Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

chính sách quản lí ngoại hói tại ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.94 KB, 59 trang )

Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

1

CHƢƠNG I

TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1.1. Khái niệm về ngoại hối và quản lý ngoại hối
1.1.1. Ngoại hối và thị trƣờng ngoại hối
1.2.2.1. Ngoại hối
Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh
toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của luật quản lý ngoại hối của mỗi nước
mà khái niệm ngoại hối có thể là không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, ngoại hối
gồm có 5 loại sau:
- Ngoại tệ (Foreign Currency): ngoại tệ là đồng tiền của nước ngoài (như USD,
GBP…) hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước (như EURO).
- Công cụ thanh toán bằng ngoại tệ: đây là các công cụ thanh toán được ghi bằng
tiền nước ngoài như séc (Cheque), hối phiếu (Bill of Exchange), lệnh phiếu
(Promissory Note), thẻ ngân hàng ( Card Bank), giấy chuyển ngân (Transfer).
- Các loại chứng từ có giá bằng ngoại tệ như: trái phiếu chính phủ (Government
Bonds), trái phiếu công ty (Corporate Bonds), cổ phiếu (Stock).
- Vàng (Gold): bao gồm vàng thuộc dự trữ của nhà nước, vàng trên tài khoản ở
nước ngoài của người cư trú, vàng khối, vàng thỏi, vàng miếng.
- Đồng tiền quốc gia – bản tệ (Local Currency): đồng tiền quốc gia được xem là
ngoại hối, nếu đồng tiền đó được sử dụng trong thanh toán quốc tế hoặc đồng tiền đó
chuyển vào, hoặc chuyển ra (xuất, nhập) khỏi quốc gia.
Phần lớn các phương tiện thanh toán này hình thành trên cơ sở của sự phát triển
tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng. Các phương tiện này không có giá trị nội
tại của nó, mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ.
Ngoại hối, trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là phương tiện
dự trữ của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được


các nước chấp nhận là đồng tiền quốc tế.
1.2.2.2. Thị trƣờng ngoại hối
Thị trường ngoại hối là thị trường để mua bán, trao đổi các loại ngoại tệ, các
phương tiện thanh toán có giá trị ngoại tệ và các loại ngoại hối khác như vàng, bạc…
Thị trường hối đoái còn được gọi là thị trường vàng và ngoại tệ (Gold and Foreign
currency market).


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

2

1.2.2.3. Đặc điểm của thị trƣờng ngoại hối:
- Thị trường hối đoái không tồn tại trong một không gian cụ thể nhất định mà hoạt
động của nó thông qua các phương tiện hiện đại như điện thoại, internet…
- Hoạt động trên thị trường ngoại hối là hoạt động liên tục và có tính quốc tế cao.
- Hoạt động giao dịch trên thị trường ngoại hối là giao dịch mua bán các ngoại tệ
tự do chuyển đổi (Free convertible Foreign Currency).
- Khối lượng giao dịch mua bán trên thị trường hối đoái là cực kỳ lớn cả về doanh
số và số lượng giao dịch tối thiểu.
- Tất cả giao dịch trên thị trường ngoại hối đều thực hiện thanh toán chuyển khoản
qua hệ thống ngân hàng, trong đó NHTW chủ trì các giao dịch thanh toán để đảm bảo
độ an toàn và chính xác, đảm bảo quyền lợi cho các thành viên giao dịch.
1.1.2. Hoạt động ngoại hối
Hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong
giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động
cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
Theo nội dung và tính chất kinh tế , hoạt động ngoại hối bao gồm các giao dịch
sau đây:
- Giao dịch vãng lai (Current Transaction)

