Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma túy (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố đà nẵng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 82 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TUN THANH T

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động t- pháp
đối với tội phạm về ma túy
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)

LUN VN THC S LUT HC

H Ni - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TUN THANH T

thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động t- pháp
đối với tội phạm về ma túy
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGUYN NGC CH

H NI - 2016




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi làm Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tuấn Thanh Tứ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ
PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM VỀ MA TÚY .................................... 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân .............. 8

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố ................................ 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp ........ 14
1.2.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy .............. 18

1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy ................................................................ 18
1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội
phạm ma túy ....................................................................................... 21
1.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự đối với các tội phạm về ma túy ............... 21
1.3.

Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp đối với tội phạm về ma túy..................................................... 22

1.3.1. Đối tượng và phạm vi ......................................................................... 22
1.3.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn điều tra ................................ 25
1.3.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xét xử .................................. 30


1.3.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn thi hành án .......................... 32
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ

PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM MA TÚY TẠI ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................................ 37
2.1.

Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm ma túy............................. 37

2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trước 2003 ............................................................ 37
2.1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp từ năm 2003 tới nay ............................................. 39
2.2.

Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp đối với các tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2011 - 2015 .............................................................. 45

2.2.1. Thực trạng tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng ............. 45
2.2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng .......... 48
2.2.3. Một số tồn tại trong quá trình thực thi quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với thực tiễn xét xử tội phạm ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ......................................................... 50
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP .............................. 57
3.1.

Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam ........... 57


3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tƣ pháp tại Việt Nam ................................. 59

3.2.1. Đối với quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân .......................... 59


3.2.2.

Đối với kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân ........... 62

3.2.3. Biện pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố đối với
các tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ....................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1: Số liệu thống kê công tác truy tố, xét xử tội phạm ma túy

Trang
49



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 mới nhất đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng
của ngành kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
thông qua công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Theo quy định tại Điều
112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm
sát khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát tư pháp được cụ thể hóa trong
Luật. Về chủ trương, Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp trong những năm tới cũng ghi nhận “Hoạt động công tố
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và suốt quá trình tố tụng nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”.
Hệ thống cơ quan kiểm sát nhân dân là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm trong đó có tội phạm ma túy, góp phần bảo vệ công lý, quyền con
người, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, cơ quan Kiểm sát nhân dân được coi là cánh tay thực thi của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò kiểm sát đối với việc
ngăn ngừa, đưa ra truy tố tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng –
loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội.
Tại địa bàn thành phố Đà Nẵng, những diễn biến phức tạp của tình hình
tội phạm ma túy thời gian vừa qua đã đặt ra những thách thức cho ngành kiểm
sát trong việc thực thi quyền công tố và kiểm sát tư pháp. Theo số liệu thống
kê của Công an thành phố Đà Nẵng, trên địa bàn thành phố tính đến giữa năm

1



2014, số lượng người nghiện ma túy lên đến 1.888 người; con số này tăng so
với năm 2013 là 248 người [13, tr. 2]. Trong khi đó, ngành kiểm sát Đà Nẵng
đối mặt với nhiều bất cập và thực trạng chung của các cơ quan kiểm sát địa
phương cũng như từ những chính sách mới ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi
quyền công tố và giám sát tư pháp trên địa bàn thành phố. Điều này đặt ra yêu
cầu cần có những nghiên cứu cụ thể và thiết thực để công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng đáp ứng được các tôn chỉ hoạt động của ngành kiểm sát cụ thể:
Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử
lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp
luật; Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra
phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh;
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và
đúng pháp luật [42, tr. 14].
Với các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma tuý (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các nghiên cứu về quyền công tố và kiểm sát tư pháp của cơ
quan kiểm sát nhân dân khá nhiều và đầy đủ.
Phải kể tới một số công trình nghiên cứu có giá trị liên quan tới các
khía cạnh của tội phạm ma túy như:

2



- ThS Nguyễn Tuyết Mai, Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của
người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số 11/2006, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr. 32 – 37;
- ThS Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội sử dụng
trái phép chất ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát số 15/2006, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, tr. 29 – 31;
- Nguyễn Việt Hùng, Một số vấn đề đặt ra trong việc áp dụng các quy
định về tội phạm ma tuý của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số
16/2006, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 45 – 49;
- Nguyễn Xuân, Kinh nghiệm thực tiễn công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm đối với các vụ án ma tuý lớn,
Tạp chí Kiểm sát số 4/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 25;
- ThS Phạm Minh Tuyên, Một số bất cập và những kiến nghị đối với
các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm ma tuý theo pháp luật hiện
hành, Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2005, Toà án nhân dân tối cao, tr. 9-14;
- Nguyễn Thị Hoàng Lan, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy
định pháp luật về các tội phạm về ma tuý trong Bộ luật hình sự năm 1999,
Tạp chí Kiểm sát số 11/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 36 – 37…
Một số công trình nghiên cứu liên quan tới nội dung về quyền công tố
và kiểm sát tư pháp hình sự như:
- ThS Nguyễn Kim Sáu, Các bước tiến hành thanh tra nghiệp vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, Tạp
chí Kiểm sát số 8/2016, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 19 – 26;
- Bùi Sơn Cường, Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy,
Tạp chí Kiểm sát số 21/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 22;

