Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

ngôn ngữ nghệ thuật trong xuân hương thi tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.89 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA
KHOA HỌC XÃ HỘI & NV
BỘ MÔN NGỮ VĂN

TRẦN THỊ KIỀU LINH

NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG
“XUÂN HƯƠNG THI TẬP”

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NGỮ VĂN

Cán bộ hướng dẫn: ThS.GVC. PHAN THỊ MỸ HẰNG

Cần Thơ - 2012


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề
tài

Từ trước đến nay đã có rất nhiều quan điểm
đánh giá khác nhau về thơ Hồ Xuân Hương. Có người
cho rằng ở thơ Bà "Thi trung hữu quỷ". Tản Đà, Xuân
Diệu thì gọi Bà là "Bà chúa thơ Nôm", nhà thơ Hoa
Bằng thì gọi Bà là "nhà thơ cách mạng"...Tựu chung
các nhà nghiên cứu đều cùng gặp nhau ở một quan
điểm đó là thơ Hồ Xuân Hương có một phong cách
riêng, khác thường và tài hoa.
Hồ Xuân Hương là một hồn thơ giàu giá trị nhân
văn, nhân bản, một chất giọng lạ và giàu sắc thái sáng


tạo, nhất là trong cách thức phối hợp các phương diện
biểu hiện của ngôn ngữ trong tiếng việt, về ngữ âm,
từ vựng và ngữ pháp. Đến với thơ Hồ Xuân Hương là
đến với một tài năng và sự độc đáo một hiện tượng lạ
của nền văn học Việt Nam. Một con người độc đáo cả
về tính cách lẫn thơ văn, mà kể về sự độc đáo thì từ
trước đến nay chưa có một nhà thơ nữ nào sánh bằng.
Điều làm nên sự độc đáo nổi tiếng chính là đặc trưng
ngôn từ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương.
So với các sáng tác của một số nhà thơ đương
thời, sự nghiệp sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương chủ
yếu là mảng thơ Nôm truyền tụng, bên cạnh đó còn
xuất hiện Lưu Hương Kí, Xuân Hương thi tập ...với
một phong cách thơ không xen lẫn với ai được. Thơ
Hồ Xuân Hương chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng
người đọc, làm say mê, rung động biết bao thế hệ.
Chúng ta ấn tượng với thơ Hồ Xuân Hương, một
chất thơ dung dị dễ hiểu, dễ nhớ và mang đậm âm
hưởng của dân gian, vì vậy ta dễ dàng đồng cảm với
nữ sĩ. Sự đồng điệu đó đã giúp ta hiểu rất sâu sắc tiếng


nói chân chất, mộc mạc
trong thơ Bà, đó là ngôn
ngữ bình dân, giản dị,
ngôn ngữ dân tộc.
Trên cơ sở tiếp thu
những công trình của các
nhà nghiên cứu, phê bình,
và các


tài liệu có liên

quan, chúng tôi quyết định
chọn đề tài “Ngôn ngữ
nghệ thuật trong “Xuân
Hương Thi Tập” của Hồ
Xuân Hương”, với mong
muốn đóng góp thêm tiếng
nói bé nhỏ của mình bên
cạnh những công trình
nghiên cứu về cuộc đời,
ngôn từ nghệ thuật độc
đáo trong thơ của "Bà
chúa thơ nôm".

2. Lịch sử vấn đề
Cuộc đời và thơ Hồ
Xuân Hương gây nhiều
tranh

luận

trong

giới

nghiên cứu. Đó là nỗi ám
ảnh chưa bao giờ đứt
đoạn về con người và thơ

văn. Đến với thơ Hồ
Xuân


Hương, mỗi người đều có sự nhìn nhận đánh giá khác nhau và xem chừng các cách
giải quyết vẫn chưa thỏa đáng. Điều đó chứng tỏ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng
độc đáo, dù có rất nhiều công trình nghiên cứu và khám phá về con người và thơ văn
Bà nhưng cho đến nay vẫn chưa đi đến một kết luận triệt để.
Chính vì gặp khó khăn trong việc xác lập một cách chính xác thân thế Hồ Xuân
Hương nên trước đây có rất ít các công trình nghiên cứu, nhưng sang thế kỷ XX cuộc
đời và sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương được giới nghiên cứu đặt biệt quan tâm và Bà
trở thành một trong những ngôi sao sáng đóng góp cho giai đoạn văn học cổ điển. Vì
vậy đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về thơ ca và những đặc sắc
trong ngôn ngữ nghệ thuật của Bà với nhiều phát hiện mới theo nhiều hướng khác
nhau.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hồ Xuân Hương là một đề tài có không ít các
công trình nghiên cứu, khai thác cái sâu sắc, độc đáo trong ngôn ngữ thơ, các phong
tục tập quán, sinh hoạt văn hóa dân gian của người Việt thông qua cái nhìn và cảm
nhận của hồn thơ Hồ Xuân Hương. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một số phát hiện mới
về đặc trưng ngôn từ mà các nhà nghiên cứu đã đề cập tới trong những các công trình
sau:
Bài viết "Thơ Hồ Xuân Hương với văn học dân gian" [19], in trong cuốn Hồ
Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Đăng Na đã nhận xét: "...Chủ nghĩa
nhân đạo thù địch với chủ nghĩa cấm dục tôn giáo, thù địch với thói đạo đức giả đã
khiến Xuân Hương đưa những cảm hứng dân gian không được giai cấp thống trị thừa
nhận vào thơ chính thức. Đó cũng là nét riêng của Hồ Xuân Hương, bà tiếp tục tiếng
cười dân gian một cách thành công. Tuy nhiên văn học dân gian không phải là nguồn
duy nhất tạo nên Hồ Xuân Hương..."[19, tr. 363].
Bài Viết "Xuân Hương đàm thoại – Một nhịp nối trong tiến trình dân gian hóa"
[22], Đào Thái Tôn đã nhận định: "...Như một phương tiện quan trọng trong nghĩa của

hai chữ "nhân quyền". Có điều là một tiếng nói như thế, ở một thời điểm lịch sử cụ
thể, ở một con người cụ thể, lại là một phụ nữ có hoàn cảnh chắc chắn không phải
sống trong nhung lụa như một nàng Mai Am nào đó, thì phương tiện chủ yếu để bảo
tồn tiếng nói ấy cho đến nay, không còn gì khác hơn là lòng người "bia miệng". Đó là
phương tiện thường thấy trong văn học dân gian, phương tiện không biết tự bao giờ
đã giữ lại cánh cò cánh vạc, từng tiếng ru xao động lòng.”[22 tr.90].


