Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Luận án điều trị mất vững trước khớp vai do tổn thương bankart qua nội soi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.07 MB, 130 trang )

1

MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất vững khớp vai là sự dòch chuyển quá mức của chỏm so với ổ
chảo gây đau vai khi thực hiện các động tác chủ động của khớp vai [30].
Mất vững khớp vai gây trật khớp vai tái hồi là một bệnh lý chấn
thương chi trên khá phổ biến tại nước ta và trên thế giới. Trật khớp vai
chiếm 45% tổng số trật khớp của cơ thể người [29]. 90% bệnh nhân dưới 20
tuổi và 10-15% bệnh nhân trên 40 tuổi sau lần trật khớp vai đầu tiên dễ bò
trật khớp vai tái hồi nếu khớp vai mất vững [29]. Nguyên nhân gây ra đa số
là do chấn thương thể thao, hoặc do té ngã trong tai nạn giao thông, tai nạn
lao động hay sinh hoạt hằng ngày.
Mất vững khớp vai có thể xảy ra ở phía trước, phía dưới, phía sau,
hay ở nhiều hướng. Trong đó, mất vững phía trước chiếm 85% [29]. Tổn
thương chủ yếu gây mất vững phía trước là tổn thương phức hợp sụn viềndây chằng bao khớp trước gọi là tổn thương Bankart chiếm 97% [20].
Mất vững khớp vai gây trật khớp vai tái hồi nếu không được điều trò
đúng mức sẽ dẫn đến đau vai và mất chức năng của khớp vai, ảnh hưởng
đến khả năng tập luyện thể thao, lao động và sinh hoạt hàng ngày của bệnh
nhân.


2

Có rất nhiều phương pháp mổ mở điều trò tổn thương Bankart được
xem là tiêu chuẩn vàng với tỷ lệ mất vững tái hồi thấp < 10% [47], nhưng
có nhược điểm gây sẹo xấu và ảnh hưởng không tốt đến chức năng và tầm
vận động của khớp vai.
Hiện nay trên thế giới, với sự phát triển mạnh mẽ của ngành nội soi
khớp, đặc biệt là nội soi khớp vai, các phẫu thuật viên đã nghiên cứu và
hiểu biết sâu hơn về tổn thương Bankart: sinh bệnh học và các tổn thương


kèm theo trong mất vững khớp vai; từ đó, phát triển kỹ thuật nội soi khớp
vai điều trò tổn thương Bankart hiệu quả với nhiều ưu điểm hơn so với các
phương pháp mổ mở trước đây về mặt thẩm mỹ, chức năng và trở lại tập
luyện thể thao.
Tại nước ta, mổ mở đã được ứng dụng hiệu quả trong điều trò tổn
thương Bankart hay bệnh lý trật khớp vai tái hồi và đã được báo cáo như
phương pháp Latarjet, Bankart-Jobe [8],[14]. Tại Bệnh viện Chấn Thương
Chỉnh Hình TP.HCM, nội soi khớp vai mới được ứng dụng vào tháng
07/2004 đã đem lại một số kết quả bước đầu khả quan trong chẩn đoán và
điều trò một số bệnh lý khớp vai, trong đó có mất vững khớp vai do chấn
thương.
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá việc ứng dụng kỹ
thuật nội soi khớp vai và kết quả điều trò tổn thương Bankart gây mất vững
phía trước khớp vai, từ đó nêu ra ưu khuyết điểm của kỹ thuật.


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
MỤC TIÊU TỔNG QUÁT
Đánh giá kết quả điều trò tổn thương Bankart gây mất vững trước
khớp vai với phương pháp nội soi khớp vai may tái tạo sụn viền bao khớp
bằng chỉ neo kim loại.

MỤC TIÊU CHUYÊN BIỆT
• Phối hợp lâm sàng, hình ảnh học và nội soi khớp vai chẩn đoán và đánh
giá tổn thương Bankart gây mất vững trước khớp vai.
• Đánh giá kết quả điều trò với phương pháp nội soi khớp vai may tái tạo
sụn viền bao khớp bằng chỉ neo kim loại, phối hợp với chương trình tập
phục hồi vận động sớm sau mổ.



4

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ ĐIỀU TRỊ TRẬT KHỚP VAI VÀ TRẬT KHỚP VAI TÁI
HỒI:
1.1.1. Lòch sử điều trò trật khớp vai:[29]


Một ghi nhận sớm nhất về trật khớp vai được tìm thấy trong quyển

sách cổ nhất của nhân loại do Edwin Smith Papyrus vào năm 3000 – 2500
trước công nguyên.