3



- TS Trần Công Phàn, Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án ma túy trong tình hình hiện
nay, Tạp chí Kiểm sát số 20/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2-6, 18;
- Nguyễn Thị Hường, Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm theo Bộ
luật Tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên hướng
dẫn, Hà Nội, 2014;
- Đặng Văn Thực, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự” do TS.
Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012;
- Nguyễn Thị Kiều Trang, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự” do TS. Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012;
- Trần Đức Phong, Một số kinh nghiệm qua thực tiễn thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tội phạm ma tuý, Tạp chí Kiểm sát
số 20/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2 – 9;
- Phạm Mạnh Hùng, Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 21/2011, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, tr. 11-17…
Một số bài báo đáng chú ý trong đề tài nghiên cứu này kể tới như:
- Hoàng Thế Hanh, Một số vấn đề cơ bản để bảo đảm chất lượng thực
hành quyền công tố của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
nhũng, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 16/2015, tr. 52;
- Vũ Thị Thùy Dương, Nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, Tạp chí Thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Số 6/2015, tr. 33;

4



- Đoàn Thị Vĩnh Hà, Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn Quận Hoàng Mai, Hà
Nội, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2015, tr. 23…
Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc thù tội phạm ma túy trên địa bàn đặc
thù là thành phố Đà Nẵng lại rất ít ỏi. Điều đáng nói là, các kết quả nghiên
cứu thu được cho đến nay còn hết sức khiêm tốn. Phần lớn các công trình
khoa học về lĩnh vực này còn chưa chuyên sâu, đại đa số được công bố dưới
hình thức các bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
luật hoặc tham luận trong các Hội thảo quốc gia và quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về quyền
công tố và kiểm sát tư pháp, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và
kết quả hoạt động thực thi pháp luật liên quan, phân tích đặc thù của tội phạm
ma túy và của địa bàn thành phố Đà Nẵng đồng thời đưa ra các ý kiến góp
phần hoàn thiện các quy định pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm ma tuý trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các
tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và
phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn
đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau:
Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về pháp luật về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về thực hành quyền công tố và

5



kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó phân tích thực tiễn tội phạm ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng để rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện
hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật liên quan.
Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những
khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu còn sử dụng thực tiễn áp dụng
đối với tội phạm ma túy trên địa bàn Đà Nẵng cũng như trên các địa bàn khác,
pháp luật của một số quốc gia phát triển nhằm đánh giá về quy định pháp luật
liên quan và đưa ra những quan điểm hoàn thiện tại Việt Nam hiện nay.
3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy
logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hoàn
thiện hơn các quy định liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của cơ quan kiểm sát nhân dân trên cơ sở lý luận và thực
tiễn áp dụng với tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận
văn này sẽ là một trong những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng

6



dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà
nước, kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong
quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma túy.
Chương 2. Pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam.

7


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Trải qua quá trình từ khi thành lập đến nay đã 55 năm, chức năng của
cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tuy có sự thay đổi qua từng thời kỳ nhưng
lịch sử đã ghi nhận và chứng minh, sự tồn tại của Viện kiểm sát nhân dân
mang tính tất yếu khách quan, là thiết chế góp phần bảo vệ và duy trì pháp
luật, xây dựng nhà nước pháp quyền thông qua công tác phát hiện và xử lý
các hành vi phạm tội, bảo vệ các quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức, đảm bảo
sự chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản gồm thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra, xét xử các vụ
án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; tiếp nhận, giải quyết
kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy
định của pháp luật; tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan,
tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân chuyển đến. Năm 2002 đánh
dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát
theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cụ thể kể từ thời điểm Viện

