Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố đà nẵng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.65 KB, 76 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự động viên, giúp
đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến PGS.TS. Trịnh Quốc Toản người đã tận tâm hướng dẫn tôi thực hiện
quá trình nghiên cứu luận văn của mình.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người đã
đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, … đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015
Học viên

Đoàn Quang Huy

3


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể


bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đoàn Quang Huy

4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 7
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ................................ 12
1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của
quản lý Nhà nước về kinh tế ......................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước .................................. 12
1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế ..................................... 13
1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh
tế .................................................................................................................. 17
1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế.............. 20
1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế ........................................... 22
1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi
hỏi khách quan ............................................................................................. 28
1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ....................................... 29
1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ........................ 30
1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế . 30
CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ

NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014 ....................... 33
2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự
năm 1999 ..................................................................................................... 33

5


2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985 .......................................... 33
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999 ................................................... 38
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng
từ năm 2009 đến năm 2014 .......................................................................... 40
2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........ 41
2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014 ...................................... 42
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật Hình
sự bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế và nguyên nhân của nó .......... 53
2.3.1. Tồn tại và hạn chế .............................................................................. 53
2.3.2. Nguyên nhân ...................................................................................... 57
CHƯƠNG III: NHU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ TÀI HÌNH SỰ
ĐỂ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ................ 59
3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế
tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế ............................. 59
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để
bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế. .................................................. 59
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự
để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế............................................... 61

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các
hành vi xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế ................................. 63
3.3. Một số giải pháp khác tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để
bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế: ................................................... 70
KẾT LUẬN.................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 76

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước sự hội nhập, phát triển sâu rộng của nền kinh tế đất nước ta với
nền kinh tế thế giới, đã mở ra cho đất nước những thời cơ, thuận lợi để phát
triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, hướng tới mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế đã có
sự chuyển đổi mạnh mẽ với các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển đa dạng,
phong phú. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở tầm vĩ mô
nhằm ổn định nền kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho các quan hệ kinh tế
phát triển cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức do mặt trái của nền kinh tế thị
trường đem lại. Tính chất vi phạm, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của
Nhà nước về kinh tế diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn, tính chất
ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ cao, hình thành tổ chức xuyên quốc
gia…vv, đã và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế đất nước.
Pháp luật hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng, là một trong những
công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước ta để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm
nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Tuy nhiên,
hiện nay các quy định của pháp luật hình sự còn chưa được hoàn thiện, thực
tiễn áp dụng thì hiệu lực, hiệu quả và tính đồng bộ chưa cao, chưa đáp ứng
kịp thời với đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và yêu

cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Thành phố Đà Nẵng với vị trí vùng kinh tế trung tâm, đầu mối giao
thông trọng yếu của khu vực Miền trung và Tây nguyên đã và đang có những
sự đổi thay, phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với nền kinh tế đất nước. Tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn cũng diễn biến phức tạp,
có chiều hướng gia tăng. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn, đây là cơ sở quan trọng để nghiên

7


cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý
của Nhà nước về kinh tế.
Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về
kinh tế còn diễn biến phức tạp trong thời gian tới, đặt ra vấn đề cấp thiết cần
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để tạo hành lang pháp lý quan
trọng nhằm bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng
pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố Đà
Nẵng).” làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế bằng pháp luật
hình sự, theo tìm hiểu của cá nhân đã được một số tác giả nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là dưới góc độ tội phạm học hoặc
Luật Hình sự, chưa có công trình hoặc Luận văn, Luận án nào nghiên cứu
dưới góc độ của chuyên ngành Luật Kinh tế, đây cũng chính là những khó
khăn và thuận lợi của tác giả khi chọn đề tài này làm Luận văn Thạc sĩ.
Về tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận văn được sắp xếp như sau:
- Hệ thống sách, Giáo trình quản lý của Nhà nước về kinh tế; Giáo
trình, Bình luận khoa học Luật Hình sự như: “Giáo trình quản lý Nhà nước về

kinh tế” của trường Đại học Kinh tế quốc dân do GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và
PGS.TS Mai Văn Bưu chủ biên; Sách “Lịch sử Luật Hình sự Việt Nam” do
Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002; “Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách “Bình luận
khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp
lý, Bộ Tư pháp; “Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm”, tập VI, các
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của tác giả Đinh Văn Quế. Đề
cương giáo trình “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm về trật tự quản lý kinh

