Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Vai trò của UBND cấp xã trong việc thu hồi đất, tái định cư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.27 KB, 40 trang )

Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là quà tặng vô cùng quý giá của thiên nhiên dành cho con người
nhưng đất đai không phải là vô tận và nếu việc quản lý, sử dụng không hợp lý
thì con người sẽ phải trả giá cho những hành động của mình. Việc thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ tái định cư cũng chính là một trong những nội dung nằm trong
công tác quản lý đất đai, đặc biệt là ở địa phương. Tuy nhiên, ở nước ta trong
những năm qua còn tồn tại rất nhiều vấn đề bất hợp lý gây nhiều phản ứng gay
gắt trong nhân dân và là nỗi trăn trở của các nhà lãnh đạo nói chung và Ủy ban
nhân dân cấp xã nói riêng . Hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về phẩm
chất đạo đức là tương đối nghiêm trọng. Các vi phạm pháp luật không giới hạn ở
một lĩnh vực, một ngành, một địa phương mà xảy ra trên phạm vi rộng, xảy ra
ngay trong bộ máy các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Tiêu cực đất đai là “địa chỉ nóng” cần đánh mạnh. Vừa qua các vụ án lớn
liên quan đến thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng Giai đoạn 1 và Giai
đoạn 2 của Dự án Quốc lộ Nam Sông Hậu (đoạn qua địa bàn huyện Kế Sách và
thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) đã được đưa ra xét xử và người phạm tội đã
phải chịu hình phạt thích đáng. Tuy nhiên, hầu hết cán bộ phải chịu hình phạt tù
đa số đều là các cán bộ địa chỉnh thuộc diện quản lý của UBND cấp xã, vì vậy
vấn đề quan trọng không phải chỉ một mặt chống tiêu cực, xử lý tiêu cực là đủ
mà còn phải kết hợp giữa phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ có thể xảy ra. Có
thể thấy, hiện tượng tham nhũng, tiêu cực không còn là cá biệt. Tuy mức độ cụ
thể có thể khác nhau nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng hiện tượng tham
nhũng về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư những năm gần đây ở Sóc
Trăng có chiều hướng phức tạp.
Luật đất đai 2013 ra đời đã đánh dấu bước tiến lớn của Đảng và Nhà nước
ta trong việc không ngừng tăng cường hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước từ
trung ương đến địa phương, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của UBND
nhân dân cấp xã đối với công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.



1


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Tuy nhiên, hiện nay thẩm quyền cũng như vai trò của UBND cấp xã trong các
hoạt này đang gặp phải những trở ngại, khiến cho vai trò của UBND cấp xã nói
chung, vai trò của cán bộ địa chính nói riêng chưa được quan tâm và phát huy
đúng mức, công tác quản lý đất thu hồi ở nông thôn còn nhiều bất cập, trình độ
năng lực của các cán bộ địa chính còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cơ quan
chưa nhất quán, còn đùn đẩy trách nhiệm vv…
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của UBND
cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư” trong bối cảnh hiện
nay là hợp lý và cần thiết. Nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tìm hiểu sâu
hơn về thực trạng quản lý đất thu hồi ở nông thôn, công tác bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư ở địa phương được UBND cấp xã triển khai như thế nào, bằng cách
nào, cơ chế phối hợp ra sao vv.. từ đó tích lũy kinh nghiệm để phục vụ cho công
tác về sau này.
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu cơ bản của đề tài là nghiên cứu về lý luận, cũng như quy định
của pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đặt trong bối cảnh là
mối quan hệ của UBND cấp xã và vai trò của UBND cấp xã trong các hoạt động
này. Cuối cùng là đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của UBND cấp xã
trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật điều
chỉnh đối tượng là UBND cấp xã nói chung và hoạt động cụ thể của UBND cấp
xã trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Phạm vi nghiên cứu của
đề tài này chỉ nghiên cứu về vai trò của UBND nhân dân cấp xã trong các hoạt

động này, một số vấn đề được đối chiếu và so sánh tại tỉnh Sóc Trăng. Đề tài
này không nhằm nghiên cứu hay đánh giá trực tiếp các chính sách thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hiện hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích vấn đề và đặt ra giải pháp.
Trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
2


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề lý luận và pháp lý
liên quan đến các qui định về vai trò của UBND cấp xã trong việc thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, về công tác xây dựng cán bộ cấp xã gắn với vai
trò mới trong việc thu hồi đất. Mặt khác, tác giả cũng sử dụng phương pháp
nghiên cứu truyền thống là đi từ lý nghiên cứu lý luận đến thực trạng pháp luật
cuối cùng là đưa ra các giải pháp kiến nghị.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài gồm 2 Chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư và vai trò của UBND cấp xã trong các hoạt động này.
Vấn đề lý luận về công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư là
vấn đề quan trọng, cần được nghiên cứu tương đối chi tiết, việc nghiên cứu này
nhằm trang bị hệ thống kiến thức làm nền tảng, trên cơ sở đó liên hệ đến mối
quan hệ, cũng như vai trò của UBND cấp xã trong hoạt động này.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của UBND cấp xã
trong các hoạt động này.
Hiện nay, công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư đang gặp
phải rất nhiều trở lực vì liên quan đến khá nhiều lợi ích của người dân, nhà nước

cũng như doanh nghiệp, những lợi ích này đối khi mâu thuẫn với lợi ích khác
dẫn đến bất cập trong công tác quy hoạch và triển khai thực hiện các dự án.
Chính vì vậy mà vai trò của UBND cấp xã trong công tác này rất quan trọng, là
tiền đề để người dân giao đất cũng như ổn định tái định cư, hạn chế phát sinh
tranh chấp, tiến tới thực hiện hiện thành công các công trình đã được nhà nước
phê duyệt.