Trong bức tranh chạm trổ trên ngôi mộ cổ vào năm 1200 trước

công nguyên có miêu tả một cảnh giống như phương pháp Kocher nắn trật
khớp vai.


Hippocrates đã mô tả chi tiết ít nhất 06 phương pháp nắn trật

khớp vai.


Hippocrates, ông tổ ngành y, đã mô tả chi tiết giải phẫu học khớp


vai, các kiểu trật khớp vai (Hình 1.1) và phương pháp phẫu thuật đầu tiên –
dùng sắt nóng đỏ áp vào phía trước dưới vai trong những trường hợp trật
khớp vai tái hồi.


5

Hình 1.1: Kỹ thuật Hippocrates cổ xưa
“Nguồn: The Shoulder 1998 [29]”



Thế kỷ 13, Roger và Palermo đã chỉ ra rằng tổn thương trong trật

khớp cấp là rách bao khớp.


Năm 1861, Flower mô tả các tổn thương giải phẫu học tìm thấy

trong 41 khớp vai bò trật. Trong đó có tổn thương lõm chỏm xương cánh tay.


Năm 1870, Kocher mô tả phương pháp nắn trật khớp vai theo

nguyên tắc đòn bẩy.


6

1.1.2. Lòch sử điều trò trật khớp vai tái hồi:

1.1.2.1. Mổ mở: [29]


Hippocrates mô tả việc dùng thanh sắt nung đỏ làm sẹo bao khớp

trước dưới. Sau đó, hàng trăm phương pháp phẫu thuật đã được mô tả để
điều trò trật khớp vai tái hồi ra trước.


Năm 1880, Joessel mổ 04 xác chết trật khớp vai tái hồi, tất cả đều

thấy rách chóp xoay khỏi mấu động lớn và tăng thể tích bao khớp.


Năm 1886, Bardenheuer đã đưa ra phương pháp may chồng tăng

cường bao khớp.


Năm 1888, Albert hàn khớp; và năm 1901, Hildebrand làm sâu

thêm ổ chảo.


Năm 1906, Perthès đã viết một bài về điều trò phẫu thuật trật

khớp vai tái hồi bằng may bao khớp vào bờ trước ổ chảo.


Năm 1913, Clairmont và Ehrlich đã dùng 1/3 sau cơ delta


chuyển may vào mỏm quạ để làm một chốt chặn cơ. Finsterer cũng dùng
cơ quạ cánh tay và đầu ngắn cơ nhò đầu chuyển ra sau qua lỗ tứ giác. Cả 2
phương pháp đều có tỷ lệ trật lại rất cao.


Năm 1918, Eden – Hybbinette dùng xương ghép mào chậu để

chặn vào bờ trước ổ chảo.


Tiếp theo Broca và Hartman, Perthès, Flower và Caird,

Bankart đã tuyên bố tổn thương chủ yếu trong mất vững khớp vai là tróc
sụn viền và bao khớp khỏi bờ trước ổ chảo.


7



Năm 1923, Bankart lần đầu tiên mô tả phương pháp phẫu thuật

may chồng bao khớp và tăng cường bao khớp dưới. Tới năm 1939, ông đã
mô tả tổn thương chính là tróc sụn viền bao khớp, và đã dùng chỉ tơ để may
dính lại dây chằng bao khớp vào xương nơi bò tróc ra.


Năm 1925, Putti Platt may chồng bao khớp và gân dưới vai.




Năm 1940, Hill và Sachs báo cáo tổng quan về khuyết chỏm

xương cánh tay do gãy đè ép trong trật khớp vai tái hồi.


Năm 1954, Latarjet chuyển phần lớn mỏm quạ có dính gân cơ nhò

đầu và quạ cánh tay xuống ghép dọc theo bờ trước ổ chảo và bắt 1-2 ốc.


Năm 1955, Magnuson – Stack chuyển gân dưới vai đính vào mấu

động lớn.


Năm 1956, DuToit cũng đưa ra khái niệm dùng đinh chữ U đóng

tạo hình bao khớp.


Năm 1958, Bristow chuyển đỉnh mỏm quạ có dính gân cơ nhò đầu

và quạ cánh tay xuống gắn vào bờ trước ổ chảo để tạo chốt chặn bằng gân
cơ phía trước dưới khớp ổ chảo cánh tay.