8


kiểm sát chỉ có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa. Tới nay, Luật Tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 25/11/2014 gồm 06 chương, 101 điều [31] và được xác định là sửa đổi
căn bản, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm
thể chế Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu cải cách tư pháp. Theo đó, Viện
Kiểm sát trong tố tụng hình sự có hai chức năng: Chức năng thực hành quyền
công tố và chức năng kiểm sát tư pháp trong hoạt động tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm
“Quyền công tố” là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [40, tr. 204]. Đối tượng
tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Phạm vi quyền

này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị. Nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật cho
thấy, chế định công tố được hình thành dần cùng với sự hoàn thiện và phát
triển của tố tụng hình sự. Lúc đầu, trong nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại,
người bị hại là người buộc tội và có nghĩa vụ chứng minh lời buộc tội của
mình, nhưng do hoạt động của họ rất khó khăn, nên sau này việc truy cứu
trách nhiệm hình sự được chuyển giao cho nhà nước, do các viên chức của
nhà vua tiến hành [15]. Kể từ khi xuất hiện nhà nước và thứ quyền lực nhà
nước hiện diện trong xã hội, nhà nước luôn có cách thức như là một phản xạ
tự nhiên là tự vệ để duy trì sự tồn tại của mình và đảm bảo trật tự xã hội đó là
xử lý những người có hành vi chống lại nhà nước lấy mục đích trấn áp kẻ vi
phạm pháp luật bằng bạo lực với lý do họ vi phạm pháp luật gây phương hại
trước hết đến sự tồn vong của một chế độ nào đó. Như một lẽ tự nhiên muốn

9


xử lý ai đó bắt buộc phải có sự buộc tội. Khi pháp luật, luận lý, đạo đức, dân
luật, hình luật còn đang trong trạng thái hỗn mang chưa rành mạch thì việc
buộc tội một người nào đó do tư nhân và nhà nước đảm nhiệm với thủ tục tố
tụng không rườm rà và phức tạp. Thậm chí Luật La mã còn cho phép cá nhân
có quyền tự xử lý hành vi vi phạm pháp luật bằng sức mạnh bạo lực (Bộ
Degest, quyển 43, mục 16, trích đoạn 1, điều 27). Việc buộc tội và xét xử nhiều
khi không rõ ràng thể hiện ở việc ông vua chuyên chế, hay các quan chấp chính
thời La mã vừa làm ra luật, vừa buộc tội vừa xét xử. Mặt khác, nhà nước ra đời
và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội về mọi phương diện, luôn
có trách nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật
tự xã hội chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này,
nhất là những hành vi mà bị pháp luật coi là tội phạm.
Ở Việt Nam, thiết chế công tố viện được người Pháp mang đến Việt

nam trước 1945 và tồn tại ở miền Bắc đến năm 1958, ở Miền Nam trước
1975, cơ quan công tố nằm trong tòa án. Có lúc nó nằm trong Chính phủ
(1958 – 1959) và mô hình VKS như hiện nay. Cụm từ “thực hành quyền công
tố” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980
khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 138, và được
nhắc lại ở các Điều 1 và 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
Kể từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công tố và thực hành
quyền công tố, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc cải cách tư pháp.
Riêng về “quyền công tố” đã có tới tám quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm
có cách thể hiện và lập luận riêng [16, tr. 44]. Dưới đây là 04 nhóm quan
điểm phổ biến nhất trong số đó:
- Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của viện kiểm
sát mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự [21, tr. 127-151]. Quan hệ giữa thực hành quyền công tố

10


và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm 1980 khi hiến pháp chưa có quy
định về chức năng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát và cũng xuất
phát từ quan niệm phổ biến của các nhà tố tụng hình sự học Xô viết trước đây.
- Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của viện kiểm sát thay mặt nhà
nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm
pháp luật. Vì vậy, viện kiểm sát thực hành quyền công tố không chỉ trong tố
tụng hình sự mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt
động tư pháp khác [38, tr. 56].
- Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho viện
kiểm sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó
tại phiên tòa [36, tr. 86-87].

- Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ
quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để
xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này phổ biến
trong các nhà nước có sự phân chia quyền lực [40, tr. 204].
Nhưng các quan điểm này hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến tình trạng
mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các
lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính; hoặc coi
quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản
chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân
danh quyền lực công; hoặc quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền
công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện
việc buộc tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm.
Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp

11


các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật
hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm nào cho xã hội
là tội phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều
quan tâm trước hết đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự
là phương tiện cai trị hữu hiệu, ổn định tình hình xã hội theo ý chí của giai
cấp thống trị. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát
sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người
phạm tội. Trong quan hệ này, nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà

nước, quyền lực công để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội; còn người phạm tội là chủ thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài hình sự do nhà nước quy
định và áp dụng.
Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là
nguyên tắc công tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành
trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Điểm
mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội.
Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi
cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, hoạt động tố tụng
hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản: buộc tội; bào chữa (gỡ tội)
và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện của cơ quan thực hiện chức năng
buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với những cá