3


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Chương 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ VÀ
VAI TRÒ ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ TRONG CÁC LĨNH VỰC NÀY
1.1 Một số khái niệm cơ bản về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
1.1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Thu hồi đất được hiểu theo cách diễn đạt chung nhất thực chất là quan hệ
chuyển dịch quyền sử dụng đất từ Nhà nước đến người sử dụng đất, điểm khác
nhau ở chỗ là chủ thể nhận chuyển dịch là tổ chức đặc biệt, đó là nhà nước. Tuy
nhiên, đây là quan hệ chuyển dịch quyền sử dụng đất đặc biệt. Sự đặc biệt này
thể hiện ở chỗ là người bị thu hồi đất hoàn toàn không có nhu cầu chuyển
nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện mục đích riêng của họ như cần tiền làm
việc riêng, chuyển đổi chổ ở, canh tác vv… mà việc chuyển dịch quyền sử dụng
đất trong trường hợp này là quan hệ bắt buộc, sự bắt buộc này xuất phát từ nhu
cầu của Nhà nước nhưng dù rằng xuất phát từ quan hệ chuyển dịch nào đi nữa thì
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi cần được bảo vệ1.
Thu hồi đất ở Việt Nam hiện nay chủ yếu để triển khai việc xây dựng các
công trình phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng, lợi ích

quốc gia, để phát triển kinh tế, Nhà nước cần phải có mặt bằng để thực hiện dự
án2. Dù Nhà nước thu hồi đất cho mục đích nào thì đơn giá bồi thường về đất và
tài sản trên đất cũng phải trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên. Tuy
nhiên, không phải đất sử dụng cho mục đích kinh tế nào thì Nhà nước cũng thu
hồi đất của người sử dụng đất mà chỉ những trường hợp nhất định Nhà nước mới
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế 3 nhưng ở nước ta, đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, với tư cách là người quản lý, nhằm đảm bảo được lợi ích
của Nhà nước, lợi ích của nhân dân, khi đó Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi
quyền sử dụng đất của người dân hoặc đất được Nhà nước giao quản lý. Đây là
1

PGS.TS Phan Trung Hiền - Giáo trình Luật Hành chính, đô thị, nông thôn – Bộ môn Luật Hành chính,
Khoa Luật, Trường ĐHCT, tháng 12/2009, tr. 67.
2
Điều 60 và Điều 61 Luật đất đai năm 2013.
3
Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc thi hành Luật Đất đai (đã hết hiệu lực).

4


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

các quy định được cụ thể hóa trong Luật Đất đai năm 2003 nhưng đến khi Luật
Đất đai năm 2013 được ban hành thì đã có sự thay đổi nhất định về nội hàm khái
niệm thu hồi đất.
Theo quy định tại Khoản 11 Điều 3, Luật Đất đai năm 2013: “Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai.”.

Dựa vào khái niệm nêu trên, chúng ta có thể thấy một số đặc trưng pháp lý
qua việc giải thích khái niệm này như sau:
Thứ nhất, việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất, vậy việc
quyết định này được thực hiện như thế nào, thể hiện bằng văn bản với tên gọi là
gì, một quyết định thu hồi đất, một công văn thu hồi đất, một thông báo thu hồi
đất của người có thẩm quyền vv…. Tuy nhiên, pháp luật đã không làm rõ cụ thể
là quyết định thu hồi đất được thể hiện dưới hình thức nào.
Thứ hai, việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất là thu hồi
quyền sử dụng đất (quyền tài sản của người sử dụng đất) chứ không phải nhằm
mục đích thu hồi lại đất (nhà nước không thu hồi hiện vật vì đất đai là bất động
sản không thể cằm, nắm, di chuyển)..
Thứ ba, đối tượng bị thu hồi là đất của người được Nhà nước trao quyền sử
dụng đất hoặc người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai.” Nhưng đối với
người được giao quản lý thì không thuộc phạm vi điều chỉnh và theo pháp luật
quy định thường là Uỷ ban nhân dân (UBND) cấp xã và Tổ chức Phát triển quỹ
đất được giao đất để quản lý, thực hiện theo những yêu cầu của Nhà nước). Như
vậy, theo cách phân tích này thì khái niệm thu hồi đất được quy định của Luật
Đất đai năm 2013 tỏ ra chưa phù hợp, mà khái niệm thu hồi đất phải được mở
rộng hơn trong đó bao gồm cả việc thu hồi phần đất đối với người được nhà
nước quản quản lý thì mới phù hợp.
1.1.2. Khái niệm về bồi thường về đất (bồi thường khi nhà nước thu hồi đất)
Trong đời sống, khi nhắc đến cụm từ “bồi thường”, thông thường được
hiểu theo nghĩa có một chủ thể bị thiệt hại bởi hành vi trái pháp luật của một chủ
5


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

thể khác. Những thiệt hại này được tính toán và dự đoán để tiến hành chi trả theo
đúng giá trị mà chủ bị thiệt hại đã mất hoặc theo thỏa thuận của các bên liên

quan. Trong mối quan hệ bồi thường tất yếu có sự ngang bằng và đồng thuận.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “đền bù những tổn
hại gây ra”. Còn trong lĩnh vực pháp luật nói chung thì trách nhiệm bồi thường
được đặt ra khi một chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ
thể khác trong xã hội trong đó phải thỏa mãn một số yếu tố như: mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi có lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra vv... Riêng trong lĩnh vực
pháp luật đất đai thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà nước thu hồi đất
được đặt ra từ rất sớm. Từ Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng
Chính phủ quy định về thể lệ tam thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II
của Nghị định này đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng
dụng”. Tiếp đến là Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính
phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối
lâu năm, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng
thành phố cũng đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Đặc biệt khi Luật đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định về
đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục
đích khác. Như vậy thuật ngữ “bồi thường” đã được thay thế bằng thuật ngữ
“đền bù”. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật đất đai năm 1993,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 và các nghị định
hướng dẫn thi hành như Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban
hành quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia lợi ích công cộng; Nghị định số
22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998 của Chính Phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng…
Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật đất đai năm 2001 được Quốc
hội ban hành, thuật ngữ “bồi thường” được sử dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện
trong Luật đất đai năm 2003; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004
6



Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

của Chính Phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất, Nghị định số 84/2007NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, tŕnh tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
Theo khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003: Bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất. Như vậy, Ta thấy khái niệm nêu trên chỉ
xác định bồi thường về đất, trong khi việc thu hồi đất không chỉ gây thiệt hại về
đất, mà còn là những thiệt hại liên quan đến quyền sử dụng đất, công trình xây
dựng, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên đất, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe
do áp lực căng thẳng, lo âu của người sử dụng đất4.
Đến khi Luật đất đai năm 2013 được ban hành, nhà nước không còn sử
dụng thuật ngữ "Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất" nữa, mà sử dụng thuật
ngữ "Bồi thường về đất" để thay thế và Nhà nước cũng đã bỏ từ “bị thu hồi”
thay bằng từ “thu hồi”, bỏ cụm từ “người bị thu hồi đất” bằng cụm từ “người
sử dụng đất", theo Khoản 12 Điều 3 quy định việc bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất như sau: "Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử
dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất".
Chúng ta có thể thấy một số đặc trưng, cũng như một số hạn chế của khái
niệm này như sau:
Thứ nhất, khái niệm này trong Luật Đất đai 2013 tuy có khác đôi chút so
với quy định tại Khoản 6 Điều 4 của Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên, khái niệm
này vẫn chưa được mở rộng, bởi vì bồi thường về đất không chỉ là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử
dụng đất, mà chính là việc Nhà nước trả lại những thiệt hại do việc thu hồi đất

gây ra.
Thứ hai, khi nói đến thiệt hại, người ta thường xét đến các khía cạnh như:
thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần cũng được quy về dưới dạng vật chất
TS. Phan Trung Hiền, Giáo trình Luật Hành chính, đô thị, nông thôn – Bộ môn Luật Hành chính,
Khoa Luật, Trường ĐHCT, tháng 12/2009.
4

7


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

để xác định bồi thường trong một số trường hợp cụ thế 5. Khi Nhà nước thu hồi
đất, thiệt hại được xác định đó là giá trị quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản gắn
liền với đất và những thiệt hại khác gắn liền với cộng đồng dân cư mà họ đang
sinh sống như: những giá trị văn hóa vật thể cũng như văn hóa phi vật thể được
gìn giữ, bảo tồn qua nhiều thế hệ mà họ đang được hưởng thụ, các cơ sở hạ tầng
về xã hội, y tế, giáo dục,… gắn kết với truyền thống, không gian, các quan hệ
láng giềng, dòng tộc mà họ đang sống việc không quy định nội dung này là một
thiếu sót của Luật Đất đai năm 2013.
Thứ ba, theo truyền thống và văn hoá gia đình của nước ta, đại bộ phận
nông dân hiện nay vẫn xem đất đai, trong đó có đất nông nghiệp là tài sản cơ bản
của gia đình; đồng thời việc kế thừa tài sản về đất đai từ cha mẹ cho con cái là
việc không thể thiếu được của các gia đình nông dân 6. Bên cạnh đó, kỳ vọng của
NSDĐ nông nghiệp chủ yếu là khai thác hoa lợi từ cây trồng trên đất, chứ không
phải đưa đất ra thị trường bất động sản để giao dịch; do vậy, nếu xét theo cách
giải thích khái niệm bồi thường về đất như Luật Đất đai 2013 thì việc bồi thường
thiệt hại phải được tiếp cận từ khía cạnh nguồn thu nhập của họ bị mất trong
nhiều năm, hay nói cách khác, cần lượng hóa thu nhập trong khoảng thời gian
nhất định để làm cơ sở tính toán trong việc bồi thường.

Nhìn chung, khái niệm bồi thường về đất trong LĐĐ 2013 như trên chưa
thể hiện quan điểm tiến bộ trong việc xác định tổng thể những thiệt hại của
người có đất bị thu hồi đất, không đáp ứng đầy đủ những định hướng chung, hay
nói cách khác, khái niệm tuy có thay đổi, tuy nhiên phần nội hàm của nó vẫn
chưa có gì đổi mới.
Mặc dù những thiệt hại nêu trên của người dân có thể được chuyển hóa
qua hình thức và tên gọi khác là ”hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất” nhưng việc
hỗ trợ và bồi thường thiệt hại là hai phạm trù có điểm khác biệt cơ bản, không
thể chuyển hóa nội dung này qua nội dung khác được. Tóm lai, một khi pháp luật
đã thừa nhận quyền sử dụng đất (SDĐ) là một loại quyền về tài sản của người sử
dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất (có nghĩa là người SDĐ bị mất quyền
Điều 45, Điều 46, Điều 47 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
Đỗ Kim Chung (2000), Thị trường đất đai trong nước ở Việt Nam: Thực trạng và các định hướng
chính sách, Nghiên cứu kinh tế số 01(260), tr. 30.
5
6

8


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

SDĐ do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra), Nhà nước phải bồi thường về
đất và thiệt hại cho người SDĐ;
1.1.3. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Bên cạnh thuật ngữ "Bồi thường về đất", trong các văn bản pháp luật hiện
hành còn đề cập đến khái niệm hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Hỗ
trợ, tái định cư thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước và biểu hiện bản chất
“của dân, do dân và vì dân. Nhà nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người
bị thu hồi đất và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống. Vậy hỗ trợ, tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất là gì?
Theo khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy định: “Hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào
tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”;
Khái niệm nêu trên của Luật Đất đai năm 2003 nhấn mạnh vào trách nhiệm
cụ thể của nhà nước khi thu hồi đất thông qua việc liệt kê các biện pháp mà nhà
nước áp dụng nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cho người có đất bị thu hồi như đào tạo nghề
mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới. Việc liệt kê
một cách cụ thể như vậy là một thiếu sót bởi việc xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật hầu như ít sử dụng biện pháp liệt kê. Nhu cầu được hỗ trợ là nhu cầu
chính đáng của người có đất bị thu hồi, nhu cầu này không chỉ giới hạn các nhu
cầu đã được liệt kê trên mà còn có các nhu cầu khác như: về đời sống, ổn định và
phát triển kinh tế gia đình, tìm kiếm việc làm vv... Bên cạnh đó, Trong thời gian
qua, thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy rằng, việc Nhà nước giúp đỡ bằng cách
đào tạo nghề mới, cấp kinh phí di dời đến địa điểm mới là điều có thể thực hiện
được; tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ý chí của Nhà nước trong việc
bố trí việc làm mới chưa trở thành hiện thực hoàn toàn được, mà phụ thuộc vào ý
chí của nhà đầu tư, theo yêu cầu về số lượng, chất lượng lao động phù hợp với
quy mô và công nghệ sản xuất của họ.
Tuy nhiên, đến khi Luật Đất đai năm 2013 đươc ban hành, tại Khoản 14
Điều 3 đã sửa đổi khái niệm này theo hướng bỏ cách thức liệt kê mà thay vào đó
là việc quy định chung về trách nhiệm của nhà nước nhằm ổn định đời sống, sản

