại các trạm bãi trung chuyển rác,
xen kẽ trong các khu dân cư ô nhiễm không khí do bụi, khói cuốn lên theo
quá trình xúc rác, từ các xe thu gom, vận chuyển. Rác thải trong quá trình
phân huỷ tự nhiên thường có mùi hôi thối khó chịu và dễ dàng lan nhanh
trong không khí thông qua gió, mùi hôi thối phát tán rộng ảnh hưởng rất lớn
đến đời sống người dân. Trong quá trình đốt rác cũng gây ra ô nhiễm không
khí do các sản phẩm trong quá trình đốt rác chứa các chất khí độc hại như
CO2, SO2, …khói, bụi.[13]
2.4.2. Ảnh hưởng của rác thải đối với con người
2.4.2.1. Ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Các mối nguy cơ gây ô nhiễm không khí, nước, đất, nói trên cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người đặc biệt là các khu dân cư quanh khu
vực có chứa rác thải. Môi trường bị ô nhiễm sẽ tác động đến sức khỏe con
người thông qua chuỗi thức ăn.
Các bãi chôn lấp là nơi phát sinh các bệnh truyền nhiễm: Tả, lị, thương
hàn…các loại côn trùng trung gian truyền bệnh như ruồi, muỗi gián, và các loại
gậm nhấm như chuột cũng ưa thích sống ở các khu vực có chứa rác thải.[13]
2.4.2.2. Ảnh hưởng tới mỹ quan
Chất thải rắn, đặc biệt là rác thải sinh hoạt nếu không được thu gom,
vận chuyển đến nơi xử lý, hoặc quá trình thu gom xử lý làm rơi vãi dọc đường
8
sẽ làm giảm mỹ quan đô thị. Một nguyên nhân nữa làm giảm mỹ quan đô thị
là do ý thức của người dân chưa cao. Tình trạng người dân đổ rác bừa bãi ra
lòng lề đường và mương rãnh hở vẫn còn phổ biến gây ô nhiễm nguồn nước
và ngập úng khi mưa
Các tác động của việc
xử lí chất thải không
hợp lý
Môi
trường
ô nhiễm
Làm hại
sức khỏe
con người
Làm mất vẻ
đẹp đô thị
Hạn chế kết
quả sản xuất
kinh doanh
Tạo
môi trường
dịch bệnh
Tạo nếp sống
kém văn minh
Gây ùn tắc
giao thông
Tác động xấu đên
ngành văn hóa,du
lịch
Hình 2.1. Tác động của việc xử lý không hợp lý rác thải đô thị [2]
2.5. Thực trạng quản lý và xử lý rác thải trên thế giới và Việt Nam
2.5.1. Thực trạng quản lý và xử lý rác thải trên thế giới
2.5.1.1. Tình hình phát sinh rác thải trên thế giới
Ước tính hàng năm lượng rác thải phát sinh trên thế giới từ 2,5 đến 4 tỷ
tấn (ngoại trừ các lĩnh vực xây dựng và tháo dỡ, khai thác mỏ và nông
nghiệp). Năm 2004, tổng lượng rác thải được thu gom trên toàn thế giới ước
tính là 1,2 tỷ tấn. Con số này thực tế chỉ bao gồm các nước OECD và các khu
đô thị mới nổi và các nước đang phát triển.
Bảng 2.5. Lượng phát sinh chất thải rắn tại một số nước
Tên nước
GNP/người
Dân số
Lượng phát sinh
(1995 USD) (% tổng số) chất thải rắn đô thị
9
Nước có thu nhập thấp
Nepal
Ấn Độ
Trung Quốc
Nước có thu nhập TB
Indonesia
Philippines
Thái Lan
Nước có thu nhập cao
Hàn Quốc
Singapore
Nhật Bản
490
200
340
620
1410
980
1050
2740
30990
9700
26730
39640
27,8
13,7
26,8
30,3
37,6
35,4
54,2
20
79,5
81,3
100
77,6
(kg/người/ngày)
0,64
0,5
0,46
0,79
0,73
0,76
0,52
1,1
1,64
1,59
1,10
1,47
Nguồn: [9]
Năm 1995 tại nước có mức thu nhập cao như Hàn Quốc, tỷ lệ phát sinh
chất thải rắn là 1,59 kg/người/ngày; tại Singapore là 1,1 kg/người/ngày; nước
có mức thu nhập trung bình như Indonesia đạt 0,76 kg/người/ngày và nước có
thu nhập thấp như Ấn Độ là 0,46 kg/người/ngày.