12


nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cho sự cáo buộc
đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội
nhân danh nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, và chỉ phát
sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền này
được gọi là quyền công tố. Như vậy, quyền công tố là quyền nhân danh nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Xuất phát từ khái niệm về quyền công tố như trên, nên đối tượng của
quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội; nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm; phạm vi quyền
công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu

lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, quyền công tố là quyền được nhân danh quyền lực nhà nước
trong hoạt động truy tố người vi phạm pháp luật ra xét xử.
Việc truy tố tội phạm ra xét xử không phải hoạt động mà bất cứ tổ
chức, cá nhân nào cũng được thực hiện. Nhà nước thông qua việc trao lại
quyền truy tố cho một cơ quan nhà nước độc lập để đảm bảo những cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức khác hoặc xâm phạm tới hoạt động quản lý nhà
nước. Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan được giao thẩm quyền trong hoạt
động truy tố các tội phạm, là thẩm quyền riêng biệt được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014.
Thứ hai, quyền công tố là một nội dung trong hoạt động của các cơ
quan tư pháp.
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ngoài hệ thống tòa án nhân dân là cơ
quan có thẩm quyền tư pháp, thì hệ thống cơ quan tư pháp còn ghi nhận hệ
thống viện kiểm sát nhân dân cũng thuộc hệ thống cơ quan tư pháp có vai trò

13


công tố. Chỉ từ Hiến pháp năm 2013, chức năng công tố của cơ quan viện
kiểm sát nhân dân mới không còn được ghi nhận là cơ quan có quyền tư pháp.
Tuy nhiên, song song với hệ thống cơ quan xét xử của tòa án, vai trò của hệ
thống viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tư pháp thể hiện ở thẩm quyền
công tố và kiểm sát tư pháp.
1.1.1.3. Ý nghĩa
Trước tiên cần khẳng định, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp là chức năng luật định của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân của
Việt Nam hiện nay, đồng thời là hai mặt công tác có sự tương tác lẫn nhau,

hai quy trình tiếp tục lẫn nhau để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khác với chế định quyền công tố của các quốc gia tư bản phương tây
chỉ bao gồm quyền buộc tội, quyền công tố của nước ta bao gồm cả quyền
buộc tội và gỡ tội. Khi thực hiện chức năng buộc tội, Viện kiểm sát căn cứ
chứng cứ thu thập được để buộc tội đối với bị can, bị cáo hoặc đưa ra những
căn cứ gỡ tội đối với bị can, bị cáo khi đình chỉ vụ án; thông qua bản cáo
trạng hoặc bản luận tội nêu các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với bị can, bị cáo. Khi thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát
thay mặt cho quyền lực nhà nước để truy tố ra tòa những người phạm tội và là
cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án thông qua quyết định truy tố của Viện
kiểm sát nhân dân [38, tr. 60].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp
1.1.2.1. Khái niệm
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước,
do Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhằm đảm bảo pháp chế trong hoạt động
tư pháp hình sự. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà
nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác
với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát hoạt động tư

14


pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và
các cơ quan được giao một số hoạt động trong quá trình tố tụng như: Kiểm
lâm, Hải quan, Cảnh sát biển… khi tham gia hoạt động tố tụng.
Xét hoàn cảnh lịch sử nên Hiến pháp năm 1946 không được ban bố thi
hành, Quốc hội giao cho Chính phủ cùng Ban Thường vụ Quốc hội căn cứ
vào các nguyên tắc của Hiến pháp ban hành các văn bản pháp luật, vì vậy Tòa
án và Cơ quan công tố được tổ chức theo các Sắc lệnh của Chính phủ. Theo
các Sắc lệnh nói trên thì Cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa

án, do Bộ Tư pháp quản lý [22]. Ngay trong cơ cấu này thì chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp cũng thể hiện khá rõ, cụ thể các Công tố viên có
quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp Cảnh sát, kiểm soát công việc
quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người đứng
đầu Viện công tố của Tòa Thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ
giám sát việc thi hành các Đạo luật, Sắc lệnh và Quy tắc hiện hành trong quản
hạt của mình. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày
29/4/1958) Quốc hội đã quyết định Viện công tố Trung ương trực thuộc
Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận công tố trực thuộc Tòa án
ra. Tuy nhiên, ngay cả trong mô hình này thì Viện công tố cũng đã có những
nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp như giám sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật trong việc xét xử của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong
việc thi hành các bản án hình sự, dân sự và trong hoạt động của các Cơ quan
giam, giữ, cải tạo, khởi tố và tham gia tố tụng những vụ án dân sự. Như vậy,
ngay từ lúc mới hình thành, Cơ quan công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập
cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động. Chức năng không chỉ giới hạn ở thực
hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt động điều tra, giám sát đối với các
hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, kháng cáo bản án