8


tế, chức vụ và giải pháp phòng chống” của TS. Phạm Quang Phúc (Đào tạo
cao học - Chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm) năm 2005.
- Luận án Tiến sĩ “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi
hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương; Luận án Tiến
sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003);
Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” (năm 2006). Những công trình này nghiên
cứu về chính sách hình sự hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế chủ yếu dưới góc độ Tội phạm học và Luật Hình sự.
- Các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp
chí chuyên ngành, Hội thảo, các số chuyên đề như: Tài liệu hội thảo “Một số
kinh nghiệm rút ra qua công tác giải quyết án kinh tế - chức vụ ở cấp phúc
thẩm” Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (8/2012), “Một số vấn đề về hình sự
hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính
sách hình sự hiện nay” của GS.TS Hồ Trọng Ngũ - UVTT Uỷ ban Quốc
phòng An ninh của Quốc hội; “Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Trí - Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật “Dự án Bộ luật
Hình sự (sửa đổi) nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới”…
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nhận thức chung về quản lý của Nhà nước về
kinh tế và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta về tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử; thực tiễn đấu tranh, xử lý
tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

9


Từ đó, Luận văn làm rõ những tồn tại, hạn chế và đề xuất, kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự bảo vệ trật tự quản lý
của Nhà nước ta về kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế, chính sách
hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử
lập pháp và thực trạng đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong 05 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật,
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự
về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự

quản lý kinh tế nói riêng; sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng
pháp luật hình sự.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế và thực tiễn áp dụng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014.

10


Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh
tế.

11


CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của
quản lý Nhà nước về kinh tế
1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước
Trước hết có thể hiểu trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới,
trước sau... [19, tr.16]. Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân
(hoặc vắn tắt là quản lý Nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có

hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có,
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội
nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của
quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác
của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức
năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước [25, tr.21]. Theo nghĩa rộng,
quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện qua ba cơ quan hành pháp, lập
pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế
được hiểu như hoạt động quản lý kinh tế có tính chất nhà nước nhằm điều
hành nền kinh tế, được điều hành bởi cơ quan hành hành pháp là Chính phủ
[18, tr.51].
Từ các khái niệm nêu trên, thấy rằng Nhà nước quản lý về kinh tế để
đảm bảo nền kinh tế, các quan hệ kinh tế phát triển ổn định theo đúng định
hướng và theo trật tự do Nhà nước đặt ra. Bản chất của quản lý Nhà nước về
kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước, sự đặc trưng này thể hiện
rõ tính giai cấp của Nhà nước. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây là
mối quan hệ có tính biện chứng V.I. Lê-nin đã rút ra nguyên lý về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.

12


Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [31, tr 311 –
312]. Từ đó cho thấy, đường lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và
quy luật kinh tế; chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh
tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chính trị.
“Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.
Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động
điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị

trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [10]. Như vậy,
Nhà nước chỉ quản lý về kinh tế trên tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ
mô liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, mà không can thiệp vào công việc nội
bộ của doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh.
Tóm lại, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đóng vai trò quan trọng,
quyết định sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định thì Nhà nước luôn có sự điều chỉnh, thay đổi về chính sách,
đường lối trong hoạt động quản lý về kinh tế nhằm đảm bảo phù hợp với khả
năng, điều kiện của đất nước và xu thế chung của thế giới. Bên cạnh đó để
đảm đảm bảo sự ổn định, có trật tự của nền kinh tế thì Nhà nước cũng đặt ra
những chế tài nghiêm khắc để trừng trị, răn đe những hành vi xâm phạm trật
tự quản lý về kinh tế. Tùy theo mức độ của hành vi xâm phạm thì sẽ có những
chế tài khác nhau. Đối với những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có
mức độ nguy hiểm cao thì pháp luật hình sự sẽ điều chỉnh và sẽ bị cho là tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế
Nhà nước cũng như pháp luật là những hiện tượng có tính lịch sử. Nó
chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động xã hội làm xuất hiện chế