9


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

xuất và phát triển cho người có đất bị thu hồi, theo đó "Hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống,

sản xuất và phát triển".
Các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm7: Hỗ trợ ổn định đời
sống và sản xuất; Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với
trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất
nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân
mà phải di chuyển chỗ ở; Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của
hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển
chỗ ở; Hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.
Để hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 về nội dung này, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định hỗ trợ ổn định đời sống cho
đối tượng khi nhà nước thu hồi đất. Cụ thể, thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất
nông nghiệp đang sử dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không
phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở;
trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn
hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là
24 tháng.
Đối với trường hợp thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử
dụng thì được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và
trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển
đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng. Diện tích đất thu
hồi nêu trên được xác định theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền. Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định nêu trên được tính
bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 1 tháng theo thời giá trung bình tại thời
điểm hỗ trợ của địa phương.
Ngoài ra, Nghị định cũng quy định hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và
7

Khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013.


10


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở kết hợp kinh
doanh, dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở; hỗ trợ tái định
cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;...
1.1.4 Khái niệm về tái định cư
Đối với khái niệm tái định cư, Luật đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không đề cập cụ thể về khái niệm này.
Hay nói cách khác, pháp luật đất đai hiện hành chỉ đề cập đến thuật ngữ tái định
cư mà không giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm “tái định cư” là gì? Thậm
chí trong các cuốn từ điển tiếng Việt và từ điển Luật học, thuật ngữ này cũng
chưa được định nghĩa. Theo Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004
của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì
tái định cư được giải thích là: “Người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất theo
quy định tại Nghị định này mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư
bằng một trong các hình thức sau: Bồi thường bằng nhà ở; Bồi thường bằng
giao đất ở mới; Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.” (Điều 4).
Đến khi Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 5
năm 2014 đã thay thế Nghị định số 197/2004/NĐ-CP nhưng trong Nghị định này
vẫn không đưa ra khái niệm thế nào là "tái định cư" nhưng đã cụ thể hóa các
hình thức tái định cư như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp thu hồi hết đất ở hoặc phần đất còn lại sau thu
hồi không đủ để ở theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh mà hộ gia đình,
cá nhân không còn đấy ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường thị trấn nơi
có đất ở bị thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư8. Nếu

sau thu hồi mà còn đất ở thì được bồi thường bằng tiền hoặc xem xét bồi thường
bằng đất ở (đối với địa phương còn quỹ đất ở).
Thứ hai, trường hợp trong hộ gia đình quy định tại khoản 1 của Nghị định
này mà trong hộ có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một
thửa đất thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy
định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng
8

Điểm a,b Khoản 1 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP

11


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

một thửa đất thu hồi thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái
định cư và tình hình thực tế tại địa phương quyết định mức đất ở, nhà ở tái định
cư cho từng hộ gia đình.
Bên cạnh các quy định về tái định cư nêu trên, tại Khoản 3,4,5,6 Điều 6
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP này còn có một số quy định có liên quan đến việc
nhà nước tạo điều kiện cho hộ gia đình cá nhân ổn định nơi ở hay thay thế việc
nhận đất ở bằng tiền nhưng những trường hợp này không thuộc trường hợp tái
định cư.
Theo thuật ngữ được đưa ra tại Dự án tăng cường năng lực quản lý thủy
lợi và cải tạo hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải 9 Tái định cư còn được hiểu là
“Các biện pháp xem xét để giảm thiểu những tác động bất lợi của dự án đối với
các tài sản, kế sinh nhai của người bị ảnh hưởng qua việc bồi thường, di dời và
phục hồi, nếu cần”.
Như vậy, thông qua việc phân tích toàn diện các khía cạnh của tái định cư
nêu trên, có thể nhận thấy rằng, tái định cư không chỉ là một một khái niệm dừng

lại ở việc đưa một bộ phận dân cư từ nơi ở này sang nơi ở khác, mà tái định cư
còn liên quan đến rất nhiều vấn đề như: công ăn việc làm, học hành, y tế, sự tiếp
cận các dịch vụ đô thị, nhà ở, các quan hệ xã hội…
Do đó, tái định cư cần được nhìn nhận là một quá trình thay đổi về kinh tế,
văn hoá, xã hội của một bộ phận dân cư hơn là chỉ dừng lại ở việc xem xét đây là
quá trình thay đổi chỗ ở. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu “ Tái định cư
là một quá trình thay đổi về vật chất, chỗ ở, thay đổi về vấn đề kinh tế, văn hóa,
xã hội của người bị thu hồi đất khi đến nơi ở mới”
1.2 Mục đích của việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Đầu tiên là thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh 10.
Mặc dù đang trong điều kiện hoà bình nhưng nhu cầu đất đai cho mục đích quốc
Đây là dự án thuộc Hợp phần 2 của Dự án "Tăng cường quản lý thủy lợi và Cải tạo các hệ thống thủy
nông" (ADB5) do Ngân hàng Phát triểu Chấu Á (ADB) và sự phối hợp của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2017.
10
Điều 61 Luật Đất đai năm 2013.
9