Bài viết "Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương" in trong tạp chí
Ngôn ngữ và đời sống [11], Đặng Thanh Hòa đã nhận định như sau: "Người ta
thường bảo "nôm na là cha mánh khóe" thế nhưng đến với thơ Hồ Xuân Hương thì đó
là một ngoại lệ, bởi vì người đọc nhớ đến Hồ Xuân Hương, yêu Xuân Hương lại chính
từ cái "mánh qué" ấy. Nếu không có chất "nôm na", "mánh qué", "xỏ xiên" đầy tinh
quái này thì có lẽ đã không có một Hồ Xuân Hương để cho người đời chiêm ngưỡng
và tôn vinh bà thành bà chúa thơ Nôm trong làng thơ Việt Nam. Chính cái chất nôm
na trong thơ của bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc.
Người ta ngây ngất, hỉ ha, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ "nhà quê", "mánh qué"...Tất
cả những cái đó hoàn toàn xa lạ với sự chau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta
thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ" [11, tr. 22],
Quyển “Hồ Xuân Hương Tác giả và tác phẩm”[20], tập hợp rất nhiếu bài viết
về nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong đó, có nhiều ý kiến
khác nhau, trong bài: "Hồ Xuân Hương - Thiên tài huê nguyệt” Trương Tửu đã nhận
xét:"...Về ngôn ngữ, Hồ Xuân Hương còn có đặc điểm nữa là hay dùng những chữ tục,
nạc, ngọt sớt, người bình dân ưa nói : “Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống
đem vôi quét trả đền”...Đầu sư há phải gì bà cốt. Bá ngọ con ong bé cái nhầm... Quân
tử có thương thì bóc yếm, Xin đừng ngó ngoáy lỗ chôn tôi...Ong non ngứa nọc châm
hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa...Một đàn thằng ngọng đứng xem
chuông...Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không...Kìa cái diều ai nó lộn lèo. Xoạc cẳng đo xem đất
vắn dài, Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo...Ta có thể nói về cách dùng”[20, tr. 84].
Quyển "Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương" [28], Lê Trí Viễn cho rằng: "Sở dĩ ngôn

ngữ Xuân Hương lột được mọi ý đồ của nữ sĩ chính vì cái tài vô song của người vận
dụng. Cái tài ấy chẳng khác gì cái tài của người làm xiếc. Vượt xa trên mức tưởng
tượng. Tài tình như thần thông biến hóa. Dân gian mà cổ điển. Điêu luyện mà cứ hồn
nhiên. Thực hư, hư thực, nó đấy mà không phải nó, bóng mà hình, hình mà bóng, đùa
mà thật, thật mà đùa. Có vẻ như Tôn Ngộ Không với Tam Tăng thì chỉ một thân, trung
thật, chân chất đến xúc động, nhưng với yêu quái, ma vương thì có đến trăm Tôn Ngộ
Không, chẳng biết đâu là thật, là giả "[28,tr.34].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều có một tiếng nói chung là thống nhất với
nhau trên những vấn đề cơ bản về sự nghiệp thơ văn. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó
vẫn có những thái độ khen chê khác nhau thậm chí còn có một số ý kiến mâu thuẫn


nhau và cho đến nay vẫn chưa có một sự giải quyết thỏa đáng. Thơ Hồ Xuân Hương
thật sự có một sức quyến rũ mạnh giống như "Lược trúc chải cài trên mái tóc, Yếm
đào trễ xuống dưới nương long, Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, Một lạch đào
nguyên nước chửa thông”. Đó là những tầng nghĩa được kết tinh từ những kinh
nghiệm dân gian và cả những suy tư cần phản ánh từ hiện thực cuộc sống. Qua các
sáng tác của mình, Hồ Xuân Hương muốn bộc lộ khả năng sáng tạo về ngôn từ nghệ
thuật, đó cũng là nội dung hướng đến trong nhiều công trình nghiên cứu. Những phát
hiện mới về nghệ thuật trong thơ Bà vẫn sẽ là vấn đề nóng thu hút nhiều công trình
tham gia nghiên cứu. Những ai say mê, muốn khám phá thơ Bà thì hãy tìm về với
ngọn nguồn của thơ ca truyền thống mà chiêm nghiệm.

3. Mục đích, yêu cầu
Mục đích luận văn hướng đến là có thêm những phát hiện mới về nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương.Vấn đề cụ thể chúng tôi đặt ra đó là nghiên
cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong “Xuân Hương thi tập”. Để có những căn cứ làm nền
tảng cho vấn đề nghiên cứu đặt ra chúng tôi xác định cái hay và độc đáo trong thơ Bà
phải xét trong từng cấp độ ngữ âm, từ vựng và phương diện ngữ nghĩa. Để từ đó chúng
ta đưa ra những dẫn chứng kết luận sự độc đáo ngôn ngữ nghệ thuật trong “Xuân

Hương thi tập”.

4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn về phương diện nghệ thuật khảo sát “Xuân Hương thi tập”, vì vậy
chúng tôi chỉ bám sát vấn đề tập trung tim hiểu các vấn đề về cách sử dụng ngôn ngữ
trong “Xuân Hương thi tập” về ngữ âm, từ vựng và ngữ nghĩa, để phù hợp và bám sát
với phạm vi của đề tài. Qua quá trình tìm kiếm những luận điểm có liên quan chúng tôi
tìm được nhiều b
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh đối chiếu: Chúng tôi đã tiến hành so sánh các sáng tác
trong xuân hương thi tập của Hồ Xuân Hương với các sáng tác thơ của các nhà thơ
cùng thời với bà, qua đó làm nổi bật đặc trưng ngôn từ trong thơ "Bà chúa thơ Nôm".
Ngoài ra, chúng tôi kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở
phân tích, nhận xét, đánh giá từ đó rút ra các kết luận cần thiết có liên quan đến đặc
trưng ngôn từ nghệ thuật trong “Xuân Hương thi tập” của Hồ Xuân Hương về ngữ âm,
từ vựng và phương diện ngữ nghĩa.


Phương pháp thống kê, phân loại: Trích ra một số bài thơ tiêu biểu của Xuân
Hương thi tập để vận dụng trực tiếp trong quá trình phân tích các phương diện nghệ
thuật để làm nổi bật đặt trưng ngôn từ trong thơ Hồ Xuân Hương.