Như vậy, mức sống càng cao lượng rác thải phát sinh càng nhiều. Khối
lượng rác thải đô thị phát sinh có xu hướng tăng theo mức thu nhập của các
nước.
2.5.1.2. Thực trạng quản lý và xử lý rác thải trên thế giới
Quản lý rác thải là công việc hết sức phức tạp bởi rác thải có biến động
lớn về thành phần và tính chất. Nó phụ thuộc vào nhiều điều kiện: Khả năng
kinh tế, thói quen, về khả năng công nghệ của khu vực… Tùy thuộc vào tính
chất của rác thải mà lựa chọn biện pháp thích hợp, đạt hiệu quả cao về kinh tế,
xã hội và môi trường. Tại nhiều nước trên thế giới rác được phân loại tại
nguồn dễ dàng cho việc thu gom, tái chế và xử lý.
Theo số liệu của Cục Y tế và Môi sinh Nhật Bản, hàng năm nước này có
khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó, phần lớn là rác công nghiệp (397 triệu
tấn). Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% rác thải phải đưa tới bãi
chôn lấp, trên 36% được đưa đến các nhà máy để tái chế. Số còn lại được xử
10
lý bằng cách đốt, hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác. Chi phí cho việc xử lý
rác hàng năm tính theo đầu người khoảng 300 nghìn Yên (khoảng 2.500
USD). Như vậy, lượng rác thải ở Nhật Bản rất lớn, nếu không tái xử lý kịp
thời thì môi trường sống bị ảnh hưởng nghiêm trọng.[13]
Nhận thức được vấn đề này, người Nhật rất coi trọng bảo vệ môi
trường. Trong nhiều năm qua, Nhật Bản đã ban hành 37 đạo luật về bảo vệ
môi trường, trong đó, Luật "Xúc tiến sử dụng tài nguyên tái chế" ban hành từ
năm 1992 đã góp phần làm tăng các sản phẩm tái chế. Sau đó, Luật "Xúc tiến
thu gom, phân loại, tái chế các loại bao bì" được thông qua năm 1997, đã
nâng cao hiệu quả sử dụng những sản phẩm tái chế bằng cách xác định rõ
trách nhiệm của các bên liên quan. Hiện nay, tại các thành phố của Nhật Bản,
chủ yếu sử dụng công nghệ đốt để xử lý nguồn phần rác thải khó phân hủy.
Các hộ gia đình được yêu cầu phân chia rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ phân
hủy, được thu gom hàng ngày để đưa đến nhà máy sản xuất phân compost,
góp phần cải tạo đất, giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón; loại
rác không cháy được như các loại vỏ chai, hộp..., được đưa đến nhà máy phân
loại để tái chế; loại rác khó tái chế, hoặc hiệu quả không cao, nhưng cháy
được sẽ đưa đến nhà máy đốt rác thu hồi năng lượng. Các loại rác này được
yêu cầu đựng riêng trong những túi có màu sắc khác nhau và các hộ gia đình
phải tự mang ra điểm tập kết rác của cụm dân cư vào giờ quy định, dưới sự
giám sát của đại diện cụm dân cư. Đối với những loại rác có kích thước lớn
như tủ lạnh, máy điều hòa, ti vi, giường, bàn ghế... thì phải đăng ký trước và
đúng ngày quy định sẽ có xe của Công ty vệ sinh môi trường đến chuyên chở.
Nhật Bản quản lý rác thải công nghiệp rất chặt chẽ. Các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất tại Nhật Bản phải tự chịu trách nhiệm về lượng rác thải của
mình theo quy định các luật về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, chính quyền tại
các địa phương Nhật Bản còn tổ chức các chiến dịch “xanh, sạch, đẹp” tại các
11
phố, phường, nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Chương trình này đã
được đưa vào trường học và đạt hiệu quả cao.