12


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

phòng, an ninh là rất lớn. Việc phát triển quốc phòng, an ninh góp phần vào việc
đảm bảo hoà bình, ổn định cho đất nước. Có thể thu hồi đất để xây dựng các
doanh trại quân đội; các địa điểm phòng thủ; trại giam; cơ quan công an; các
trường đào tạo cán bộ... Vì trong thời đại mới nên địa điểm phòng thủ, các doanh
trại quân đội cũng cần bố trí cho thích hợp. Chính do địa điểm quốc phòng, an
ninh thay đổi nên cần tiền hành thu hồi đất để xây dựng. .
Bên cạnh đó, là thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc

gia, công cộng. Việc gia tăng dân số và tốc độ phát triển kinh tế trong thời gian
vừa qua đã tạo sức ép lên cơ sở hạ tầng. Chính vì vậy việc thực hiện các dự án
quan trọng quốc gia là cấp thiết, theo quy định tại Điều 40 Luật đất đai năm 2003
về thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế quy định “ Nhà nước
thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong
trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và
các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ”. Đến khi Luật Đất đai năm
2013 đã sửa đổi quy định này theo hướng mở rộng đối tượng là các dự án do
Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư bao gồm: các dự án do Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận, quyết định đầu tư, dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức
nước ngoài có chức năng ngoại giao; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng
niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc gia vv... là nhu cầu cấp bách. Do đó
việc thu hồi đất được đặt ra để các công trình, dự án được thực hiện theo đúng
quy hoạch và kế hoạch. Ngoài các dự án do Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ
quyết định ra, còn có việc thu hồi đất phục vụ cho các dự án do Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất.
Đối với mục đích của việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư là nhằm đảm bảo
rằng tất cả những người bị ảnh hưởng bởi các dự án, công trình bao gồm những
người phải di dời đến nơi ở mới và những người phải di dời vì việc xây dựng
khu tai định cư mới, phải được bồi thường cho những tài sản bị mất theo giá
13


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

thay thế và được hưởng các chính sách hỗ trợ nhằm giúp họ khôi phục, cải thiện

mức sống hoặc ít nhất là duy trì được các điều kiện sống và khả năng tạo thu
nhập như trước khi có dự án.
1.3 Khái quát về Ủy ban nhân dân cấp xã và vai trò của UBND cấp xã trong
việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1.3.1 Cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã
Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước (cấp cơ sở), đây được xem là cấp chính
quyền “gần” dân nhất ở Việt Nam hiện nay. Cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã
bao gồm hệ thống các cơ quan sau đây:
Thứ nhất, về hệ thống chính trị cấp xã, gồm có: Đảng ủy xã, Ủy ban nhân
dân xã, Hội đồng nhân dân xã, Khối cơ quan đoàn thể (tổ chức chính trị - xã hội:
Mặt trận Tổ quốc, và các tổ chức thành viên: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,…). Ngoài ra
còn có các tổ chức xã hội như: Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ, Hội Người
mù vv...
UBND cấp xã là cơ quan do HĐND cùng cấp xã bầu ra, là cơ quan chấp
hành của HĐND cấp xã, chịu trách nhiệm trước HĐND cấp xã và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên. Theo quy định tại Nghị định số 107/2004/ NĐ-CP thì
UBND xã miền núi, hải đảo (có dân số từ 5.000 người trở lên), đồng bằng, trung
du (có dân số từ 8.000 người trở lên) và biên giới: 05 thành viên 01 Chủ tịch
UBND xã: phụ trách chung, khối nội chính, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội xã; 02 Phó Chủ tịch UBND xã:Một Phó Chủ tịch phụ trách khối
kinh tế - tài chính, xây dựng, giao thông, nhà đất và tài nguyên - môi trường;Một
Phó Chủ tịch phụ trách khối văn hóa – xã hội. Đối với Các Ủy viên UBND gồm
có 01 Ủy viên phụ trách Công an (Trưởng Công an xã) và 01 Ủy viên phụ trách
Quân sự (Xã Đội trưởng).
Đối với các UBND xã không thuộc trường hợp trên được quy định gồm
có 03 thành viên là 01 Chủ tịch UBND xã;01 Phó Chủ tịch UBND xã; 01 Ủy
viên UBND xã. Trong nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân xã có thể ấn định thêm số


14


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

lượng thành viên UBND cấp mình nhưng tổng không vượt quá 05 thành viên và
phải được Chủ tịch UBND cấp trên trực tiếp phê duyệt.
Đối với các UBND phường, thị trấn gồm có 05 thành viên, 01 Chủ tịch
UBND phường: phụ trách chung, khối nội chính, quản lý công tác quy hoạch đô
thị; 02 Phó Chủ tịch UBND phường: - Một Phó Chủ tịch phụ trách khối kinh tế tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng, khoa học – công nghệ, nhà đất và tài nguyên môi trường;- Một Phó Chủ tịch phụ trách khối văn hóa – xã hội và các lĩnh vực
xã hội khác.
Thứ hai, về cán bộ, công chức cấp xã. Theo quy định tại các Điều 61, 62,
63,64 Chương V Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định như sau:
* Về chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã11:
Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 3 Điều 4 của Luật này bao
gồm hai loại là cán bộ cấp xã và công chức cấp xã.
Cán bộ cấp xã có các chức vụ bao gồm Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ
tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân,
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Nông dân
Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam), Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh Việt Nam.
Công chức cấp xã (do cấp huyện quản lý) bao gồm các chức danh: Trưởng
Công an, Chỉ huy trưởng Quân sự, Văn phòng - thống kê, Địa chính - xây dựng đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp xây dựng và môi trường (đối với xã), Tài chính - kế toán, Tư pháp - hộ tịch, Văn
hóa - xã hội.
1.3.2 Cơ chế hoạt động của Ủy ban nhân dân xã
Theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
cũng như Quyết định số 77/2006/QĐ-TTg ngày 13/4/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành quy chế làm việc mẫu của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

11

Điều 61 Luật Cán bộ, công chức năm 2008.

15


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

thì hoạt động của Ủy ban nhân dân xã dựa trên nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, kết hợp với chế độ thủ trưởng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân là
người chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo và điều hành hoạt động của Ủy
ban nhân dân.
Về vai trò của tập thể
Các vấn đề Ủy ban nhân dân xã phải thảo luận tập thể và quyết định theo
đa số bao gồm các vấn đề như: chương trình làm việc của Ủy ban nhân dân; kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dự toán ngân sách xã, quyết toán ngân sách hàng
năm và quỹ dự trữ của xã trình Hội đồng nhân dân xã quyết định; kế hoạch đầu tư,
xây dựng các công trình trọng điểm ở xã trình Hội đồng nhân dân xã quyết định;
các biện pháp thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã về kinh tế - xã hội,
thông qua báo cáo của Ủy ban nhân dân xã trước khi trình trình Hội đồng nhân
dân xã; đề án thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính ở xã.
Ủy ban nhân dân xã họp ít nhất mỗi tháng một lần. Các quyết định của Ủy
ban nhân dân xã phải được ít nhất quá nửa thành viên Ủy ban nhân dân xã tán
thành. Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân xã
là quyết định và chỉ thị. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thay mặt ký xác nhận.
Về vai trò của cá nhân Chủ tịch UBND xã.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là người lãnh đạo, điều hành công việc của
Ủy ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn luật định, cùng với tập thể Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm về hoạt động

của Ủy ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân phân công công tác cho các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân. Những cán bộ, công chức này chịu
trách nhiệm trước Chủ tịch về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao
- Cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã có những nhiệm vụ quyền hạn như:
Lãnh đạo công tác của Ủy ban nhân dân xã, các thành viên của Ủy ban nhân dân,
bộ phận chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân xã; đôn đốc công tác của các bộ
phận chuyên môn thuộc Uỷ ban trong thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; quyết định các