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Nghệ sĩ là người biết sáng tạo “Chất liệu” ngôn
ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng hình tượng nghệ thuật của
riêng mình và tạo cho mình một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm
lẫn được. Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định “Nếu tác giả nào không có lối nói
riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả”.


1.1. Đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học.
Ngôn ngữ trong tất cả các tính chất thẫm mĩ thì nó là một chất liệu là một bộ
phận mang tính chất đặc trưng của văn học. Không có ngôn từ thì không thể có một tác
phẩm. Trong tác phẩm văn học, ngôn từ được cụ thể hóa và vật chất hóa sự biểu hiện
chủ đề và tư tưởng tác phẩm, tính cách nhân vật và cốt truyện. Nguyễn Tuân định
nghĩa về nghề văn như sau “nghề văn là nghề của chữ, chữ với tất cả mọi nghĩa mà
mỗi chữ phải có được trong một câu,, nhiều câu,nó là cái nghề dùng chữ nghĩa để sinh
sự để sự sinh”.Bàn về ngôn từ trong văn học M Gooki cho rằng “ngôn ngữ là yếu tố
thứ nhất của văn học”.
Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn từ bình dân đã được nghệ
thuật hóa, dưới bàn tay tài năng của nhà văn ngôn từ được chọn lọc trau chuốt. Đặt
biệt hơn là ngôn từ ấy phải mang đến cho người đọc những cảm xúc thẫm mĩ, những
xúc cảm được nhận biết thông qua những rung động tình cảm và nó khác hẵn với
những xúc cảm khác trong khoa học, rung động thông qua sinh lí. Trong đoạn trích
“Chị Em Thúy Kiều” Nguyễn Du sử dụng hai từ “đầy đặn , nở nang” trong câu thơ:
“Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ
đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn như mặt trăng đêm rằm
của nàng Vân, cũng như cả cái nét ngài minh bạch, rõ ràng, uốn cong thanh tú của
nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận, của cuộc đời nàng. Hai chữ “thua,
nhường” trong câu thơ :
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Câu thơ chỉ thiên nhiên và cũng chính tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài,
xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng
phẳng, không hề có chông gai. Ngôn từ đã góp phần thể hiện cái hay và độc đáo, đặc
biệt với giai đoạn Văn Học Trung Đại, đây là giai đoạn văn học phát triển rực rở và


được xem là giai đoạn mang tính chất cổ điển của văn học Việt Nam. Văn học mang
tính chuẩn mực, với chất liệu ngôn ngữ dân tộc đã được các nhà thơ trao chuốt thành
những vần thơ giàu chất thẩm mĩ.

Ngôn từ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng và bất kỳ tác phẩm văn học
nào cũng được viết, kể bằng lời văn đều phải thông qua ngôn từ và nhân vật.

1.1.1 Tính hình tượng
Tính hình tượng không phải chỉ có trong văn học mà còn có cả trong ngôn từ
thực tế đời sống, nhưng đặc trưng này thể hiện hoàn toàn khác nhau giữa ngôn từ trong
văn học và ngôn từ trong đời sống thực tế.
Trong ngôn từ thực tế, tác giả lời nói và chủ thể đồng nhất. Nhưng người nghe
phải hiểu nó một cách rất thưc tế và phải chú ý xem tác giả lời nói đó là ai, trong tác
phẩm nào, nhầm mục đích gì.
Như vậy tác giả của lời nói giữ vai trò quan trọng, quyết định, cho nên dân gian
có câu “ Miệng người sáng có gang có thép Hoặc Vai mang túi bạc kè kè nói ấm nói ớ
người nghe ầm ầm”. Tức là địa vị xã hội cao hoặc thấp, hoặc tình trạng giàu hoặc
nghèo của tác giả, lời nói có ý nghĩa quyết định. Trong văn học ta lại thấy tác giả lời
nói và chủ thể lời nói không phải là một, điều quan trọng là chủ thể lời nói.
Tính hình tượng của ngôn từ văn học bắt nguồn từ chủ thể của hình tượng. Chủ
thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát, có ý nghĩa đại diện cho tư tưởng, tình
cảm, tâm trạng của một tầng lớp, giai cấp, một thế hệ ngay cả khi nhà thơ xưng ta,
xưng tôi đấy nhưng cũng không phải lời tác giả, của người thực tế, mà đó chính là lời
của hình tượng, là chủ thể tư tưởng mang ý nghĩa đại diện. khi miêu tả Từ Hải,
Nguyễn Du đã viết:
“Râu hùm, hàm én, máy ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao,
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt Đông.
Giang hồ quen thú vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.”
(Truyện Kiều)



Bằng chất liệu ngôn từ, hình ảnh Từ Hải xuất hiện như một vị thần cứu vớt, che
chở cho đời Thúy Kiều. Từ Hải xuất hiện, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội
trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, vì trọng Kiều như
một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ Hải thực sự là một người đa tình. Song
dẫu đa tình, Từ Hải không quên mình là một tráng sĩ còn trọng trách với đất nước.
“Râu hùm, hàm én, mày ngài”.Từ Hải là đại diện cho hình tượng người anh hùng
trong xã hội phong kiến, trong xã hội của “Truyện Kiều” Từ Hải là mẫu người lí tưởng
trong xã hội, và đồng thời hình tượng nhân vật Từ Hải thể hiện được ước mơ của con
người trong xã hội phong kiến đầy bất công và là người quân tử có sưc mạnh phi
thường để chống lại thế lực của những hạng người xấu xa thâm độc như Hồ Tôn Hiến,
đặc biệt là bất công với người phụ nữ.
Tính hình tượng của ngôn từ văn học không chỉ thể hiện ở các biện pháp tu từ,
phương thức chuyển nghĩa so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hóa, ngoa dụ,...,
mang tính chất cục bộ bề ngoài mà còn nằm sâu trong bản chất hình tượng sáng tác
trong khi tái hiện đời sống. Ngôn từ văn học không chỉ miêu tả sự vận động và động
tác của sự vật hiện tượng mà còn tái hiện đời sống, trạng thái tinh thần của toàn bộ sự
vật và con người trong những thời khắc nhất định. Theo Atonxtoi “ mọi vật trên người
đều có các động động tác hành động và vận động riêng của nó theo một thời điểm nào
đó, không chỉ tác động của cơ thể mà còn là tác động của tâm tư tình cảm.”