Ở Singapo khách du lịch dễ dàng thấy những dong chữ bằng tiếng anh
trên các thùng rác công cộng “Đừng vứt đi tương lai của bạn” kèm với biểu
tượng “RECYLE”. Ở trường học, ngoài các trương trình chính khóa, học sinh
còn được tham gia các chuyến đi dã ngoại đến các khu bảo tồn thiên nhiên,
các cơ sở tiêu hủy chất phế thải rắn, các nhà máy xử lí nước và các nhà máy
tái chế rác thải.
Những lò đốt rác hiện đại của nước Đức hầu như không thải khí độc ra
môi trường. Das Duele System Deutschland (DSD) – “Hệ thống hai chiều của
nước Đức” - được các nhà máy tái chế sử dụng để xử lý các loại rác thải và
các nhà máy này đã chi khoản phí gần 1,2 tỷ USD để sử dụng công nghệ trên.
Tại các dây chuyền phân loại, các camera hồng ngoại hoạt động với tốc độ
300.000 km/s để phân loại 10 tấn vật liệu mỗi giờ. Những ống hơi nén được
điều khiển bằng máy tính đặt ở các băng chuyền có nhiệm vụ tách riêng từng
loại vật liệu. Sau đó rác thải sẽ được rửa sạch, nghiền nhỏ và nấu chảy. Quá
trình trên sẽ cho ra granulat, một nguyên liệu thay thế dầu thô trong công
nghiệp hoặc làm chất phụ gia.
Bên cạnh giải pháp trên, ở một số nước, người ra có thể áp dụng các
biện pháp sinh học để xử lý rác thải sinh hoạt. Phương pháp này đã mang lại
những hiệu quả rất lớn và đang được nhân rộng. Viện nghiêm cứu nông
nghiệp thực hiện Beltville (Mỹ) đã áp dụng phương pháp ủ thành đống có thổi
khí lần đầu tiên. Rác được ủ thành đống cao từ 2-2,5m phía dưới có đặt hệ
thống phân phối khí, nhờ hệ thồng phân phối khí mà quá trình chuyển hóa xảy
ra nhanh hơn, nhiệt độ đống ủ được ổn định và phù hợp với sự phát triển của
nhiều nhóm sinh vật. Năm 1985, Feinstein đã tổng kết các biện pháp có thể
thấy nếu ủ rác trong điều kiện hiếu khí có điều khiển bằng cách thổi khí để
12
giữ nhiệt độ bể ủ và có bổ sung nước tạo độ chất ủ thì rút ngắn được thời gian
xử lý, tỷ lệ mùn cưa hữu cơ cũng như lượng mùn tạo thành cao.[13]
Hiện nay, ở hầu hết các nước Châu Âu, các giải pháp như chôn lấp, đốt
rác ít được thực hiên và có xu hướng chấm dứt vì các lý do kinh tế cũng như
môi trường sau này. Giải pháp chôn lấp chỉ được thực hiện đối với những chất
thải độc hại không thể xứ lý hoặc xử lý quá tốn kém (ví dụ như chất thải hạt
nhân). Giải pháp đốt (nhiệt) cũng chỉ được thực hiện đối với các chất thải khó
phân hủy sinh học, chất thải bệnh viện, chất thải công nghiệp, hóa chất bảo vệ
thực vật…
Bộ Môi trường
Phòng hoạch định
chính sách
Sở quản lý chất
thải và tái chế
Đơn vị quản lý
chất thải
Phòng quản lý chất
thải công nghiệp
Hình 2.2: Sơ đồ tổ chức quản lý chất thải rắn tại Nhật Bản
Nguồn: ThS.Trần Nhật Nguyên, Kinh nghiệm Quản lý CTR tại Nhật Bản
2.5.2. Thực trạng quản lý và xử lý rác thải tại Việt Nam
2.5.2.1. Tình hình phát sinh rác thải ở Việt Nam
Trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về
phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1990, Việt Nam có khoảng 500 đô thị lớn
nhỏ. Tính đến tháng 6/2007 có tổng cộng 729 đô thị các loại, trong đó có 2 đô
thị loại đặc biệt (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh), 4 đô thị loại I (thành phố), 13
đô thị loại II (thành phố), 43 đô thị loại III (thành phố), 36 đô thị loại IV (thị
xã), 631 đô thị loại V (thị trấn và thị tứ). Trong những năm qua, tốc độ đô thị
hóa diễn ra rất nhanh đã trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế –
13
xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về kinh tế - xã hội, đô
thị hóa quá nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm chất lượng
môi trường và phát triển không bền vững. Lượng chất thải rắn phát sinh tại các
đô thị và khu công nghiệp ngày càng nhiều với thành phần phức tạp [21.2].