16


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân xã, trừ các vấn đề thuộc
thẩm quyền của tập thể Ủy ban nhân dân giải quyết; áp dụng các biện pháp nhằm
cải tiến lề lối làm việc, quản lý, điều hành bộ máy hành chính xã hoạt động có
hiệu quả; ngăn ngừa và đấu tranh chống các hành vi quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, vô trách nhiệm, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác trong bộ máy
chính quyền xã; tổ chức việc tiếp dân, xét, giải quyết kiến nghị, khiếu nại tố cáo
của nhân dân theo quy định của pháp luật; triệu tập và chủ toạ các phiên họp của
Ủy ban nhân dân xã; bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, cách chức, khen thưởng,
kỷ luật cán bộ, công chức ở xã, chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải quyết
các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng chống thiên tai, cháy nổ, dịch
bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Ủy ban nhân dân xã trong kỳ họp gần nhất.
Trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Chủ tịch UBND ra quyết định, chỉ thị.
1.3.3 Vai trò của UBND cấp xã trong việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư.
1.3.3.1 Vai trò của UBND cấp xã trong việc thu hồi đất

Thứ nhất, quản lý phần đất bị thu hồi (ở nông thôn) do người sử dụng đất
vi phạm pháp luật về đất đai.
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 68 Luật Đất đai năm 2013 quy định về trường
hợp đất đã thu hồi theo quy định tại khoản 1 Điều 64 và các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều 65 của Luật này là đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ở
nông thôn thì giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý. Quỹ đất này được giao,
cho thuê đối với hộ gia đình, cá nhân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất theo
quy định của pháp luật”.
Thứ hai, quản lý đất đối với các trường hợp thu hồi đất (ở nông thôn) do
chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe
dọa tính mạng con người.
Đối với tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được
Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không
còn nhu cầu sử dụng đất; người sử dụng đất thuê của Nhà nước trả tiền thuê đất

17


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu
sử dụng đất, cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế, người sử dụng
đất tự nguyện trả lại đất, đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng
không được gia hạn thì sau khi cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi đất thì
phần đất này sẽ do Ủy ban nhân dân cấp xã trực tiếp quản lý cho đến khi có
quyết định khác của của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ ba, giữ vai trò là thành viên của Ban cưỡng chế thu hồi đất và bảo
quản tài sản của người bị cưỡng chế.
Theo quy định tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chỉnh phủ, có liệt kê

thành phần Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là trưởng ban; Các thành viên gồm đại diện các
cơ quan tài chính, tài nguyên và môi trường, thanh tra, tư pháp, xây dựng cấp
huyện; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã; tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường giải
phóng mặt bằng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất và một số thành viên khác do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định .Khi thực hiện cưỡng chế thu hồi
đất mà người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản theo quy định tại Điểm c Khoản
4 Điều 71 của Luật Đất đai thì Ban thực hiện cưỡng chế giao tài sản cho Ủy ban
nhân dân cấp xã bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, đối với cá nhân chết mà không có người thừa kế thì UBND cấp xã
gửi giấy chứng tử và các văn bản liên quan đến Phòng Tài nguyên và Môi
trường, đồng thời quản lý, chỉnh lý, cập nhận dữ liệu đối với phần đất bị thu hồi
mà không có người thừa kế.
Theo quy định tại Điều 65 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thường trú của cá nhân người sử dụng đất chết mà không có người
thừa kế có trách nhiệm gửi Giấy chứng tử hoặc quyết định tuyên bố một người là
đã chết theo quy định của pháp luật và văn bản xác nhận không có người thừa kế
của Ủy ban nhân dân cấp xã đến Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất thu
hồi đối với trường hợp thu hồi đất của cá nhân sử dụng đất chết mà không có
người thừa kế.
Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm thẩm tra, xác minh thực

18


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

địa trong trường hợp xét thấy cần thiết; trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết
định thu hồi đất; tổ chức thu hồi đất trên thực địa và bàn giao cho Tổ chức phát
triển quỹ đất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý; chỉ đạo cập nhật, chỉnh lý cơ

sở dữ liệu đất đai, hồ sơ địa chính, thu hồi Giấy chứng nhận hoặc thông báo hủy
Giấy chứng nhận đối với trường hợp không thu hồi được Giấy chứng nhận.
Thứ năm, vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi bàn giao đất đối
với trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, có nguy
cơ đe dọa tính mạng con người
Theo quy định tại khoản 3 Điều 65 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì việc
cưỡng chế phải tuân thủ các nguyên tắc thực hiện cưỡng chế quy định tại Khoản
1 Điều 70 của Luật Đất đai và sau khi có quyết định thu hồi đất, cơ quan tài
nguyên và môi trường có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã và
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã vận động, thuyết phục để người có
đất thu hồi bàn giao đất;
Thứ sáu, giữ vai trò là người làm chứng để làm căn cứ quyết định thu hồi
đất.
Theo quy định tại Điều 66 Nghị định 43/2014/NĐ-CP về trình tự, thủ tục
thu hồi đất do vi phạm pháp luật thì trường hợp vi phạm pháp luật mà phải thu
hồi đất, khi hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm lập
biên bản về vi phạm hành chính để làm căn cứ quyết định thu hồi đất.Trường
hợp vi phạm pháp luật về đất đai không thuộc trường hợp bị xử phạt vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai thì biên bản xác định hành vi vi phạm phải có đại diện của Ủy ban
nhân dân cấp xã làm chứng để làm căn cứ quyết định thu hồi đất.
Ngoài các vai trò nêu trên, hiện nay theo Luật Đất dai năm 2013 thì UBND
cấp xã là nơi niêm yết Thông báo thu hồi đất và phối hợp với tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất,
vận động người dân phối hợp trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm12.
12