- Giao dịch về vốn (Capital Transaction)
- Các giao dịch khác (Other Transaction)
1.1.3. Quản lý ngoại hối
Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng mà bất kì một chính phủ nào cũng
phải thực hiện. Hoạt động ngoại hối không liên quan đến sự vận động của ngoại hối,
làm cho ngoại hối đi ra, đi vào một quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến dự trữ quốc tế của
quốc gia đó, do đó quản lý ngọai hối là yêu cầu bắt buộc khi điều hành hoạt động kinh
tế - xã hội của một chính phủ. Đặc biệt trong thời đại phát triển mạnh, các quan hệ
kinh tế quốc tế, thời đại của sự hội nhập và phát triển, thì quản lý ngoại hối càng có ý
nghĩa quan trọng.
Quản lý ngoại hối, do NHTW của các nước thực hiện, một số nước quản lý ngoại
hối do cơ quan chuyên trách thực hiện. Tuy nhiên, do các giao dịch hối đoái phần lớn
đều phải thông qua hệ thống ngân hàng, nên việc quản lý ngoại hối ở các nước đều do
NHTW đảm nhiệm và đạt hiệu quả tốt hơn.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

3

Ở Việt Nam, công tác quản lý ngoại hối do NHNN ( Ngân hàng trung ương của
Việt Nam) thực hiện theo nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 5 của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( Luật số 01/1997/QH10).
Các nhiệm vụ cụ thể trong quản lý ngoại hối của NHNN như sau:
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngọai hối.
- Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối.
- Tổ chức điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,và thị trường ngoai hối
trong nước.
- Kiểm tra hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng.

- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác về quản lý ngoại hối theo quy định
của pháp luật (lập cán cân thanh toán quốc tế, xử lý).
1.2. Chính sách quản lý ngoại hối
1.2.1. Chính sách quản lý ngoại hối là gì?
Chính sách quản lý ngoại hối, còn gọi là chính sách hối đoái (Exchange Policy)
là bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia, là một trong những công cụ quản lý vĩ mô
của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nó bao gồm những quy định pháp lý điều chỉnh
hoạt động ngoại hối như mua bán, đầu tư, vay, cho vay và các giao dịch khác về ngoại
hối của các bên liên quan để quản lý và tác động đến ngoại hối cũng như hoạt động
ngoại hối của một quốc gia, nhằm tạo sự cân đối, ổn định để thúc đầy kinh tế - xã hội
phát triển.
Nội dung của chính sách quản lý ngoại hối là quản lý và kiểm soát các luồng vận
động về ngoại hối từ nước ngoài vào và từ trong nước ra có liên quan đến quan hệ
ngoại thương , tạo sự cân bằng cho cán cân thanh toán quốc tế , ổn định giá trị đồng
tiền , xây dựng được quỹ dự trữ ngoại hối hợp lý.
Thông thường, Chính phủ các nước uỷ nhiệm chức năng quản lý ngoại hối và
hoạt động ngoại hối cho một cơ quan Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ đảm trách nhiệm vụ
này. Phần lớn trên thế giới, NHTW giữ trọng trách quản lý ngoại hối và hoạt động
ngoại hối. Tại Việt Nam, Chính phủ giao cho NHNN là cơ quan chủ quản và phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan để thực hiện việc quản lý ngoại hối.
Phạm vi quản lý ngoại hối bao gồm các hoạt động liên quan đến ngoại hối. Đó là
các hoạt động làm nảy sinh cung cầu ngoại tệ như giao dịch thương mại, chuyển tiền
một chiều, đầu tư và vay, trả nợ nước ngoài. Đó là hoạt động ngoại hối của các tổ chức


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

4

tín dụng liên quan đến trạng thái ngoại hối trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, vấn

đề tỷ giá và các hoạt động của tổ chức, cá nhân liên quan đến ngoại hối.
1.2.2. Đối tƣợng của chính sách quản lý ngoại hối
1.2.2.1. Ngƣời cƣ trú (Residencer)
Người cư trú là tổ chức hoặc cá nhân có trụ sở làm việc, sống và hoạt động lâu
dài trên lãnh thổ Việt Nam, gồm:
- Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (gọi
chung là tổ chức tín dụng) gồm các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các công ty
tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân.
- Tổ chức kinh tế được thành lập và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam ( gọi
chung là tổ chức kinh tế) gồm các DNNN, các công ty cổ phần, DNTN, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty nước ngoài… hoạt động tại Việt Nam.
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trịxã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của VN
hoạt động tại VN.
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
- Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức theo quy định trên.
- Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài
có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức nói trên và các
cá nhân đi theo họ (vợ, chồng, con cái…)
- Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng nước ngoài.
- Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp
người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho các cơ quan đại diện
ngoại giao, lãnh sự, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.2.2. Ngƣời không cƣ trú ( Non-Residencer)
Người không cư trú là những tổ chức, cá nhân không phải là người cư trú. Người
không cư trú về cơ bản không phải là đối tượng chịu sự quản lý ngoại hối của NHNN
Việt Nam, nếu họ không có hoạt động giao dịch nào liên quan đến Việt Nam. Như vậy
người không cư trú, nếu có hoạt động liên quan đến các luồng vận động ngoại hối ra
vào Việt Nam thì thuộc đối tượng quản lý ngoại hối của Việt Nam.



Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

5

1.2.3. Các loại hình chính sách quản lý ngoại hối
1.2.4.1. Chính sách Nhà nƣớc độc quyền về quản lý ngoại hối
Chính sách này đi liền với cơ chế độc quyền quản lý ngoại thương của Nhà nước
và hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông thường, chính sách này áp dụng đối với các
nước có nền kinh tế hướng nội, kế hoạch hoá, tập trung cao độ. Trong bối cảnh đó, tỷ
giá được ấn định một cách chủ quan duy ý chí, không dựa trên quan hệ cung cầu của
thị trường ngoại hối; mọi giao dịch về ngoại hối được thực hiện thông qua các tổ chức
tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Các hoạt động mua bán kinh doanh, tàng trữ
ngoại hối đều bị nghiêm cấm.
1.2.4.2. Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối
Thắt chặt quản lý ngoại hối là giải pháp áp dụng đối với các nước thời kỳ đầu đổi
mới. Đây là việc Nhà nước quản lý sát sao mọi hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ và kiểm soát chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối nhưng Nhà nước không
độc quyền nắm giữ hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc quản lý ngoại hối đối với các tổ
chức, cá nhân đã được mở rộng hơn so với chính sách độc quyền quản lý ngoại hối.
Các tổ chức, cá nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ được phép mở tài khoản ngoại tệ tại
ngân hàng. Tuy nhiên, việc quản lý nguồn thu từ xuất khẩu vẫn bị ràng buộc bởi trách
nhiệm phải bán toàn bộ số ngoại hối cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại
tệ. Khi cần ngoại tệ để thanh toán cho các giao dịch với nước ngoài, các đơn vị kinh tế
phải được sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền và được các ngân hàng đáp ứng
ngoại tệ - các giao dịch trong nước được quy định thực hiện bằng ngoại tệ.
1.2.4.3. Chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với sự mở rộng hoạt động thương mại đầu tư quốc
tế cho tất cả các thành phần kinh tế tham gia thì chính sách quản lý ngoại hối thông
thường được áp dụng là chính sách nới lỏng quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thúc

đẩy giao lưu thương mại, đầu tư quốc tế phát triển. Lúc này, Nhà nước quàn lý ngoại
hối thông qua các công cụ thị trường và thông qua thị trường hối đoái. NHNN với tư
cách là một thành viên thị trường điều tiết thông qua hành động mua và bán ngoại tệ
trên thị trường ngoại hối. Khi cần huy động ngoại tệ để thực hiện quá trình cải tổ, phát
triển nền kinh tế, NHNN sẽ sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để thu hút ngoại tệ trong
nền kinh tế. Đối với các tổ chức, cá nhân được chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ của
mình như các quyền sở hữu, cất trữ và gửi tại ngân hàng... Dù vậy, nếu bối cảnh nền
kinh tế tiềm ẩn nguy cơ lạm phát thì việc sử dụng chính sách ngoại hối nới lỏng sẽ dẫn
đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