Lượng CTRSH tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày
càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung
ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân
số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố
Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)...
Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh CTRSH tăng đồng đều
hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%).
Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô
thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả
nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình,
nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở,
đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất
thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt
để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị.
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô
thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000
tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh từ
tất cả các đô thị (hình 2.1 và bảng 2.6).[21.2]
14
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ phát sinh CTRSH tại các đô thị Việt Nam 2007
Bảng 2.6: Lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007
STT
Loại đô
Lượng CTRSH bình quân
Lượng CTRSH đô thị
phát sinh
Tấn/ngày
Tấn/năm
(kg/người/ngày)
1
Đặc biệt
0,84
8.000
2.920.000
2
Loại I
0,96
1.885
688.025
3
Loại II
0,72
3.433
1.253.045
4
Loại III
0,73
3.738
1.364.370
5
Loại IV
0,65
626
228.490
Tổng
6.453.930
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các địa phương
thị
trên đầu người
Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô
thị vùng Đông Nam Bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245
tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở
lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng
phát sinh CTRSH đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị
khu vực miền núi Tây Bắc Bộ có lượng phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất chỉ
có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng
15
Tây Nguyên, tổng lượng phát sinh CTRSH đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm
3,68%). Đô thị có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh
(5.500 tấn/ngày), Hà Nội (2.500 tấn/ngày); đô thị có lượng CTRSH phát sinh
ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng
20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên Bái 33,4 tấn/ngày và thị xã
Hà Giang 37,1 tấn/ngày.
Tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người tại các đô thị
đặc biệt và đô thị loại I tương đối cao (0,84 – 0,96kg/người/ngày); đô thị loại
II và loại III có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người là
tương đương nhau (0,72 - 0,73 kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ phát
sinh CTRSH đô thị bình quân trên một đầu người đạt khoảng 0,65
kg/người/ngày.
Tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân lớn nhất tập trung ở các đô thị phát
triển du lịch như TP. Hạ Long 1,38 kg/người/ngày; TP. Hội An 1,08
kg/người/ngày; TP. Đà Lạt 1,06 kg/người/ngày; TP.Ninh Bình 1,30
kg/người/ngày. Các đô thị có tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân đầu người
thấp nhất là TP. Đồng Hới (Tỉnh Quảng Bình) chỉ 0,31 kg/người/ngày; Thị xã
Gia Nghĩa 0,35 kg/người/ngày; Thị xã Kon Tum 0,35 kg/người/ngày; TP Cao