1.1.2. Tính tổ chức cao
Ngôn từ trong các loại hình văn bản đều đòi hỏi phải có tính tổ chức cao. Song,
do đặc thù của mỗi loại hình văn bản, tính tổ chức cao và thực hiện những chức năng
khác nhau.
Trong văn bản nghệ thuật, lời văn nghệ thuật mang tính tổ chức cao để giải
phóng tính hình tượng của từ. Tính tổ chức cao của lời thơ thể hiện ở vần, nhịp, niêm,
đối chặt chẽ vừa linh hoạt uyển chuyển nhưng không phải rời rạc, xuôi xuôi.
Tính tổ chức cao trong văn học không chỉ thể hiện ở việc sử dụng từ ngữ mà còn

thể hiện ở dấu câu, một yếu tố tưởng như rất nhỏ trong sử dụng ngôn từ cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Trong hội thảo khoa học, khi nói về dấu câu nhà văn Tô Hoài rất
có lý khi cho rằng:” Dấu câu là hình thức của chữ, của từ. Thật ra, không phải chỉ có
dấu câu mà cả cách ngắt nhịp cũng cần được xem là một từ đa nghĩa, một từ đặc biệt
trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại”.


Trong bài “Qua Đèo Ngang” Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện tính tổ chức rất
cao độ về vần, niêm, đối. xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" có các chữ "tới"
(thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng
thì đó là bài thơ luật trắc.
Hai câu 1, 2 trong bài thơ có sự gieo vần:
“Bước tới đèo Ngang, bóng xế
tà Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì
chỉ phát âm gần giống nhau.
Hai câu 3, 4 có sự đối nhau:
“Lom khom dưới núi tiều vài
chú Lác đác bên sông chợ mấy
nhà,”
"Lom khom" đối với "lác đác" là đối về hình thể và số lượng, thực ra hai câu này
chưa phải đối hoàn chỉnh, "dưới núi" đối với "bên sông" là đối về địa hình, song nếu
nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu
diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận
được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và
"lác đác" chỉ số lượng của câu dưới là hai từ láy âm. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với
"chợ mấy nhà" đối lập về số lượng và tĩnh, động. Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi
là hoàn chỉnh.
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
“Bước tới đèo ngang bóng xế

tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đát bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc
quốc Thương nhà mỗi miệng cái
gia gia Dừng chân đứng lại trời
non nước Một mãnh tình riêng ta
với ta”
(Qua Đèo Ngang)


Câu 1 niêm với câu 8 “tới và mãnh”
Câu 2 niêm với Tu 3: “cây với khom”


Câu 4 niêm với câu 5 “Đát với nước”
Câu 6 niêm với câu 7 “nhà và chân”
Niêm là chất liệu quan trọng góp phần tạo nên sự liên kết nhau của các câu thơ,
vì vậy toàn bài thơ là một mạch cảm xúc nối dài. Do vậy ta có thể thấy được tầm quan
trọng của tính chất tổ chức cao trong văn học, nghệ thuật.
Riêng đối với ngôn từ địa phương, nhà văn quan tâm đến một vấn đề sử dụng từ
địa phương như thế nào, ở mức độ nào trong mỗi tác phẩm, tác dụng của từ địa
phương và nêu bật được tính hình tượng, sự kiện, và con người. Tạo ra những sắc thái
địa phương tác phẩm, đóng góp cho sự phong phú ngôn ngữ dân tộc. Song, người viết
vẫn phải hết sức chú ý. Bên cạnh những từ địa phương được sử dụng rộng rãi với tầng
số xuất hiện rất lớn, đã gần như được phổ thông hóa, ai cũng có thể hiểu được, còn có
nhiều từ ngữ địa phương trong tác phẩm. Nếu lạm dụng từ ngữ địa phương sẻ dễ tạo ra
cản trở trong tâm lý tiếp nhận của công chúng độc giả, không những không giúp ích gì
cho việc cảm thụ thẩm mỹ mà ngược lại còn làm hạn chế phạm vi ảnh hưởng của tác
phẩm.

1.1.3. Tính hàm súc
Xuất phát từ yêu cầu mặt thông tin của tác phẩm văn học, với tư cách là một văn
bản thông tin, bằng một lượng thông tin, bằng nội dung ngôn từ hạn hẹp, tác phẩm văn
học cần phải cung cấp cho người đọc những lượng thông tin lớn nhất không có độ dư
thừa. Nếu hiểu hàm súc là súc tích, ngắn gọn hàm chứa nhiều ý nghĩa thì tính hàm súc
là khả năng của ngôn từ văn học. Có thể miêu tả mọi hiện tượng của hiện tượng một
cách cô đọng, ít lời mà nói được nhiều ý, ý ở ngoài lời,” ý tại ngoại ngôn”, một từ
trong ngôn ngữ văn học có khả năng gợi một số ý nghĩa lớn hơn nó, tràn ra ngoài nó.
Về mặt ngôn từ, tính quy phạm thể hiện qua việc sử dụng cách diễn đạt hàm súc.
Văn học trung đại quan niệm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Nó cũng là tiêu chuẩn
phân biệt văn thơ đích thực với kiểu nôm na mách qué. Cuối bài thơ “Đề đền Sầm
Nghi Đống”, Hồ Xuân Hương viết:
“Ví đây đổi phận làm trai được?
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”
Ý thơ được tác giả sử dụng nghĩa lấp lửng, tạo cách hiểu nước đôi, nhằm mục
đích mỉa mai đấng mày rầu, để từ đó tự khẳng định mình. Sự mỉa mai, ngầm ý phê
phán của câu thơ toát ra từ tính hàm súc của nó.