13


độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng không thể điều hòa
được, thì Nhà nước ra đời. Nhà nước đặt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị thay cho tập tục lạc hậu và thừa nhận các quy tắc tập
quán còn phù hợp để nâng lên thành luật để điều hành cá c quan hệ xã hội
[25, tr.10].
Nhà nước quản lý kinh tế là một xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, vì đất nước muốn phát triển, muốn đi lên tất yếu là phải đi

từ kinh tế, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước, để
nền kinh tế đi đúng hướng và phát triển thì phải có sự quản lý của Nhà nước.
Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý về kinh tế thể hiện ở những lý do sau:
Thứ nhất, Kinh tế là lĩnh vực hoạt động xã hội chứa đựng mâu thuẫn
giai cấp trực tiếp và sâu sắc nhất:
V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được” [29, tr 9]. Giai
cấp được phân hoá và hình thành trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực này thì
mâu thuẫn luôn gay gắt vì đây là mối quan hệ có tính lợi ích và bóc lột, khi
mâu thuẫn này đến đỉnh điểm thì sẽ xảy ra sự đấu tranh bằng bạo lực, gây mất
ổn định kinh tế, xã hội và đất nước.
Nhà nước về bản chất “chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp”
[30, tr 303 ] và “bất cứ Nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này
trấn áp giai cấp khác” [31, tr 122]. Nhưng Nhà nước ta, với bản chất là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy bảo vệ tính giai cấp của Nhà nước chính là bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ sự áp bức, bóc

14


lột, Nhà nước phải can thiệp vào lĩnh vực kinh tế để giải quyết và điều hòa
các mâu thuẫn lợi ích về kinh tế giữa chủ - thợ, qua đó Nhà nước góp phần ổn
định nền kinh tế đất nước.
Thứ hai, Nhà nước quản lý về kinh tế là để khắc phục nhược điểm, kiểm
soát các quy luật và mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật cung cầu, quy luật giá trị,
quy luật lưu thông tiền tệ. Ba quy luật trên cơ bản điều chỉnh nền kinh tế thị
trường – dẫn đến lý thuyết kinh tế thị trường tự do. Thực tế chứng minh, kinh

tế thị trường luôn có những mặt trái tồn tại là: Luôn luôn có nguy cơ mất cân
đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; vì
mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích chung
của xã hội, lợi ích của cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn
thuế, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…); bản
chất kinh tế thị trường là làm giàu cho một bộ thiểu số trong xã hội chứ không
phải đa số trong xã hội vì vậy luôn tạo ra sự phân hóa về giàu – nghèo trong
xã hội.
Nhận thức được vấn đề trên, từ khi đất nước mở cửa và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các văn kiện Đại
hội đảng, Nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của quản lý Nhà
nước về kinh tế thị trường là "Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" [32, tr 78].
Thứ ba, Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều
kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đồng đều:
Nhà nước ta đảm bảo phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế
và các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch, trong đó: Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng

15


mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần
để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội
hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh
tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch.
Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, Nhà nước quản lý về kinh tế vì trong nền kinh tế quốc dân có
một phần kinh tế Nhà nước:
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã nhấn mạnh “Phải
tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô” [10]. Nhà
nước ta khẳng định vai trò quan trọng, chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong
nền kinh tế quốc dân, Nhà nước xây dựng trò của kinh tế Nhà nước để có
phương tiện và điều kiện để can thiệp một cách mạnh mẽ vào nền kinh tế.
Thông qua kinh tế Nhà nước, Nhà nước ta can thiệp và điều tiết nền kinh tế,
đảm bảo cho nền kinh tế, các quan hệ xã hội phát triển theo đúng định hướng,
trật tự Nhà nước đã đề ra.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Song song với những ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế hay
còn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến bản chất xã hội
chủ nghĩa như xu hướng phân hóa giàu. Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế
là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều tiết các thành phần kinh tế và