Bằng 0,38 kg/người/ngày. Trong khi đó tỷ lệ phát sinh bình quân đầu người tính
trung bình cho các đô thị trên phạm vi cả nước là 0,73 kg/người/ngày.[21.2]
Bảng 2.7: Lượng CTRSH đô thị theo vùng địa lý ở Việt Nam đầu năm 2007
STT
1
2
3
4
5
Lượng CTRSH bình
Lượng CTRSH đô thị
Đơn vị hành chính
quân trên đầu người
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên Hải Nam Trung Bộ
(kg/người /ngày)
0,81
0,76
0,75
0,66
0,85
phát sinh
Tấn/ngày Tấn/năm
4.444
1.622.060
1.164
424.860
190
69.350
755
275.575
1.640
598.600
16
6
Tây Nguyên
7
Đông Nam Bộ
8
Đồng Bằng sông Cửu Long
Tổng cộng
0,59
0,79
0,61
0,73
650
6.713
2.136
17.692
237.250
2.450.245
779.640
6.457.580
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các địa phương
Với kết quả điều tra thống kê chưa đầy đủ như trên cho thấy, tổng
lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị ở nước ta ngày càng gia tăng với tỷ lệ
tương đối cao (10%/năm) so với các nước phát triển trên thế giới. Tổng lượng
phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV lên
khoảng 6,5 triệu tấn/năm (năm 2004: tổng lượng chất thải sinh hoạt của tất cả
các đô thị Việt Nam là 6,4 triệu tấn/năm).[21.2]
17
Bảng 2.8: Thành phần của CTR sinh hoạt ở một số đô thị miền Bắc
% trọng lượng
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Thành phần
Các chất dễ cháy
Các chất hữu cơ
Plastic
Giấy vụn, catton
Giẻ vụn
Cao su
Các chất không cháy
Kim loại
Thuỷ tinh
Chất trơ
Thành phần nguy hại
Hà Nội Hải Phòng Nam Định Thái Nguyên
69,9
52,0
80,5
71,3
51,9
40,48
65,0
62,0
7,3
3,10
7,0
6,0
4,5
6,42
4,0
5,0
3,7
1,10
2,3
1,2
2,4
1,10
2,2
0,5
29,6
46,3
18,3
27,9
7,0
5,5
3,0
2,1
5,1
5,6
2,0
2,2
17,60
35,0
13,3
20,7
0,5
1,7
1,2
0,8
(Nguồn: T/C Xây dựng, số 12/2006)
Theo số liệu trên cho thấy, trong tổng số lượng rác được chôn lấp thì có
50% đến 60% là chất hữu cơ, trong đó tỷ lệ nước chiếm 60 - 70%. Phần lớn các
đô thị đều chưa có bãi rác chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh và vận hành đúng
quy trình. Bên cạnh đó, các loại chất thải nguy hại không được phân loại riêng
mà trộn chung với những chất thải sinh hoạt, nếu không được xử lý triệt để dẫn
đến suy thoái môi trường đất, nước, không khí…
Ước tính lượng chất thải phát sinh trên toàn quốc khoảng hơn 15 triệu
tấn/năm, trong đó có khoảng hơn 150.000 tấn là chất thải nguy hại. Dự báo
đến năm 2015, lượng chất thải rắn có thể tăng từ 24% đến 30%. Các thành
phố ở Việt Nam là nguồn phát sinh chính rác thải sinh hoạt, tuy chỉ chiếm
24% dân số của cả nước nhưng lại phát sinh tới 50% tổng lượng rác thải sinh
hoạt và 80% chất thải rắn. Ước tính mỗi người dân đô thị Việt Nam phát thải
trung bình khoảng 2-3 kg chất thải rắn mỗi ngày, gấp đôi lượng phát thải bình
quân đầu người ở nông thôn.[19]
2.5.2.2.Tình hình quản lý, xử lý rác thải tại Việt Nam
2.5.2.2.1. Tình hình quản lý rác thải tại Việt Nam
18
Quản lý rác thải bao gồm các hoạt động: Phòng ngừa và giảm thiểu
phát sinh rác thải; phân loại tại nguồn; thu gom, vận chuyển; tăng cường tái
sử dụng, tái chế; xử lý và tiêu huỷ. Công tác quản lý rác thải ở Việt Nam hiện
nay còn chưa tiếp cận được với phương thức quản lý tổng hợp trên quy mô
lớn, chưa áp dụng đồng bộ các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế (3R)
để giảm tỷ lệ rác thải phải chôn lấp. Hoạt động giảm thiểu phát sinh rác thải,