1.1.4 Tính biểu cảm
Tính biểu cảm là khả năng của ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm biểu hiện cảm
xúc của đối tượng được miêu tả trong tác phẩm, tác động tới tình cảm của người đọc,
truyền đạt được tình cảm, xúc cảm tới người đọc, người nghe. Nghệ thuật là quy luật
của tình cảm. Văn học là một loại hình nghệ thuật nên ngôn từ nghệ thuật không thể
thiếu tính biểu cảm. Văn học tác động tới người đọc bằng con đường tình cảm, con
đường của trái tim, để dẫn người đọc đến bến bờ xa xôi của lí trí thì trước hết văn học
phải tác động từ trái tim người đọc có những câu văn, câu thơ có khả năng” Làm tổ”
trong trái tim người đọc, giúp người đọc, người nghe cảm thụ đời sống một cách mới
mẻ hơn theo quy luật của cái đẹp. Lấy một bài thơ của Hồ Xuân Hương làm ví dụ. Bài
“Bánh trôi nước”. Chọn bài này là vì còn có khá nhiều tranh cãi giữa tín hiệu ngôn ngữ

và cách giải mã.
“Thân em vừa trắng lại vừa
tròn, Bảy nổi ba chìm với nước
non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng
son”.
Đọc bài thơ, đúng như chủ đề đã nói, đây là một bài thơ tả về cái bánh trôi nước
thật sự và cả cách thức làm bánh. Một cái bánh trôi “vừa trắng lại vừa tròn”, khi đem
vào nấu thì “bảy nổi ba chìm” trong nồi nước. Bánh tròn hay méo, rắn hay nát cũng
đều là do người nặn và nhân bánh là đường đỏ “tấm lòng son”. Từ những mã ngôn ngữ
này người ta liên tưởng đến thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vất vả,
cực nhọc, không tự chủ. Từ việc quan sát hiện tượng thực tế, chúng ta có sự liên tưởng
sâu xa, triết lí tạo nên sắc thái biểu cảm cao độ và tác động đến tâm tư tình cảm của
người đọc.
1.1.5. Tính chính xác
Xuất phát từ một yêu cầu rất quan trọng đối với văn học là nó phản ánh hiện thực
một cách chân thực như ý kiến của nhà bác học Lê Quý Đôn “văn muốn hay trước hết
phải đúng”, nói một cách cụ thể, đây chính là khả năng của ngôn từ nghệ thuật trong
văn học có thể biểu hiện đúng đắn mà nhà văn muốn nói, miêu tả đúng đắn cái mà nhà
văn muốn tái hiện. Một từ bình thường nhưng dùng đúng chổ sẻ giúp người đọc tưởng
tượng và cảm thụ một cách đúng đắn, hợp lí về hình tượng được miêu tả.


Từ chính xác trong văn học nghệ thuật khác với tính chính xác trong khoa học.


Trong văn bản khoa học, tính chính xác của ngôn từ dựa trên cơ sở tính đơn nghĩa của
từ ngữ, thuật ngữ. Tính chính xác của ngôn từ nghệ thuật trong văn học dựa trên cơ sở
tính hình tượng, giàu hàm ẩn. Chính xác ở văn nghệ thuật là vẽ đúng một nét sinh

động của đối tượng miêu tả theo như quan niệm của tác giả, theo yêu cầu riêng rất tinh
vi của văn học, là phải chọn đúng từ đó chứ không phải từ khác, phải đặt đúng từ ấy
không chuyển sang vị trí khác, có như thế mới đúng được cảnh ấy, đúng điệu ấy, cái
tinh ấy, cái ý ấy Chẳng hạn. Truyện Kiều diễn tả tâm trạng Thúy Kiều, song mỗi hoàn
cảnh lại có diễn biến tâm trạng khác nhau. Gặp Thúc Sinh trong màn” Kiều báo oán”
khác với lúc gặp Kim Trọng trong màn đoàn viên, hoặc trong” Mưa mùa hạ” Ma Văn
Kháng, nhân vật bà Nhuần thuộc tầng lớp thị dân, ngôn ngữ bà sặc sụa mùi chợ búa
phe phẩy, hay” Mùa lá rụng trong vườn” Ma Văn Kháng, Lý là một nhân vật tính
cách rấ phong phú, đặc sắc đầy cá tính, dễ đổi thay thì ngôn ngữ của Lý luôn thay đổi
giọng điệu, sắc thái biểu cảm, thể hiện đúng tính cách của chị, khi thì mệnh lệnh, lúc
thì cay nghiệt, trợn trạo nhưng cũng có lúc lại rất ngọt ngào, mượt mà, tình cảm, đầm
ấm. Nghĩa là hình tượng nhân vật thế nào thì ngôn ngữ cũng phải thể hiện như thế.
Hoàn cảnh nào, tâm trạng nào, tính cách nào, thì ngôn ngữ phải đúng như thế. Ngôn
ngữ chính xác sẻ tạo cơ hội cho nhà văn dựng lên một chân dung sinh động, khắc họa
được tính cách điển hình sắc nét.
Tóm lại: Lời văn nghệ thuật vận dụng toàn bộ khả năng và phương tiện biểu đạt
của ngôn ngữ, từ vựng, cú pháp, phong cách,...Các phương tiện từ vựng như từ đồng
nghĩa,phân nghĩa, từ thanh, từ cổ, từ mới, tiếng lóng, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa
phương, tạo nên nét đặc trưng cho văn học, vốn ngôn ngữ dân tộc ngày càng được
hoàn thiện. Điều đó góp phần không nhỏ trong việc làm trong sáng tiếng việt.
Các phương tiện ngữ pháp như câu cảm thán, câu đặc biệt, câu nghi vấn, câu rút
gọn, câu đảo ngữ.
Các phương tiện chuyển nghĩa (Phương tiện tu từ) ẩn dụ, hoán dụ, ví von, mỉa
mai, tượng trưng, nhân hóa, phúng dụ, ngoa dụ,..
Ngoải ra, các phương thức chuyển nghĩa còn có các phương thức tổ hợp làm biến
đổi sắc thái biểu đạt như các loại điệp ngữ, nói giảm, phản ngữ, tỉnh lược, chơi chữ, ca
dao,..Tất cả hội tụ chung lại tạo nên nét đặc trưng cho ngôn từ của tiếng việt.