Điều 69 Nghị định 43/2014/NĐ-CP


19


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

1.3.3.2 Vai trò của UBND cấp xã trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Thứ nhất, UBND cấp xã phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ, bồi thường,
giải phóng mặt bằng tổ chức lấy ý kiến người dân về phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, sau khi phương án chi tiết
được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm
phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến của nhân dân,
nhất là các đối tượng bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là: tổ chức họp trực tiếp
với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh
hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại
diện UBND cấp xã, đại diện Ủy ban MTTQVN cấp xã, đại diện những người có
đất thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách
nhiệm tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số
lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư; phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối
thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền
Thứ hai, niêm yết, phối hợp công bố công khai phương án dự kiến bố trí
tái định cư Theo quy định tại Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
Việc niêm yết, phối hợp công bố công khai phương án dự kiến bố trí tái
định cư Theo quy định tại Điều 86 Luật Đất đai năm 2013 là nhằm mục đích để
các hộ dân có tên trong phương án dự kiến bố trí đất tái định cư xem nội dung

phương án và đóng góp ý kiến (nếu có) ghi vào mẫu góp ý gửi đến cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (như Trung tâm phát triễn quỹ đất hay ủy ban nhân dân cấp
huyện). Sau thời hạn niêm yết trên, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh phương án bố trí đất tái định cư và trình cấp
thẩm quyền phê duyệt theo quy định.

20


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Thứ ba, Tổ chức tuyên truyền về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư của dự án, phối hợp và tạo điều kiện hỗ trợ cho việc chi trả tiền bồi thường,
hỗ trợ và bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất và tạo điều kiện cho việc giải
phóng mặt bằng.
Đây có thể nói là là nhiệm vụ chung của các cơ quan nhà nước, trong đó
có Uỷ ban nhân dân cấp xã. Việc tuyên truyền về chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư của dự án là nhiệm vụ rất quan trọng. Ở giai đoạn này, UBND cấp
xã sẽ thông qua việc vận động và tuyên truyền sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân ở nơi đó dễ dàng tiếp cận, hiểu biết về quyền lợi và nghĩa vụ của
mình.
Ngoài ra, đối với việc chi trả tiền bồi thường hỗ trợ tái định cư. Căn cứ
Khoản 1, Điều 93 Luật Đất đai năm 2013 quy định về chi trả tiền bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư như sau: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi
đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất
thu hồi”. Như vậy trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất có
hiệu lực thi hành thì UBND huyện phải chi trả tiền bồi thường về đất cho gia
đình. Vì vậy, vai trò của UBND cấp xã trong việc phối hợp chi trả tiền kịp thời
cho người dân là rất quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của người dân cũng

như tránh việc nhà nước phải trả lãi do chậm thanh toán cho người dân13.
Thứ tư, Ủy ban nhân dân cấp xã có đất bị thu hồi cử đại diện tham gia là
thành viên Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện do lãnh đạo Ủy
ban nhân dân cấp huyện làm Chủ tịch Hội đồng và đại diện Ủy ban nhân dân cấp
xã cùng với đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, đại diện những người có
13

Theo Khoản 2, Điều 93 Luật Đất đai năm 2013: “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi
thường chậm chi trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi
thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì
người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định
của Luật Quản lý thuế tính trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả”. Căn cứ Khoản 1, Điều 106
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế năm 2013 quy định về xử lý đối với việc
chậm nộp tiền thuế như sau: “Người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia
hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý
của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và tiền chậm nộp theo mức luỹ tiến 0,05%/ngày tính
trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá chín mươi ngày; 0,07%/ngày tính trên
số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp vượt quá thời hạn chín mươi ngày”.

21


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

đất bị thu hồi xác nhận vào biên bản niêm yết công khai phương án bồi thường.
Thứ năm, xác nhận vào biên bản bàn giao đất giữa tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng và người có đất bị thu hồi và xác nhận cho đối
tượng được hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất là hộ gia đình, cá nhân
thuộc đối tượng đủ điều kiện được giao đất nông nghiệp.


22


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
TRONG THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
2.1. Tình hình công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư ở huyện
Mỹ Tú hiện nay.
Trước khi Luật Đất đai 2013 được ban hành, công tác quản lý đất đai chưa
được chú trọng, thậm chí có lúc còn bị buông lỏng. Do đó dẫn đến tìng trạng đất
đai được sử dụng đất một cách lãng phí, kém hiệu quả, trái pháp luật. Sau khi
Luật đất đai năm 2013 đươc thì UBND huyện Mỹ Tú đã ban hành các văn bản
để chỉ đạo, hướng dẫn các xã, thị trấn thực hiện thực hiện, để kiện toàn tổ chức
và đội ngũ cán bộ thực hiện quản lý đất đai theo các quy định của Luật Đất đai
2013. Trong giai đoạn năm 2010-2014, về cơ bản huyện Mỹ Tú đã dần dần đi
vào nề nếp và đã đạt được những thành tích khách quan, góp phần ổn định, phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn phường
Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn được xác định là việc
chấp hành các chính sách về đất đai của Nhà nước, đồng thời có ý nghĩa nhắc
nhở các đơn vị, các cá nhân được giao đất sử dụng đúng mục đích, hợp lý, tiết
kiệm và chống sử dụng đất lãng phí. Do vậy, việc thực hiện pháp luật về đất đai
của toàn huyện Mỹ Tú diễn ra tương đối tốt. Tuy nhiên, do hệ quả từ việc thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của những năm trước đây, tình hình quản lý
đất đai không chặt chẽ gây ra nhiều hiện tượng sử dụng đất sai mục đích, còn bỏ
trống chưa sử dụng đến, sử dụng kém hiệu quả… đến nay huyện phải giải quyết.
Theo quy định tại Luật Đất đai 2013 thì quyền thu hồi đất của UBND
huyện là: hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; Còn đối với tổ chức cơ sở tôn

giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thì do
UBND tỉnh thu hồi. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng
nâng cao, nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao trong khi đất đai lại có hạn. Chính
vì vậy, đất đai ngày càng trở nên có giá trị. Đây chính là nguyên nhân làm cho
quá trình quản lý sử dụng đất có nhiều tiêu cực. Do giá trị đất cao nên con người
23