một trong những giải pháp quan trọng và hiệu quả nhất trong quản lý rác thải,
còn chưa được chú trọng. Chưa có các hoạt động giảm thiểu RTSH. Ở quy
mô công nghiệp, số cơ sở áp dụng sản xuất còn rất ít, khoảng 300/400.000
doanh nghiệp. Hoạt động phân loại tại nguồn chưa được áp dụng rộng rãi, chỉ
mới được thí điểm trên qui mô nhỏ ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP
Hồ Chí Minh. Tỷ lệ thu gom rác thải ở các vùng đô thị trung bình đạt khoảng
80-82%, thấp nhất là đô thị loại IV (65%), ở Hà Nội cao hơn (90%); ở các
điểm dân cư nông thôn xấp xỉ 40-55%. Khoảng 60% khu vực ở nông thôn
chưa có dịch vụ thu gom rác thải, chủ yếu dựa vào tư nhân hoặc cộng đồng
địa phương. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển rác thải tuy đã tăng dần song vẫn còn
ở mức thấp, chủ yếu phục vụ cho các khu vực đô thị, chưa vươn tới các khu
vực nông thôn. Xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển rác thải tuy đã được
phát triển nhưng chưa rộng và chưa sâu, chủ yếu được hình thành ở các đô thị
lớn. Năng lực trang thiết bị thu gom, vận chuyển còn thiếu và yếu, dẫn tới
tình trạng tại một số đô thị đã thực hiện phân loại rác thải tại nguồn nhưng khi
thu gom, vận chuyển lại đem đổ chung làm giảm hiệu quả của việc phân loại.
Tái sử dụng và tái chế chất thải mới chỉ được thực hiện một cách phi chính
thức, ở qui mô tiểu thủ công nghiệp, phát triển một cách tự phát, không đồng
bộ, thiếu định hướng và chủ yếu là do khu vực tư nhân kiểm soát.
Ở nước ta hiện nay, công tác thu gom rác thải chưa đáp ứng được với
yêu cầu. Tại các thành phố lớn, tỷ lệ thu gom RTSH tăng lên theo thời gian tuy
nhiên vẫn còn mức thấp. Ở các thành phố lớn nhờ được đầu tư kinh phí, các
19
trang thiết bị vận chuyển, có đội ngũ thu gom đông đảo nên tỷ lệ thu gom chất
thải cao hơn ở khu vực nông thôn tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 20% chủ yếu là các
khu vực thị trấn, thị tứ và chợ. Đối với các xã và các khu vực xa trung tâm thì
tỷ lệ thu gom còn thấp hơn thậm chí công tác thu gom còn chưa thực hiện.
Theo chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia năm 2015, sẽ phấn đấu
50% hộ gia đình, 70% các doanh nghiệp có dụng cụ phân loại rác thải tại
nguồn, 80% khu dân cư có thùng rác tập trung và 80% các khu vực công cộng
có thùng thu gom rác, 90% RTSH được thu gom, vận chuyển.[17]
2.5.2.2.2. Tình hình xử lý rác thải tại Việt Nam
Xử lý rác thải là công đoạn cuối cùng của công tác vệ sinh môi trường.
Đây là công đoạn cần thiết góp phần phòng chống ô nhiễm môi trường không
khí, đất, nước mặt và nước ngầm. Trong việc xử lý chất thải rắn nói chung và
chất thải sinh hoạt nói riêng, phải dựa trên những phân tích cụ thể của địa
phương và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật để lựa chọn công nghệ. Tại Việt Nam
những biện pháp để xử lý rác thải thường là:
a.Phương pháp sinh học: gồm
Phương pháp ủ kỵ khí(Anaerobic Compsting)
Đây là quá trình phân giải các chất hữu cơ mà không cần sự có mặt của
oxy, sản phẩm cuối cùng là CH4, CO2, NH3, một lượng lớn các khí khác, các
axit hữu cơ và sinh khối vi sinh vật.
Bản chất của quá trình này là nhờ sự hoạt động của các vi sinh vật, các
hợp chất hữu cơ bền vững (xenluloza, hemixenluloza, lignin, tinh bột và các
chất hữu cơ cao phân tử khác) được chuyển thành các hợp chất đơn giản hơn
và các chất khí, trong đó CH4 chiếm tỷ lệ lớn.