16


thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đấu tranh khắc phục,
hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội [27].
1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về
kinh tế
1.1.3.1. Mục tiêu của Nhà nước về quản lý kinh tế
Mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nước ta xác định trong chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội, giai đoạn 2010 – 2012 là “Phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã

hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Tóm tại, mục tiêu chung, cuối cùng cần phấn đấu đạt được chính là “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh….” [14]
Qua đó thấy rằng quản lý Nhà nước về mục tiêu cũng gắn liền với mục
tiêu chung của kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng của Đảng và Nhà
nước. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước đặt mục tiêu quan trọng nhất,
hàng đầu là mục tiêu “Đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô”, bên cạnh các mục
tiêu tăng trưởng và mục tiêu công bằng xã hội. Ba mục tiêu này là mục tiêu cơ
bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước trong nền kinh tế thế
giới.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong của quản lý Nhà
nước về kinh tế
Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương
hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc
dân, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong

17


quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, vận
hành bằng cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thì chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với
các nội dung cơ bản như sau:
- Chức năng định hướng, hướng dẫn phát triển kinh tế:
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra, Nhà nước định
hướng phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng, định hướng của Nhà nước là:

Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế quốc gia, phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Lập các quy hoạch,
kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu
đó trong thời gian nhất định. Nhà nước càng thực hiẹn tốt chức năng định
hướng càng tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước càng phải tăng
cường định hướng, hướng phát triển kinh tế, vì: Các doanh nhân tự chủ kinh
doanh nhưng chưa thể nắm được tình hình, xu hướng vận động của thị trường,
dễ gây thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà
nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế
- xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước định hướng phát triển
kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng
định hướng nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch mà Nhà nước
đã vạch ra.
- Chức năng tổ chức thực hiện nền kinh tế
Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó
quan trọng và cấp thiết hơn cả là sắp xếp, củng cố lại các doanh nghiệp nhà
nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo
nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống
quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương

18


đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp
xếp các cán bộ công chức quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết
lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế.
- Chức năng Nhà nước điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường
Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà

nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường định hướng, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết,
chi phối thị trường hoạt động theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho
kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà nước
sử dụng hàng loạt biện pháp bao gồm các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các
công cụ tài chính, thuế, tín dụng.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật
tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng
vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã
hội. Để bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục khuyết tật
của kinh tế thị trường và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh Nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát.
Các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trên chỉ có thể thực hiện tốt
khi có những giải pháp đồng bộ, không thể thực hiện rời rạc từng chức năng.
Nói đến chức năng tạo lập môi trường thuận lợi mà không chú ý đúng mức
đến chức năng tổ chức, sắp xếp lại cơ quan, bố trí hợp lý cán bộ và cải cách
hành chính thì không thể có môi trường thuận lợi. Cũng tương tự như vậy,
nếu Nhà nước không làm tốt chức năng điều tiết, kiểm tra thì không thể tạo
lập được môi trường lành mạnh và bình đẳng.
Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định Nhà nước tập trung làm tốt các

19


chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị
trường. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các

công cụ kinh tế. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm
tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ
quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các
dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục
thể thao). Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn
định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
1.1.4.1. Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế
* Dựa vào cấu trúc của nền kinh tế quốc dân gồm:
- Tài nguyên quốc gia: Là một đối tượng quản lý quan trọng nhưng tuỳ
vào mỗi quốc gia thì có sự quản lý khác nhau. Tài nguyên không chỉ dành cho
người đương thời mà còn cho đời sau nên cần coi quản lý tài nguyên như 1
nội dung về kinh tế.
- Dự trữ quốc gia gồm: Vật tư, nội, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, đó là 1
phần của tổng sản phẩm quốc dân được dùng để bảo hiểm đất nước trước các
rủi ro, do đó nhà nước cũng cần quản lý đối tượng này.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng gồm: Các công trình giao thông, hệ thống
thoát nước, phương tiện truyền dẫn ... do ngân sách quốc gia đầu tư và xây
dựng. Hệ thống này phục vụ nhiều cho kinh tế nên cần quản lý.
- Các doanh nghiệp: Quản lý Nhà nước về kinh tế chủ yếu là quản lý
doanh nghiệp, các tế bào của nền kinh tế, là nhân vật chính nên nó là 1 đối
tượng quản lý quan trọng.