1.1.2.2. Mổ nội soi: [61]



Năm 1806, Botzini báo cáo dùng ống kính “Lichtleiter” quan sát

bàng quang với nguồn sáng từ đèn cầy chiếu qua 1 ống khác.


Năm 1880, Edison phát minh ra bóng đèn dây tóc mở ra 1 kỷ

nguyên mới cho nội soi.


8



Năm 1912, tại hội nghò lần thứ 41 hội ngoại khoa Đức tại Berlin,

Nordentoft (Đan Mạch) đã giới thiệu hệ thống “trokart_ endoscope” nội
soi bàng quang, bụng và khớp gối và đưa ra thuật ngữ “arthroscopia-genu”
(Latin) – “nội soi khớp gối”.


Năm 1918, Kenji Takagi (Nhật) được xem là ông tổ của nội soi

khớp khi dùng ống soi bàng quang 7,3 mm quan sát khớp gối xác chết.
Năm1920, ông đã chế tạo ra ống soi khớp đầu tiên. Năm1932, ông đã dùng
ống soi 3,5 mm soi khớp gối cho bệnh nhân trong môi trường nước muối
sinh lý và đã chụp hình trắng đen qua nội soi.


Tại phương tây: năm 1921, Eugen Bircher (Thụy Só) cũng đã công


bố báo cáo đầu tiên về nội soi khớp lâm sàng, với thuật ngữ
“Arthroendoscopy”. Năm 1922, nội soi khớp gối chẩn đoán thành công 8
trường hợp tổn thương sụn chêm.

Hình 1.2: Eugen Bircher nội soi khớp gối 1922
“Nguồn : Operative arthroscopy : His tory and development, 2003 [49]”


9



Năm 1930, Michael Burman (Mỹ) học trò của Takagi ứng dụng

nội soi cho nhiều khớp khác trên xác.


Năm 1931, Burman đã nội soi khớp vai trên xác.



Năm 1951, Masaki Watanabe (Nhật) học trò của Takagi đã kế

thừa và phát triển ống kính nội soi khớp hoàn chỉnh đầu tiên. Năm 1958, ấn
bản “Atlas of Arthroscopy” đầu tiên đã ra đời.

Hình 1.3: Watanabe nội soi khớp gối 1951
“Nguồn : Operative arthroscopy : His tory and development, 2003 [49]”




Năm 1980, Caspari và Savoie dùng nội soi khớp điều trò tổn

thương Bankart với phương pháp cột chỉ xuyên ổ chảo phức tạp.


Kỹ thuật nội soi khớp vai đã phát triển vượt bậc hơn 2 thập niên

qua nhờ tiến bộ thiết bò, dụng cụ; và đặc biệt kể từ khi chỉ neo được phát
triển năm 1985 do Wolf và Snyder.


10

1.2. GIẢI PHẪU CHỨC NĂNG :[9], [13], [20]
Về mặt giải phẫu học, các yếu tố giữ vững khớp vai được chia ra 2
nhóm tónh (sụn viền, bao khớp, dây chằng) và động (cơ chóp xoay, gân nhò
đầu). Các yếu tố này phối hợp với nhau khá chặt chẽ trong việc giữ vững
khớp ổ chảo-cánh tay. Khuynh hướng hiện đại điều trò mất vững khớp vai
hướng tới việc phục hồi giải phẫu học và sinh cơ học bình thường.
1.2.1. Các yếu tố giữ vững tónh :
1.2.1.1. Sụn khớp ổ chảo-cánh tay :
a. Độ nghiêng mặt khớp :


Ở tư thế đứng, với cánh tay khép, xương bả vai tạo 1 góc ra trước

30o so với lồng ngực, 3o lên trên so với mặt phẳng ngang, 20o ra trước so với
mặt phẳng đứng dọc. Đặc điểm này góp phần giúp giữ vững phía dưới khớp

ổ chảo- cánh tay. (Hình 1.4)

Hình 1.4: Góc nghiêng x.bả vai
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”


11



Góc cổ-thân của đầu trên xương cánh tay là 130o – 140o, góc

nghiêng sau 30o so với mặt phẳng đi qua 2 lồi cầu đầu dưới xương cánh tay.
(Hình 1.5)

130o – 140o

Ra sau 20o -30o

Ra sau 5

o

Hình 1.5: Góc cổ-thân Xương cánh tay
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”


12


b. Cấu tạo, hình dạng mặt khớp : [49]


Bề mặt sụn khớp ổ chảo hình quả lê: (Hình 1.6) hẹp ở trên và rộng

hơn ở bên dưới, đường kính dọc là 35mm và đường kính ngang khoảng
25mm. Ngược lại, đường kính bề mặt sụn chỏm xương cánh tay dọc là
48mm, ngang là 45mm. Do đó, bề mặt sụn hình cầu của chỏm lớn gấp 3 lần
ổ chảo. Và trong hầu hết các tư thế, chỉ có 25 – 30% bề mặt sụn chỏm
xương cánh tay tiếp xúc với bề mặt ổ chảo.