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

đã tìm mọi cách để có đất, quá trình này đã làm cho tình trạng lấn chiếm đất đai,
giao đất trái thẩm quyền, sử dụng đất trái mục đích có chiều hướng gia tăng trên
địa bàn cả tỉnh nói chung và huyện Mỹ Tú nói riêng. Nhằm đảm bảo thực hiện
đúng Luật Đất đai, huyện Mỹ Tú đã phối hợp với các ngành, các ban, các
phường trên địa bàn tiến hành thanh tra ra quyết định thu hồi đất đối với các
trường hợp sử dụng đất sai mục đích, lấn chiếm đất đai, đất không sử dụng sau
khi giao, thu hồi đất để xây dựng nhà máy…
Trong các năm từ 2010 đến năm 2012 để thực hiện dự án Công trình
đường tỉnh 94014 (giai đoạn 2) đoạn Huỳnh Hữu Nghĩa – Mỹ Phước, Hội đồng
giải phóng mặt bằng đã giải tỏa và tạo mặt bằng cho đơn vi thi công. Phạm vi
giải tỏa gồm hai đoạn: Đoạn thứ nhất,bắt đầu từ tuyến đường Hùng Vương thuộc
địa phận thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa và kết thúc tại Cống Mỹ Phước thuộc địa
bàn xã Mỹ Thuận. Chiều dài của tuyến đường này là 8,255km, bề rộng nền
đường là 8m, riêng đoạn thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa có bề rộng mặt đường là
14m. Đoạn thứ hai, bắt đầu từ Mỹ Phước đến Nhu Gia, đoạn này bắt đầu từ cống
Mỹ Phước đến kết nối với Quốc lộ 1A. Tổng số hộ bị ảnh hưởng là 288 hộ, trong
đó bị ảnh hưởng về nhà ở là 82 hộ, bị ảnh hưởng vật kiến trúc là 73 hộ, ảnh
hưởng về đất, hoa màu là 131 hộ
Trong quá trình thu hồi đất, Hội đồng giải phóng mặt bằng đã tiến hành
triển khai phương án bồi thường như sau:

Về đền bù đối với đất: Tại thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa đất ở tại đô thị được
định giá cao nhất là 1.350.000 đồng/m, thấp nhất là 300.000 đồng/m2. Xã Mỹ Tú
giá đất ở tại nông thôn là 200.000 đồng/m2, đất cây lâu năm là 45.000 đồng/m2,
cây hàng năm là 35.000 đồng/m2. Xã Mỹ Thuận, giá đất ở và đất trồng cây lâu
năm tương đương xã Mỹ Tú nhưng đối với đất trồng cây hàng năm thì giá đền bù
thấp hơn, chỉ ở mức 20.000 đến 35.000 đồng/m2.
Về đền bù nhà cửa, vật kiến trúc: Nguyên tắc đền bù được xác định dựa
trên hiện trạng, kết cầu nhà cửa, vật kiến trúc của từng hộ tùy theo mức độ ảnh
hưởng bị cắt xén một phần hay bị giải tỏa trắng. Gía đền bù được xác định theo
14

Phương án số 01/PA.HĐ ĐB ngày 31 tháng 5 năm 2010 của Hội đồng giải phóng mặt bằng UBND huyện Mỹ
Tú về phương án tổng thể, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình đường tỉnh 940 (giai đoạn 2) đoạn Huỳnh
Hữu Nghĩa – Mỹ Phước.

24


Vai trò của UBND cấp xã trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

Quyết định số 569/QĐHC-CTUBND ngày 13 tháng 9 năm 2009 của Chủ tịch
UBND tỉnh Sóc Trăng về việc ban hành Bảng đơn giá chuẩn 1m2 nhà, công
trình vật kiến trúc xây dựng mới trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Về các chính sách hỗ trợ:
Thứ nhất, hỗ trợ di chuyển chổ ở.
Hình thức này áp dụng cho các hộ dân bị giải tỏa trắng nhà và thu hồi hết
đất ở phải di chuyển đến nơi ở mới với 3 mức hỗ trợ theo diện tích xây dựng
nhà. Riêng đối với những hộ giải tỏa trăng hết nhà nhưng không thu hồi hết đất
thổ cư (di dời nhà ra phần đất còn lại phía sau) thì mức hỗ trợ bằng 50% các hộ
bị thu hồi hết đất và bị giải tỏa trắng.

Thứ hai, hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.
Áp dụng cho các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi
nhà nước thu hồi đất thì tùy theo diện tích bị ảnh hưởng sẽ có các mức hỗ trợ
khác nhau bằng giá trung bình của 30kg gạo/một nhân khẩu/tháng.
Thứ ba, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm.
Hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp (có nguồn sống
chính từ sản xuất nông nghiệp) khi nhà nước thu hồi đất mà không có đất để bồi
thường thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp đang sử dụng
còn được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng 1,5 lần giá đất nông nghiệp bị thu
hồi.
Thứ tư, hỗ trợ ngừng sản xuất kinh doanh.
Khi nhà nước thu hồi đất của các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất, kinh doanh
có đăng ký kinh doanh mà bị ngừng sản xuất, kinh doanh thì được hỗ trợ bằng
30% một năm thu nhập sau thuế theo mức thu nhập bình quân của 3 năm liền kế
trước đó được cơ quan thuế xác nhận.
Thứ năm, hỗ trợ tái định cư.
Do dự án trải dài theo tuyến, số lượng hộ bị giải tỏa trắng ít nên việc tái
định cư được thực hiện theo hình thức ‘Tái định cư phân tán”. Hình thức này có
nghĩa là hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất ở phải di chuyển chổ ở mà
tự lo chổ ở thì được hỗ trợ một suất đầu tư hạ tầng là 30 triệu đồng/hộ.
25


×