20


* Xét cấu trúc của quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm:
- Quá trình đầu tư xây dựng kinh tế.

- Quá trình vận hành của nền kinh tế.
* Xét các mặt hoạt động của nền kinh tế bao gồm:
- Vấn đề quan hệ sản xuất được giải quyết tốt sẽ tạo ra sự phù hợp và
thích ứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất từ đó nền kinh tế sẽ
phát triển và ngược lại.
- Nhà nước thường quản lý các mặt sau đây: Quyền sở hữu của nhà
nước với các loại tài sản quốc gia, về sự cho phép tồn tại của các loại hình sở
hữu về tư liệu sản xuất, về loại hình doanh nghiệp.
- Vấn đề tổ chức sản xuất: Thì nhà nước quản lý về cơ cấu kinh tế và cơ
cấu vùng kinh tế.
+ Nhà nước quản lý về quy mô doanh nghiệp, phân công việc làm và
hợp tác trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề phân bố địa lý của doanh nghiệp,
vấn đề quan hệ quốc tế của nền kinh tế.
- Vấn đề chất lượng sản phẩm, vệ sinh môi trường.
Chất lượng sản phẩm thì nhà nước lại quản lý ở 2 lĩnh vực chủng loại
sản phẩm và chất lượng sản phẩm.
- Vấn đề tiến bộ khoa học - công nghệ trong kinh tế: Nhà nước quản lý
các mặt như: thành tựu cụ thể của khoa học công nghệ trong và ngoài nước.
Đối tác mà các doanh nghiệp có quan hệ trong việc thực hiện các định hướng
tiến bộ khoa học công nghệ nói trên.
- Vấn đề tổ chức quản lý: Nội dung cơ bản là cơ cấu bộ máy quản trị
kinh doanh tại các doanh nghiệp, chế độ ghi chép hạch toán, thống kế, chế độ

21


thanh toán qua ngân hàng.
1.1.4.2. Nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế
Việc quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau
đây:

Thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế;
Thứ hai, xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Cụ thể là: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ
đạo việc thực hiện các mục tiêu đó.
Thứ ba, xây dựng pháp luật kinh tế: Hệ thống pháp luật kinh tế gồm rất
nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính sau:
- Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại
v.v… Loại hình pháp luật này thực chất là Luật tổ chức các đơn vị kinh tế,
theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc
chơi do Nhà nước làm trọng tài.
- Hệ thống pháp luật theo khách thể như Luật Tài nguyên môi trường,
được Nhà nước đặt ra cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là
các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố nhân tài, vật lực và
tác động vào môi trường thiên nhiên.
Thứ tư, tổ chức hệ thống các doanh nghiệp;
Thứ năm, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế
của đất nước;
Thứ sáu, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế;
Thứ bảy, thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của nhà nước và của
công dân;
1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế

22


Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản
lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý
đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương

tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ
quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà
nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành
viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là một hệ thống bao gồm
nhiều loại, trong đó có công cụ quản lí thể hiện mục tiêu, ý đồ của Nhà nước,
có công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể kinh tế, có công
cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ kinh tế, có công cụ vật chất thuần túy….“Nhà nước quản lý điều hành
nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên
cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.” [10]
Thứ nhất, nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Xác định mục tiêu quản lý là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động
quản lý Nhà nước về kinh tế. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các yêu
cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm
giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục
tiêu của quản lý có thể bao gồm:
- Đường lối phát triển kinh tế - xã hội: Đường lối phát triển kinh tế - xã
hội là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do
Đảng cầm quyền của các quốc gia xây dựng và thực hiện, đó là việc xác định
trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt tới, để từ đó mới căn cứ vào thực
trạng hoàn cảnh của nền kinh tế mà tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn
tiến hành để đạt tới đích đã xác định. Ở nước ta, đường lối phát triển kinh tế

23


đất nước gắn liền với phát triển xã hội và do Đảng Cộng sản Việt Nam thực
hiện được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đại hội.