1.2. Giới thiệu Hồ Xuân Hương và “Xuân Hương thi tập”
1.2.1 Giới thiệu Hồ Xuân Hương



Lịch sử Việt Nam có lẽ không có thời nào tồi tệ cho bằng những năm cuối đời
Lê. Năm 1767, Trịnh Sâm lên ngôi chúa mê tửu sắc, bị bệnh kỳ quái, sợ nắng gió,
ngày đêm cứ phải ở trong cung kín như bưng. Yêu Thị Huệ, Trịnh bỏ con trưởng là
Trịnh Khải lập con thứ là Trịnh Cán, gây ra bè đảng trong cuộc tranh giành quyền lực.
Đàng trong quận chúa Nguyễn cứ lăm le ra đánh phá, quấy nhiễu. Trước hỗn cảnh đó,
quan lại chỉ còn biết lấy nịnh hót, luồn cúi làm lẽ sống. Nhân dân sống trong cảnh loạn
ly, các giá trị đạo đức bị băng hoại. Bao nhiêu nghĩa quân thần, tình gia quyến, bao
nhiêu ước thúc luân lý…bị lật nhào. Bởi thế bao nhiêu cặn bã xã hội đều nổi trên mặt.
Những bậc già cả, những vị có học nhìn thời cuộc đâm chán nản, trái lại những kẻ cơ
hội thoả mãn những mưu đồ vô đạo, bất chính. Đây là giai đoạn suy tàn của những
luân lý giáo điều Nho giáo và sự trỗi dậy của những tư tưởng cá nhân tự do, muốn đả
phá và giải phóng khỏi những ràng buộc của những định kiến Nho giáo.
Hồ Xuân Hương đã sống trong một giai đoạn sóng gió nhất với nhiều biến cố
kinh thiên động địa nhất trong lịch sử chế độ phong kiến nước ta. Khi nói về thơ Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến đã có câu:
“Thơ thánh thơ tiên đời vẫn có,
Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi
thay”.
Vì sao gọi thơ Hồ Xuân Hương là thơ quỷ? Phải chăng tính chất quỷ đó được
sinh ra từ một xã hội kỳ quái như thế? Hay là tính chất ngông nghênh, quậy chọc như
trong thơ bà! Tìm hiểu đôi nét về thời đại, sự nghiệp thơ để hiểu hơn về cuộc đời
người đàn bà tài hoa mà bạc mệnh này. Hồ Xuân Hương sống vào thời vua Lê chúa
Trịnh. Chế độ phong kiến đã trải qua một cuộc khủng hoảng cực kì trầm trọng.
Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ kỳ tài, điều đó có lẽ không cần phải bàn cãi gì
nhiều. Nhưng xét đến tiểu sử của bà thì thật là mờ mịt. Xung quanh vấn đề này còn rất
nhiều giả thuyết khác nhau. Người ta biến những câu chuyện kể về bà thành những
huyền thoại, mỗi người nói một cách khác nhau khiến cho giới nghiên cứu đau đầu,
lúng túng bởi đứng trước tình cảnh không thể biết đích xác về cuộc đời của một nữ sĩ

như Hồ Xuân Hương, nghi vấn cả một số bài thơ không biết có phải là của Hồ Xuân
Hương hay không. Đi tìm dấu tích văn tài này, chúng ta chỉ có thể dõi theo dòng lịch
sử, dõi theo những dấu ấn được khắc hoạ trong chính thơ ca của bà.
Cho đến tận bây giờ, người ta vẫn không biết đích xác nữ sĩ Hồ Xuân Hương
sinh và mất vào đúng năm nào. Trước nhiều giả thuyết khác nhau, thì đã có nhiều tác


giả đã đi đến cùng một kết luận. Nguyễn Hữu Tiến trong cuốn Giai nhân di mặc (in
năm 1915), Song An trong bài Thân thế và văn chương cô Hồ Xuân Hương (in trên
báo Đông Tây số 12/1929), Dương Quảng Hàm trong Việt văn giáo khoa thư (in năm
1940) đều thống nhất ở một số điểm sau: Hồ Xuân Hương là con gái của Hồ Phi Diễn,
một thầy đồ xứ nghệ, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Dạy học
ở Hải Dương rồi kết bạn với một cô gái xứ Đông, sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình
này sau lên Thăng Long, khi thì ở vùng Khán Xuân bên Hồ Tây, khi thì ở phường Tiên
Thị bên bờ Hoàn Kiếm. Hồ Xuân Hương đã từng lấy lẽ một cai tổng (Tổng Cóc) và
một tri phủ (Vĩnh Tường). Bà còn là bạn thơ của Chiêu Hổ tức Phạm Đình Hổ (1768 –
1839). Như vậy Hồ Xuân Hương sống khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Nhưng đến năm 1957, trên Tạp chí văn học, Hồ Tuấn Niêm căn cứ vào sáu bộ gia
phả của các chi họ Hồ ở Nghệ An rút ra một thông tin cực kỳ hấp dẫn: Xuân Hương là
cùng một họ và bằng vai với Quang Trung – Nguyễn Huệ. Với việc công bố tài liệu
này, gốc gác Xuân Hương xem ra sáng tỏ hơn. Rồi đến năm 1963, tình hình có khác.
Trên Tạp chí Văn học số 4 – 1963, Trần Thanh Mại phát hiện một tập thơ chữ Hán với
nhan đề Lưu hương ký mà tên tác giả lại cũng là Hồ Xuân Hương. Tập thơ này còn
cho biết Hồ Xuân Hương là bạn tri kỉ của Thi Hào Nguyễn Du. Nhưng sách này lại
cho hay rằng Hồ Xuân Hương là em gái ruột của Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống (1739 –
1785 ) tức con gái Hồ Sĩ Danh. Vấn đề thành ra rắc rối hơn.
Càng rắc rối thêm là đến năm 1974, một tài liệu mới được công bố nêu thêm
nghi vấn về lai lịch của bậc tài tử này: Trên Tạp chí Văn học số 3/1974 có đăng bản
dịch Xuân Hương đàm thoại của Tam nguyên Trần Bích San (1840 – 1878 ) một danh
nhân của Nam Định. Bài này cho biết vào năm Tự Đức 22 (1870) nhóm văn nhân tổ

chức họp bạn cuối năm. Khi ấy, một người đến chậm, cáo lỗi vì phải đi dự đám tang
của “ tài nữ quê Nghệ An, hiệu là Cổ Nguyệt Đường, nàng ở Từ Sơn, mộ mai táng bên
núi Nguyệt Hằng”.
Như vậy, có một Hồ Xuân Hương mất vào năm 1870 và mộ bên núi Nguyệt
Hằng tức núi Chè, nay thuộc huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh. Bà cũng là người Nghệ An,
cũng là tài nữ có kiếp sống long đong. Lại cũng nhắc đến một bài thơ của hoàng tử
Tùng Thiện Vương: theo bài thơ này thì có một Hồ Xuân Hương mà phần mộ ngay ở
Hà Nội và nàng mất trước 1842 là năm Tùng Thiện Vương ra thăm Hà Nội.
Vậy ai là Xuân Hương Bà chúa thơ Nôm? Vấn