Nhược điểm của phương pháp xử lý này là không áp dụng cho một
khối lượng rác thải lớn, mất nhiều thời gian, khó tận thu được hết khí, gây ô
nhiễm môi trường. Hơn nữa, mùn rác thải ở mức độ công nghiệp người ta sử
dụng phương pháp hiếu khí.
20
Phương pháp ủ hiếu khí(Aerobic compasting)
Dựa vào phương thức cung cấp oxy vào bể ủ rác thải, có thể chia thành
2 phương pháp ủ hiếu khí: Lên men tự nhiên có đảo trộn và lên men có thổi
khí cưỡng bức.
Trong các biện pháp xử lý rác bằng vi sinh vật thì biện pháp ủ khí có
kiểm soát khống chế nhiệt độ và bổ sung nước, tạo độ ẩm thích hợp là đạt
hiệu quả cao nhất.[9]
b. Xử lý rác thải bằng phương pháp chôn lấp
Phương pháp truyền thống đơn giản nhất là chôn lấp rác. Phương pháp
này có ưu điểm là chi phí thấp dễ áp dụng. Rác thải được tập trung tại bãi
chôn lấp đã được xây dựng trước, xe ủi san bằng , đầm nén trên bề mặt và đổ
lên một lớp đất. Hàng ngày phun thuốc diệt ruồi, rắc vôi bột… để khử trùng.
Theo thời gian, sự phân hủy vi sinh vật làm cho rác trở nên tơi xốp và thể tích
bãi rác thải giảm xuống.[9]
c. Xử lý rác thải bằng phương pháp nhiệt (đốt)
Đây là phương pháp đốt làm giảm đến mức tối thiểu chất thải cho khâu
xử lý cuối cùng. Nếu sử dụng công nghệ tiên tiến thì quá trình đốt rác không
gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là môi trường không khí. Tuy nhiên,
phương pháp này rất tốn kém so với phương pháp chôn lấp.[8]
d. Phương pháp xử lý rác thải bằng công nghệ ép kiện
Phương pháp này được thực hiện trên cơ sở toàn bộ rác thải thu gom
vào nhà máy. Rác được phân loại bằng phương pháp thủ công trên băng tải
nhằm thu hồi các loại rác thải như kim loại, nilon, giấy, thủy tinh… để tái chế.
Những chất còn lại sẽ được băng tải chuyển qua hệ thống ép nén rác bằng
thủy lực với mục đích làm giảm tối thiểu thể tích khối rác và tạo thành các
kiện ép với tỷ số nén rất cao.[8]
e.Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt bằng công nghệ SERAPHIN ở Việt
Nam
21
Công nghệ này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm rác thải của Việt Nam
là chưa được phân loại từ nguồn. Với công suất 80-150 tấn/ngày, công nghệ
seraphin có thể xử lý triệt để tới 90% khối lượng rác để tái chế thành phân
hữu cơ và nguyên liệu làm vật liệu xây dựng.[8]
2.5.2.2.3. Những hạn chế trong công tác quản lý, xử lý rác thải tại Việt Nam
Công nghệ tái chế rác thải tại các làng nghề hầu hết là cũ và lạc hậu, cơ
sở hạ tầng yếu kém, quy mô sản xuất nhỏ dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng ở một số nơi. Một số làng nghề tái chế hiện nay đang
gặp nhiều vấn đề môi trường bức xúc như Chỉ Đạo (Hưng Yên), Minh Khai
(Hưng Yên), làng nghề sản xuất giấy Dương Ổ (Bắc Ninh)… Một số công
nghệ đã được nghiên cứu áp dụng như trong đó chủ yếu tái chế chất thải hữu
cơ thành phân vi sinh (SERAPHIN, ASC, Tâm Sinh Nghĩa) hay viên nhiên
liệu (Thủy lực máy - Hà Nam) song kết quả áp dụng trên thực tế chưa thật khả
quan. Nhìn chung, hoạt động tái chế ở Việt Nam không được quản lý một
cách có hệ thống, có định hướng mà chủ yếu do các cơ sở tư nhân thực hiện
một cách tự phát.[21.10]
Mặc dù những năm gần đây, hoạt động thu gom, xử lý của nhiều công
ty môi trường đô thị tại các địa phương đã có những tiến bộ đáng kể, phương
thức tiêu huỷ chất thải sinh hoạt đã được cải tiến, nhưng rác thải vẫn là mối
hiểm hoạ đối với sức khoẻ và môi trường.