Sau

Trước

Hình 1.6: Hình dạng ổ chảo
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”


13



Bề dày sụn khớp dày lên ở trung tâm chỏm xương cánh tay, ngược

lại mỏng hơn ở trung tâm và dày lên ở ngoại vi ổ chảo. Do đó, khớp ổ chảocánh tay hoạt động như 1 khớp banh cầu-ổ chảo (như banh golf đặt trên cái
chữ T). (Hình 1.7)


Hình 1.7: Tương quan chỏm-ổ chảo
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”


14

1.2.1.2. Sụn viền : (Hình 1.8)


Sụn viền là 1 cấu trúc sợi dính với sụn khớp ổ chảo bằng vùng sụn

sợi.

DC cùng quạ
Cơ trên gai
Gân nhò đầu

DC OC-CT trên
Khoảng trống chóp xoay

Cơ dưới gai

Cơ dưới vai
Cơ tròn nhỏ
DC OC-CT giữa
Sụn viền

DC OC-CT dưới


Hình 1.8: Cấu trúc sụn viền, dây chằng, bao khớp OC-CT
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”


15



Chức năng sụn viền: (Hình 1.9)
¾ Là cấu trúc mà các dây chằng bao khớp neo bám vào ổ
chảo.
¾ Làm sâu thêm ổ chảo. Cắt bỏ sụn viền làm giảm 50% độ
sâu ổ chảo.
¾ Tăng diện tích tiếp xúc giữa chỏm và ổ chảo.

Hình 1.9: Chức năng sụn viền
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”



Cooper nghiên cứu thấy sụn viền ở phần trên và trước ít máu nuôi

hơn phần trên sau và dưới. Máu nuôi tập trung nhiều ở ngoại vi sụn viền.


Lippitt ghi nhận cắt bỏ sụn viền sẽ làm giảm sự chống trượt của

chỏm 20%.


chảo:

Detrisac và Johnson phân thành 2 dạng sụn viền dính vào ổ


16

¾ Loại 1: sụn viền chỉ dính vào ổ chảo ở rìa ngoại vi, tạo bờ
trung tâm tự do như sụn chêm khớp gối.
¾ Loại 2: rìa và trung tâm đều dính vào ổ chảo.


Các biến dạng bình thường của sụn viền :[26]
Bufford & Snyder đã khảo sát sụn viền trên 200 khớp vai và nhận

thấy có 12% hiện diện lỗ dưới sụn viền và 75% hiện diện dây chằng OC-CT
giữa dày lên, dính liên tục vào sụn viền trên ngay chỗ bám gân 2 đầu và có
1 vùng trơ không có sụn viền ngay dưới đó – hay còn gọi là phức hợp
Buford(Hình 1.10, 1.11). Đây là những biến dạng bình thường của sụn viền,
dễ lầm với tổn thương rách sụn viền trong mất vững khớp ổ chảo – cánh
tay.
LỖ DƯỚI SỤN VIỀN

Sụn viền trên

Lỗ dưới sụn
viền

DC OC-CT giữa dày lên

như dây thừng

Hình 1.10: Lỗ dưới sụn viền

“Nguồn: Arthroscopic Stabilization of Anterior Shoulder Instability:A
Review of the Literature 2002.[26]”


17

PHỨC HP BUFFORD
Không có sụn
viền trên

DC OC-CT như dây thừng

Sụn viền trước
dưới bình thường
Gắn vào đáy gân 2
đầu

Hình 1.11: Phức hợp Bufford
“Nguồn: Arthroscopic Stabilization of Anterior Shoulder Instability:A
Review of the Literature 2002.[26]”

1.2.1.3. Dây chằng ổ chảo-cánh tay: [20], [23], [26], [57]
Cấu trúc này là sự dày lên của bao khớp. Có 3 dây chằng ổ chảo-cánh
tay: trên, giữa, dưới. Chúng có kích thước và hình dạng thay đổi.
Không có dây chằng nào có thể tự một mình giữ vững khớp ổ chảocánh tay mà phải hoạt động kết hợp với các yếu tố giữ vững tónh khác, cũng
như phối hợp nhòp nhàng với các yếu tố giữ vững động gân cơ giúp giữ

chỏm nằm trọng tâm trên ổ chảo.