đề đang treo ở đấy thì đến năm


1985, ông Hoàng Xuân Hãn Trên tạp chí Khoa học xã hội in ở Pháp, với nhiều thư
tịch, tư liệu mới tìm ra đã chứng minh rằng Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm và
Hồ Xuân Hương - tác giả Lưu hương ký cùng với Hồ Xuân Hương có phần mộ ở Hà
Nội chỉ là một người. Và ông Hoàng còn cho biết rằng khoảng năm 1818 Hồ Xuân
Hương làm vợ lẽ của viên quan tham hiệp trấn Yên Quảng (nay tỉnh Quảng Ninh), tên
là Trần Phúc Hiển. Năm 1819, Phúc Hiển bị triều đình khép án tử hình.
Như vậy tiểu sử của Xuân Hương vẫn còn phải nghiên cứu thêm. Nhưng một vấn
đề có thể khẳng định rằng bậc tài nữ này đã cất cao tiếng nói đòi nữ quyền bằng thơ ca
rất sắc sảo và một số bài đã lấy đề tài là cảnh và người Hà Nội: Chùa Quán Sứ, núi
Khán Sứ, mấy ông đồ ở phường Tiên Thị…
Hồ Xuân Hương là con của một người vợ thiếp. Vì vậy nàng không có một địa vị
may mắn. Cái cảnh vợ lớn, vợ bé xưa nay chắc ai cũng có thể hình dung là nó kinh
khủng đến mức nào. Tránh sự ghen tuông thù ghét, người cha dù thương con đến mấy
cũng không dám bênh vực, chỉ biết yên lặng cho “trong ấm ngoài êm”. Nhưng một khi
cái sợi dây liên lạc đó mất đi, người cha mất, thì cảnh địa ngục trần gian diễn ra như
một tất yếu. Hồ Xuân Hương đã sống trong cảnh ngộ ấy. Khi cha nàng mất, hẳn nàng
đã phải sống những tháng ngày đen tối, tủi nhục nhất. Cái đen tối ấy theo đuổi nàng

mãi, là con của người vợ thiếp, lớn lên vẫn đi vào vết xe đổ của mẹ mình, sống cuộc
đời làm kiếp vợ lẽ. Cả cuộc đời nàng không có một ngày hạnh phúc, chưa bao giờ thấy
nàng cười, nàng có cười vả chăng chỉ là cái cười mỉa mai, chua xót cho thân phận
mình. Bởi thế khi đọc những dòng thơ tự tình của Xuân Hương ta mang một nổi niềm
đồng cảm dạt dào về nổi đau của những người phụ nữ trước số phận nghiệt ngã đã xô
đẩy họ.

1.2.2 Giới thiệu “Xuân Hương thi tập”
“Xuân Hương thi tập” là bức tranh phản ánh đời sống, số phận con người dưới
chế độ phong kiến. Nhà thơ sống và lớn lên trong lúc xã hội phong kiến rối loạn, nhố
nhăng. Con người nữ sĩ bị ném vào cái xã hội ấy và rồi ta thấy đời nàng đã phải giãy
giụa trong bóng đêm và cái xã hội ấy đã thoi thúc nàng viết nên những dòng thơ thật
độc đáo. Điểm sáng trong sự nghiệp sáng tác của Bà là hơn năm mươi bài thơ nôm
tuyệt hay trong tập thơ cùng tên nhà thơ “Xuân Hương thi tập”, với ngôn từ gần gủi
sâu sắc tái hiện bức tranh chung của xã hội phong kiến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX và số phận người phụ nữ duyên phận long đong. Người ta nói: tất cả các yếu đuối


của xã hội đương thời đã kết tinh lại ở nàng, nhào nặn với cá tính nàng mà làm nên
một thi sĩ độc đáo. Xã hội Việt Nam thời ấy không hề chờ đợi có một người như Hồ
Xuân Hương đến, nhưng nàng đã đến trong cái xã hội ấy ngay giữa lúc bọn đồ gàn ít
chờ đợi nhất. Nàng đã đến với một trái tim và một đầu óc trọn vẹn nhất, với tất cả mọi
giác quan còn tinh khôi, và đặc biệt là với đôi mắt tinh đời ấy, ta cứ tưởng tượng như
chỉ cần một cái nhìn nàng đã thấy được tận gan ruột. Trong tập thơ Nữ sĩ đã vạch rõ
cái chân tướng của cả những kẻ hiền nhân quân tử, những bậc trượng phu, anh hùng và
đã đặt họ lại những chỗ ngồi đúng với giá trị thực của họ giữa lúc cả bọn đang múa
máy quay cuồng, tâng bốc bợ đỡ nhau. Bên cạnh cái hiện thực ấy, Xuân Hương còn
cho ta thấy những vẻ đẹp cả thể xác và tâm hồn của người phụ nữ dù cuộc đời họ vẫn
chìm trong màn đêm sâu thẵm của xã hội phong kiến.
Hồ Xuân Hương sống và trưởng thành trong thời kỳ xã hội phong kiến đang

trong giai đoạn suy tàn, Cuộc đời Hồ Xuân Hương gập nhiều bất hạnh trong đường
tình duyên. Sau khi người chồng là Ông Tổng Cóc qua đời, Hồ Xuân Hương sống
cuộc sống phiêu bạt, với tài năng của mình Xuân Hương tìm bạn tri âm khắp nơi,
chứng kiến cảnh ngộ của những người phụ nữ có cuộc đời bất hạnh như mình, Hồ
Xuân Hương đồng cảm với Họ,
Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều
góc độ rất tinh tế. Dường như trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ không viết về
người phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, Xuân Hương đã sáng tác những vần
thơ về người phụ nư với cảnh ngộ bất hạnh như cuộc đời Bà và nhà thơ đã viết rất
nhiều về người phụ nữ.


CHƯƠNG 2
PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT CỦA NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG “XUÂN HƯƠNG THI TẬP”
XÉT VỀ PHƯƠNG DIỆN NGỮ ÂM VÀ TỪ VỰNG
2.1. Phương diện ngữ âm trong “Xuân Hương thi tập”
Bất kỳ một tác phẩm văn học nào ra đời đều chứa đựng những phương thức cấu
tạo nó, đối với Hồ Xuân Hương bà lại càng quan trọng hơn ở phương diện ngữ âm để
tạo nên những sắc thái biểu hiện vô cùng tinh tế, các hình thức kết hợp ngữ âm trong
văn học đã góp phần làm tăng thêm tính thẩm mĩ cho văn học. trong “Xuân Hương thi
tập” các hình thức ngữ âm càng được kết hợp độc đáo.