Từ trước tới nay, phần lớn rác thải sinh hoạt ở nước ta không được tiêu
huỷ một cách an toàn. Hình thức tiêu huỷ rác thải phổ biến vẫn là đổ ở bãi rác
lộ thiên. Trong số 91 điểm tiêu huỷ rác thải trong cả nước, chỉ có 17 điểm
được đánh giá là hợp vệ sinh. Còn lại, các bãi rác chôn lấp được vận hành
không đúng kỹ thuật và bãi rác lộ thiên gây ra nhiều vấn đề môi trường cho
dân cư quanh vùng, như nước rác làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước
ngầm, gây ô nhiễm không khí, là ổ phát sinh ruồi, muỗi, chuột, bọ…
22
Tuy đã có nhiều nỗ lực nhưng nước ta còn thiếu các hệ thống xử lý chất
thải công nghiệp nguy hại và các cơ chế khuyến khích việc thực hiện những
biện pháp tiêu hủy an toàn. Hiện tại, tổng mức đầu tư cho việc trang bị các lò
đốt rác thải đã có thể tiêu huỷ khoảng 50% tổng lượng chất thải y tế nguy hại
của cả nước. Do thiếu kinh nghiệm vận hành, bảo dưỡng lò đốt dẫn tới tình
trạng không vận hành lò đúng theo quy trình kỹ thuật, làm tăng các loại khí
độc hại hoặc thực hiện tiêu hủy giống như các rác thải thông thường khác.
Như vậy, nếu xét theo năng lực hiện có và mức độ phát triển các đô thị
và khu công nghiệp, nhu cầu về quản lý rác thải ở nước ta là rất lớn. Việc hạn
chế lượng rác thải phát sinh từ nguồn đã khó, việc quản lý và xử lý rác thải
khi đã phát sinh càng khó hơn.[21.7]
23
PHẦN III. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Rác thải tại khu du lịch biển phường Bãi Cháy.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Khu du lịch biển phường Bãi Cháy – TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh:
Gồm các khu phố: từ khu phố 1 đến khu phố 6 (theo UBND phường Bãi Cháy).
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của phường Bãi
Cháy, TP Hạ Long.
3.2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Vị trí địa lý
Điều kiện khí hậu
Hiện trạng sử dụng đất
3.2.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội
Điều kiện kinh tế
Điều kiện xã hội
3.2.2. Điều tra hiện trạng rác thải khu du lịch phường Bãi Cháy, TP Hạ
Long.
3.2.2.1. Đặc điểm rác thải tại khu vực nghiên cứu
3.2.2.2.Tình hình thu gom, phân loại rác thải và ý thức của người dân
3.2.2.3. Tình hình quản lý và xử lý rác thải ở khu du lịch phường Bãi Cháy, TP
Hạ Long
3.2.2.4. Đánh giá tình hình thu gom, phân loại rác thải
3.2.3. Dự tính khối lượng rác thải trong tương lai.
3.2.4. Đề xuất biện pháp quản lý và xử lý rác thải
24
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập tài liệu sơ cấp
- Thu thập số liệu, thông tin bằng phiếu điều tra nông hộ
- Thu thập số liệu, thông tin bằng phiếu điều tra công nhân thu gom rác.
- Thập số liệu, thông tin bằng phiếu điều tra các nhà hàng, khách sạn,
hộ kinh doanh.
- Điều tra lượng và loại rác tại các hộ gia đình.
3.3.2. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp
- Thu thập tài liệu và số liệu từ Chi cục bảo vệ môi trường tỉnh Quảng
Ninh, UBND phường Bãi Cháy và công ty CP Môi trường đô thị INDEVCO.
- Thu thập tài liệu liên quan ở sách, báo và internet
3.3.3. Phương pháp xử lý số liệu bằng phần mềm Excel.
25