18

DC OC-CT trên
DC OC-CT giữa

DC OC-CT trên
DC OC-CT giữa
DC OC-CT
dưới

DC OC-CT dưới

Hình 1.12: Dây chằng OC-CT
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”
1.2.1.3.1. Dây chằng ổ chảo-cánh tay trên: (Hình 1.12)
Cùng với dây chằng quạ-cánh tay nguyên ủy ở củ ổ chảo trên và
mỏm quạ và bám tận ở mấu động nhỏ xương cánh tay.
Chức năng:


Làm vững thêm khoảng trống chóp xoay.



Chống sự dòch chuyển xuống dưới và xoay ngoài của khớp vai khi


cánh tay khép, hạn chế sự dòch chuyển ra sau khi cánh tay gập trước khép
và xoay trong, và ngăn cản khuynh hướng lên trước- trên của chỏm xương
cánh tay.[23], [57]


19

1.2.1.3.2. Dây chằng ổ chảo cánh tay giữa: (Hình 1.12)
Nguyên ủy từ củ ổ chảo trên, cổ x.bả vai và sụn viền trên bám tận ở
mấu động nhỏ.
Chức năng:


Hạn chế xoay ngoài và trật khớp vai ra trước ở tư thế dang cánh

tay 45 độ.


Chống sự dòch chuyển xuống dưới của chỏm khi khép cánh tay và

xoay trong.

1.2.1.3.3. Dây chằng ổ chảo cánh tay dưới: (Hình 1.12)
Nguyên ủy từ sụn viền trước dưới và gờ ổ chảo, bám tận ở mấu động
nhỏ. Là dây chằng dày nhất, có 3 phần: dải trước, võng nách và dải sau.
Chức năng:


Dải trước là thành phần quan trọng nhất giữ vững phía trước khớp


vai, ngăn trật khớp vai ra trước khi dạng và xoay ngoài vai.


Dải sau ngăn trật khớp vai ra sau và xuống dưới.


20

1.2.1.4. Khoảng trống chóp xoay [26]:

Khoảng trống
chóp xoay

A. Hình vẽ minh họa

B. Hình NSKV

Hình 1.13: Khoảng trống chóp xoay
“Nguồn : Operative arthroscopy 2003 [49]”
Là vùng bao khớp khoảng giữa bờ trên gân dưới vai và gân trên gai.
Trên siêu âm, khoảng trống chóp xoay mở rộng nhất khi vai xoay
trong và kéo xuống dưới ở tư thế duỗi cánh tay tối đa.
May đóng khoảng trống chóp xoay đã được chứng minh làm giảm sự
mất vững dưới.


21

1.2.2. Các yếu tố giữ vững động : [23], [26], [49], [51], [57]
1.2.2.1. Gân cơ chóp xoay: (Hình 1.14)

Cơ trên gai

Cơ trên gai
Cơ dưới gai

Cơ tròn bé

Cơ dưới vai

Đầu dài gân 2 đầu

PHÍA SAU

PHÍA TRƯỚC

Hình 1.14: Nhóm cơ chóp xoay
“Nguồn: Frank H. Netter 1999”

Gồm cơ trên gai, dưới gai, tròn nhỏ và dưới vai, có nguyên ủy từ thân
xương bả vai, băng ngang qua khớp ổ chảo cánh tay, rồi gần như bao tròn
xung quanh chỏm xương cánh tay và hợp nhau bám tận vào mấu động lớn
và nhỏ xương cánh tay.
Gân cơ chóp xoay tham gia giữ vững khớp bằng phối hợp các hoạt
động co cơ, làm vững chắc thêm cấu trúc dây chằng. Yếu tố này phối hợp
làm tăng cơ chế ép-lõm của chỏm- ổ chảo.