2.1.1. Phương thức gieo vần
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được
dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với
nhau.Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ. Có hai
loại vần:
vần bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền : ba, bà.
vần trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng : bả, bã, bá, bạ.

Chữ "đấy", "cấy" cùng phát ra một âm "ây" song đều thuộc trắc thanh. Những tiếng
"dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" và thuộc bình thanh.
Vần thể còn được quan niệm là vần giàu hay nghèo:
Vần giàu (hay còn gọi là Vần Chính): những chữ có cùng âm và thanh kết
hợp cùng Thanh bằng và thanh trắc
Vần nghèo (hay còn gọi là Vần Thông): đồng thanh nhưng với âm tương tự kết hợp với
thanh bằng và thanh trắc.
Ví dụ hai câu gieo vần chính:
“Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông”
Trong thơ Việt, có hai cách gieo vần:
Gieo vần ở giữa câu (Yêu Vận hay "vần lưng")
Gieo vần ở cuối câu (Cước Vận hay "vần chân"): Các chữ ở cuối câu vần với nhau.


Vần tiếp
Trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
(Thu điếu)
Vần chéo
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ ba và chữ cuối câu
thứ hai vần với câu thứ tư.
Trong bài thơ “Thiếu nữ ngũ ngày” Hồ Xuân Hương viết:
“Mùa hè hây hẩy gió nồm đông.
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc
nồng. Lược trúc lỏng cài tr6n mái
tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long”.
Vần ôm

Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ tư và chữ cuối câu
hai vần với câu thứ ba. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại.
Trong bài “Bánh trôi nước”Hồ Xuân Hương Viết:
“Thân em vừa trắng lạu vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước
non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ
nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Vần ba tiếng
Trong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu một, câu hai và câu thứ tư vần với nhau.
Câu ba khác vần.
Ví như trong bài thơ “Ốc nhồi” của Hồ Xuân Hương:
“Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi,
Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi,
Quân tử có thương thì bóc
yếm,
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”.


Xuân Hương không thích dùng những vần oái oăm khó gieo thi pháp cổ gọi là
những ''tử vận'', những vần chết, nhưng khi Bà dùng thành công thì bài thơ lại có dáng


dấp rất độc đáo, Chẳng hạn vần ênh trong bài “Chiếc Bách”
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh.
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh
Lưng khoan tình nghĩa dường lai
láng Nửa mạn phong ba luống bập
bềnh Cầm láy mặt ai lăm đổ bến
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!”
(nổi nênh, lênh đênh, gập ghềnh ạ tấp tênh) tạo ra cảm giác bất định, mong
manh, dễ tan vỡ. Số phận người con gái không biết rồi sẻ về đâu, bỡi vì nàng không hề
được tự mình định đoạt niềm hạnh phúc của đời mình, đó chính là tiếng nói của người
phụ nữ sống trong xã hội phong kiến đầy cay nghiệt khi không làm chủ được số phận
cuộc đời mình, ta thấy nét độc đáo là nếu ta tách ra từng ngữ đoạn thì ta thấy Bà sử
dụng vô cùng nhuần nhuyễn các phương thức gieo vần trong tiếng việt như: vần ba
tiếng, vần liên tiếp.
Hồ Xuân Hương lại sử dụng vần om trong bài “Trăng thu” đã tạo nên một sự
liên kết độc đáo trong thơ.
“Một trái trăng thu chín mõm mòm
Nảy bừng quế đỏ đỏ lòm lom!
Giữa in chiếc bích khuôn còn
méo
Ngoài khép đôi cung cánh vẫn khòm.
Ghét mặt kẻ trần đua xói móc,
Ngứa gan thằng cuội đứng lom khom
Hỡi người bẻ quế rằng ai đó,
Đó có Hằng Nga nghé mắt dòm.”
Hồ Xuân Hương thật đọc đáo khi sử dụng cách gieo vần om “chín mõm mòm, đỏ
lòm lom”. Câu thơ hiện lên vừa ý nhị vừa giàu chất gợi, một ánh trăng nhưng dưới đôi
mắt tinh tế và khả năng cảm nhận của nhà thơ thì nó đã trở nên một bức tranh tuyệt
đẹp, vừa nge qua câu thơ ta không nghĩ ra đó là cảnh nơi cung trăng mà cứ tưởng là
một vườn cấy đầy trái ngọt. Bởi chất thơ bộc lộ như một cảm giác có vẻ sung mãn và
tràn đầy sức sống.


Vẻ đẹp của thiên nhiên được Bà miêu tả như một bức tranh đủ các hình khối
trong bài thơ “Quán khách”

“Đứng chéo trông theo cảnh hắt
heo Đường đi thiên thẹo quán cheo
leo. Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác,
Xo kẻ kèo tre đốt khẳng kheo
Ba chạt cây xanh hình uốn éo,
Một dòng nước biết cành leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo
cũ, Kìa cái diều ai nó lộn
lèo!”
Ngoài ra các vần được gieo đa dạng như vần liên tiếp, vần ôm trong thơ Xuân
Hương cho ta thấy rất rỏ dụng ý nghệ thuật và ý nghĩa trong thơ, vần “eo” được tác giả
gieo vần như vẽ ra một bức tranh cảnh của rừng núi cheo leo và hiểm trở, hiu quạnh.
bức tranh thiên nhiên đậm chất hiện thực vừa hoang sơ và có một cảm giác nguy hiểm.
Có thể nói Hồ Xuân Hương là một hiện tượng trong văn học, Bà là nhà thơ nữ
đầu tiên dám tự xưng danh mình, tự thốt lên tiếng lòng trước số phận cay nghiệt của
cuộc đời và chính Hồ Xuân Hương là người dám chửi thẳng vào mặt bọn quan lại
phong kiến, bọn tiểu nhân với những thú vui dục vọng. Trong bài thơ: “Thiếu nữ ngũ
ngày”
“Mùa hè hay hảy gió nồm đông.
Thiếu nữ nằm chơi quá giất
nồng. Lược trúc lỏng cày trên
mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương
long. Đôi gò Bồng Đảo hương còn
ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa
thông Quân tử dùng dằn đi chẵng dứt.
Đi thì cũng dở ở không xong”.
Vần “ông” được nhà thơ sữ dụng vô cùng tinh tế, “nồm đông, giất nồng, nương
long”. cho ta thấy một vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ, mà đặc biệt là người phụ nữ

đang ngũ trưa, cách gieo vần liền, vần ôm đã làm nổi bật vẻ đẹp tuyệt vời như một


×