Đường lối phát triển kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận
mệnh của đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự
nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước
đến phát triển, ổn định, giàu mạnh công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ
đưa đất nước đi lầm đường lạc lối, là tổn thất, là đổ vỡ, là suy thoái, là hậu
quả khôn lường về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải
pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển
kinh tế đất nước trong một chặng thời gian đủ dài. Thực chất chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển doanh nghiệp trong
mỗi chặng đường lịch sử của đất nước (thường là 10 năm, 15 năm, hoặc 20
năm) và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. Ở nước ta, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trong các
Đại hội Đảng toàn quốc, như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2010, đến năm 2020.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội là việc đính hướng phát triển kinh tế dài hạn. Trong đó, xác định rõ qui
mô và giới hạn cho sự phát triển. Thực chất qui hoạch là xác định khung vĩ
mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ
quan quản lý Nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch,
các chương trình, dự án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền
vững và có hiệu quả.
Thực chất của qui hoạch là cụ thể hóa chiến lược về không gian và thời
gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy

24


hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy
hoạch địa phương….
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Kế hoạch là cụ thể hóa chiến

lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng
năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản
được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối
lơn….các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và
thành phần kinh tế.
Ở Việt Nam, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xem là công
cụ quan trọng trong quản lý nền kinh tế của Nhà nước.
- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội: Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội là tổ hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước phải
tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn,
một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ:
chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chương trình cải cách
nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý,
chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chương trình phát
triển kinh tế đối ngoại, chương trình phát triển công nghiệp, chương trình phát
triển kết cấu hạ tầng, chương trình phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ
môi trường sinh thái, chương trình phát triển dịch vụ, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc, chương trình xóa đói
giảm nghèo….
- Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn
hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch
Nhà nước trong từng thời kì và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa
các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước
một cách có hiệu quả nhất.

25


Thứ hai, nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ
thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.

Pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý về kinh tế. Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói
chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp
luật. Điều 8 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ”.
Pháp luật về kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí,
quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.
Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai
loại văn bản: Văn bản qui phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: (1) Văn bản do Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh, (2) Văn
bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để
thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành: Lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư, (3) Văn
bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành để thi hành các
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và của cơ
quan Nhà nước cấp trên. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật trong quản lý
Nhà nước về kinh tế là những quy phạm pháp luật được ban hành để giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ thể như các quyết định bổ,
miễn nhiệm, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác đối
với cán bộ công chức Nhà nước…

26


Thứ ba, nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước
trong viêc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế.

Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều
chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, đó là chính sách kinh tế. Chính sách kinh
tế là một hệ thống phức tạp gồm nhiều loại:
- Chính sách phát triển các thành phần kinh tế.
- Chính sách tài chính với các công cụ chủ yếu: Chi tiêu của Chính phủ
và thuế.
- Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: Kiểm soát mức cung tiền
và lãi suất.
- Chính sách thu nhập với các công cụ chủ yếu: Giá cả và tiền lương
- Chính sách ngoại thương với công cụ chủ yếu: Thuế nhập khẩu, hạn
ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh
toán quốc tế…
Thứ tư, nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng
quản lý.
Công cụ vật chất được dùng làm áp lực, hoặc động lực tác động vào đối
tượng quản lý của Nhà nước có thể bao gồm:
- Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa….
- Tài nguyên trong lòng đất.
- Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia.
- Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp.
- Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.
Thứ năm, nhóm công cụ để sử dụng các công cụ nói trên.
Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình
bày ở trên là các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là các cơ quan

27


×