22

Gân cơ trên gai chi phối bởi thần kinh trên vai C4 – C6, góp phần vào

cơ chế ép chỏm vào ổ chảo.
Gân cơ dưới vai, chi phối bởi thần kinh dưới vai C5 – C8, ngăn chỏm
trật ra trước và xuống dưới.
Gân cơ dưới gai, chi phối bởi thần kinh trên vai C4 – C6, và gân cơ
tròn nhỏ chi phối bởi thần kinh nách C5 – C6, giúp ngăn chỏm trật ra sau.
Cả 4 gân này giúp chống lại sự dòch chuyển lên trên của chỏm.
1.2.2.2. Đầu dài gân 2 đầu:
Đầu dài gân nhò đầu bám vào củ ổ chảo trên và sụn viền trên, đi băng
ngang qua khớp ổ chảo-cánh tay và ra khỏi khớp ở vò trí khoảng giữa gân
trên gai và dưới vai, sau đó đi vào rãnh gian mấu ở bên dưới dây chằng
ngang cánh tay.
Đầu dài gân 2 đầu giúp ép chỏm vào ổ chảo khi gập khuỷu và ngửa
cẳng tay; ngoài ra còn chống trật chỏm xương cánh tay ra trước và lên trên.
Rodosky ghi nhận rằng khi vai ở giai đoạn cuối động tác ném, sự co gân cơ
hai đầu sẽ ngăn cản chỏm trật ra trước và hạn chế xoay ngoài quá mức.
Pagnani cũng nghiên cứu thấy rằng đầu dài gân nhò đầu có ảnh
hưởng khác nhau tùy thuộc vào vò trí của khớp vai. Gân nhò đầu có vai trò
cản trước khi khớp vai xoay trong, và cản sau khi khớp vai xoay ngoài, cộng
với vai trò ép chỏm áp vào ổ chảo (hình 1.15)


23

Hình 1.15: Gân hai đầu.
“Nguồn: Disorders of the shoulder: diagnosis and management
1999 [20]”

1.3. GIẢI PHẪU BỆNH: [12], [18], [20], [26]
Ngoài tổn thương cơ bản là rách tróc sụn viền, mất vững khớp vai tái
hồi còn do nhiều tổn thương bệnh lý hợp lại gây ra như: tổn thương dây

chằng bao khớp, Hill-Sachs, tổn thương gân cơ chóp xoay …
1.3.1. Tổn thương Bankart : (Hình 1.16, 1.17)
Khi chỏm xương cánh tay trật ra khỏi ổ chảo kéo theo tổn thương hệ
thống mô mềm giữ vững khớp gọi là tổn thương. Vò trí tổn thương phụ thuộc
vào hướng lực gây trật, vò trí cánh tay lúc chấn thương và tuổi tác bệnh
nhân. Ở bệnh nhân lớn tuổi, tổn thương chủ yếu là rách chóp xoay. Trong
khi những bệnh nhân dưới 40 tuổi hầu hết là tổn thương rách sụn viền trước
dưới - còn gọi là tổn thương Bankart.
Tổn thương Bankart được coi là tổn thương cơ bản và thường gặp nhất
gây trật khớp vai tái hồi. [26]


24

Tổn thương Bankart là tổn thương của sụn viền làm tróc chỗ bám của
dây chằng ổ chảo- cánh tay dưới và giữa ra khỏi bờ ổ chảo.

Hình 1.16: Tổn thương Bankart
“Nguồn : Operative arthroscopy 2003 [49]”
Sụn viền trước dưới
DC OC-CT dưới

Màng xương bả vai trước

Hình 1.17: Tổn thương Bankart (Cắt ngang)
“Nguồn: Arthroscopic Stabilization of Anterior Shoulder Instability:A
Review of the Literature 2002.[26]”


25


Dạng thường gặp nhất của mất vững khớp vai tái hồi là mất vững
hoặc trật khớp vai ra trước tái hồi do chấn thương.
Taylor và cộng sự nghiên cứu và nội soi khớp vai các bệnh nhân trật
khớp vai lần đầu do chấn thương nhận thấy rằng 97% trường hợp có tổn
thương tróc phức hợp sụn viền bao khớp khỏi ổ chảo.

1.3.2. Tổn thương tróc màng xương - sụn viền trước: [26], [56]
Sụn viền trước dưới
DC OC-CT dưới

Màng xương bả vai trước

Hình 1.18: Tổn thương tróc màng xương-sụn viền trước (Cắt ngang)
“Nguồn: Arthroscopic Stabilization of Anterior Shoulder Instability:A
Review of the Literature 2002.[26]”

Đây là tổn thương Bankart biến thể. Khác với tổn thương Bankart,
màng xương bò đứt rách, phức hợp dây chằng ổ chảo-cánh tay dưới- sụn
viền và màng xương bò tróc nguyên khối và di lệch vào trong dưới cổ xương
bả vai và dính vào cổ xương bả vai thay vì ở rìa ổ chảo nên vẫn gây mất
vững.


×