15


hình sự, dân sự. Chỉ sau đó hơn một năm, Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp
đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại
hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm
sát. Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội
đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ

quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi
do luật định [38, tr. 53].
Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố
ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Xét bối cảnh lịch sử
ra đời của Viện kiểm sát thì thấy việc lựa chọn mô hình này ở nước ta, Ban
soạn thảo Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu quyết
định chuyển Viện công tố thành Viện kiểm sát bao gồm cả chức năng công tố
và chức năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là hoàn toàn có
sự cân nhắc, tính toán và thể hiện tính khách quan chứ không phải là một sự
sao chép máy móc mô hình Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới. Đến
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tuy có những bổ sung, thay đổi
về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhưng chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát.
Theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc
vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [28, tr. 17].

16


Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng Viện kiểm sát còn kiểm sát
việc tuân theo pháp luật (kiểm sát hoạt động tư pháp) đối với Cơ quan tiến
hành tố tụng; Người tiến hành tố tụng; Người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm
cho pháp luật được thi hành thống nhất, không để cơ quan, cá nhân nào làm
trái quy định của pháp luật, gây oan sai cho người vô tội. Mục đích của kiểm
sát hoạt động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm

chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, kiểm sát tư pháp là một nội dung trong hoạt động kiểm sát
tuân thủ pháp luật.
Thực tế kiểm sát tư pháp là một phần trong hoạt động kiểm sát chung
bao gồm cả hoạt động kiểm sát văn bản; kháng cáo kháng nghị; hỗ trợ tư pháp
của cơ quan kiểm sát. Trước đây, theo Hiến pháp năm 1992, chức năng kiểm
sát chung hoạt động tuân thủ pháp luật thuộc thẩm quyền của hệ thống viện
kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, kể từ lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001 và Hiến
pháp hiện hành năm 2013 thì hệ thống này chỉ giữ lại quyền kiểm sát đối với
hoạt động tư pháp.
Thứ hai, kiểm sát tư pháp là hoạt động tư pháp.
Nếu như các hoạt động kiểm sát văn bản là hoạt động quản lý hành
chính nhà nước thì hoạt động kiểm sát tư pháp là hoạt động đặc thù của tư
pháp. Bởi lẽ, hoạt động kiểm sát tư pháp được thực hiện bởi một hệ thống
viện kiểm sát nhân dân trong nhóm các cơ quan tư pháp; đồng thời đối tượng
của hoạt động này cũng là hoạt động truy tố, xét xử và thi hành án trong trình
tự tư pháp.
1.1.2.3. Ý nghĩa
Cùng với thẩm quyền công tố tội phạm, quyền kiểm sát hoạt động tư
pháp là quyền năng giám sát việc chấp hành pháp luật, các trình tự tư pháp,

17


góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp giúp cơ quan Viện kiểm sát tham gia
vào quá trình tố tụng để đảm bảo các luật do Quốc hội ban hành liên quan tới
vụ việc được tuân thủ, đảm bảo không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực
thi hoạt động xét xử, đảm bảo các hành vi vi phạm pháp luật phải bị phát hiện

và xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy
1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy
Ma túy là ẩn họa của toàn nhân loại và cuộc chiến chống lại ma túy cho
thấy sự cam go trên phạm vi toàn cầu cũng như trong khu vực. Hàng trăm
năm qua, tội phạm ma túy gắn bó hữu cơ với tội phạm hình sự trên thế giới
cũng như ở từng khu vực và trong từng quốc gia.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều cố gắng của các cơ quan nhà nước, tổ
chức và sự tham gia của toàn xã hội nhưng tội phạm ma túy vẫn có xu hướng
gia tăng, diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, ngày 09/12/2000, Quốc hội
đã ban hành Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 và Luật này được
sửa đổi, bổ sung năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Đồng thời, ngày
25/9/2007 Thủ tướng ban hành Quyết định số 156/2007/QĐ-TTg Phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2010 với 9 đề
án, trong đó Bộ Công an là đầu mối Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống ma túy. Ngày 24/02/2011 Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số
282/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48 CT/TW ngày
22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong các quy định của pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 1985
quy định duy nhất 01 điều về tội phạm ma túy, cụ thể là Điều 203 về tội tổ

18


×