6

1.2.4.4. Chính sách tự do hoá ngoại hối
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế
với việc dỡ bỏ các rào cản thương mại, chu chuyển hàng hoá và chu chuyển vốn được
vận hành theo cơ chế thị trường thì điều đó đã làm nền tảng cho chính sách tự do quản
lý ngoại hối. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các chính sách vĩ mô và các công
cụ thị trường, giảm tới mức tối đa việc can thiệp trực tiếp mang tính hành chính, mệnh
lệnh để thị trường vận hành theo tín hiệu cung cầu của chính bản thân nó. Giá cả hàng
hoá và đặc biệt là tỷ giá được quyết định bởi yếu tố cung cầu trên thị trường. Tổ chức
và cá nhân được chủ động trong việc cất trữ và sử dụng ngoại tệ của mình. Thông
thường, chính sách quản lý ngoại hối được áp dụng với các nước có nền kinh tế phát
triển theo xu hướng mở cửa và hội nhập, có thị trường tài chính -tiền tệ phát triển, có
thị trường chứng khoán, thị trường ngoại hối phát triển ở mức độ cao và có nguồn
ngoại tệ dự trữ dồi dào để sẵn sàng ứng phó khi có biến động trên thị trường.
1.2.4. Mục tiêu của chính sách quản lý ngoại hối
Mục tiêu chung của chính sách quản lý ngoại hối được quyết định bởi mục tiêu

phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định và nó phải phù hợp
với mức độ phát triển của nền kinh tế. Mục tiêu chính sách quản lý ngoại hối tổng thể
mà hầu hết các quốc gia đều phấn đấu là góp phần bảo đảm sự cân bằng giữa hoạt
động kinh tế đối nội với hoạt động kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, chính sách quản lý
ngoại hối cần đạt được những mục tiêu sau: duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao và bền vững,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, duy trì ổn định tiền tệ và giá cả, ổn định cán cân thanh toán
quốc tế.
1.2.5.1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
NHNN thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối
(đặc biệt là ngoại tệ) vào tay mình, để thông qua đó Nhà nước sử dụng một cách hợp
lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng thời sử
dụng chính sách ngoại hối như một công cụ hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp tỷ giá khi cần thiết
nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
1.2.5.2. Bảo tồn dự trữ ngoại hối Nhà nƣớc
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHNN phải quản lý dự trữ ngoại hối nhà
nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư
phát triển kinh tế, luôn bảo đảm an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ
trên thị trường quốc tế. Vì thế NHNN cần phải mua, bán, chuyển đổi để phát triển,


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

7

chống thất thoát, xói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nước, bảo vệ độc lập chủ
quyền về tiền tệ.
1.2.5.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với
nước ngoài. Cán cân thanh toán phải phản ánh đầy đủ những xu hướng cung cầu về

ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn
đến khả năng cung về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp này tỷ giá vận động theo
xu hướng giảm. Ngược lại khi cán cân thanh toán quốc tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ
chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng, trường
hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng tăng lên. Như vậy trong cả hai trường hợp nếu
không có sự can thiệp của NHNN, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo cung cầu ngoại hối
trên thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước NHNN đóng vai trò điều tiết tỷ giá để thực
hiện mực tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHNN muốn xác lập một tỷ giá ổn định
nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm, thì NHNN hoặc mua vào số ngoại tệ
từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ dự trữ ngoại hối tăng lên tương
ứng, hoặc NHNN sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng
ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm đi tương ứng.
1.2.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến cơ chế quản lý ngoại hối
1.2.5.1. Cung cầu ngoại hối
Chính sách ngoại hối của NHTW được xác định dựa trên quan hệ cung cầu ngoại
hối và nguyên tắc một giá. Khi cầu ngoại tệ tăng, NHTW sẽ nới lỏng chính sách ngoại
hối để tăng lượng cung ngoại tệ trên thị trường. Khi cung ngoại tệ tăng, NHTW sẽ thắt
chặt chính sách ngoại hối để giảm lượng cung ngoại tệ trên thị trường để bình ổn thị
trường hối đoái.
1.2.5.2. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến chính sách quản lý ngoại hối của NHTW.
Khi tỷ giá hối đoái tăng, NHTW sẽ nới chính sách ngoại hối để tăng lượng cung ngoại
tệ trên thị trường nhằm giảm tỷ giá hối đoái. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm,
NHTW sẽ thắt chặt chính sách ngoại hối để giảm lượng cung ngoại tệ trên thị trường
nhằm tăng tỷ giá hối đoái. Điều này giúp cho tỷ giá hối đoái trở về trạng thái cân bằng,
ổn định thị trường.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối


8

1.2.5.3. Cán cân thanh toán
Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng trong những yếu tố tác động đến chính sách quản
lý ngoại hối của NHTW. Theo đánh giá chung có tính chất truyền thống của các nhà
kinh tế đều cho rằng lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và dịch vụ quốc gia là những
nhân tố cơ bản đứng sau lưng việc tăng giảm tỷ giá hối đoái. Tình trạng cán cân thanh
toán tác động đến cung vầu ngoại hối và tỷ giá hối đoái, từ đó tác động đến chính sách
quản lý ngoại hối của NHTW. Theo đó, nếu cán cân thanh toán thâm hụt, nhà nước sẽ
nới lỏng chính sách ngoại hối nhằm để cung ngoại tệ trên thị trường nhằm khuyến
khích xuất khẩu. Nếu cán cân thanh toán thặng dư, NHTW có xu hướng tăng tỷ lệ dự
trữ ngoại hối nhằm tích lũy cho nền kinh tế.
1.2.5.4. Lạm phát
Khi lạm phát của một nước tăng so với nước khác, giá trị của đồng nội tệ sẽ giảm
so với đồng ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái tăng, NHTW sẽ nới chính sách ngoại hối
để tăng lượng cung ngoại tệ trên thị trường nhằm giảm tỷ giá hối đoái bằng cách tăng
dự trữ bắt buộc nội tệ, rút bớt lượng nội tệ và giảm dự trữ bắt buộc ngoại tệ, bán ngoại
tệ ra thị trường. Khi tỷ giá hối đoái giảm, NHTW sẽ thắt chặt chính sách ngoại hối để
giảm lượng cung ngoại tệ trên thị trường nhằm tăng tỷ giá hối đoái bằng cách làm
ngược lại.
1.2.5.5. Lãi suất
Nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài, dòng tiền ngoại tệ đổ vào
trong nước lớn, cầu nội tệ tăng làm cho tỷ giá hối đoái giảm. NHTW sẽ thưc hiện việc
thắt chặt chính sách quản lý ngoại hối nhằm tăng tỷ giá hối đoái và tăng tích lũy ngoại
tệ cho nền kinh tế. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất nước ngoài,
dòng tiền nội tệ đổ ra nước ngoài lớn, cầu ngoại tệ tăng làm cho tỷ giá hối đoái tăng.
NHTW sẽ thưc hiện việc nới lỏng chính sách quản lý ngoại hối nhằm giảm tỷ giá hối
đoái và giảm dự trữ ngoại tệ qua việc bán ngoại tệ ra thị trường.
1.2.6. Nghiệp vụ quản lý ngoại hối của NHTW

1.2.6.1. Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nƣớc
Quản lý dự trữ ngoại hối là việc NHNN buộc các NHTM phải giữ lại một phần
nhất định trên tổng số ngoại tệ mà các NHTM có được từ việc thu hút ngoại tệ trong
nền kinh tế. Phần giữ lại này do NHNN quản lý và nó có ý nghĩa đảm bảo cho khả
năng thanh toán của các NHTM, hơn thế nữa nó còn là công cụ đắc lực để NHNN mở
rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM trên thị trường ngoại


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

9

hối từ đó NHNN có thể có những tác động đến mức tỷ giá hối đoái trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở
rộng thì bất cứ một quốc gia nào cũng không thể tự mình khép kín mọi hoạt động, phát
triển đất nước một cách đơn độc, riêng lẻ. Đặc biệt giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế
thị trường đang ngày một sôi động, luôn đòi hỏi sự hợp tác, liên minh giữa các quốc
gia. Do vậy việc dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu kinh tế có ý nghĩa chiến
lược quan trọng, có dự trữ ngoại hối cần thiết tức là nhà nước đã nắm được trong tay
một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Dự trữ ngoại hối chính là biểu hiện của sức mạnh của tiềm lực kinh tế quốc gia.
Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh toán quốc tế, thoả mãn nhu
cầu nhập khẩu phục vụ phất triển kinh tế và đời sống trong nước,mở rộng hoạt động
đầu tư, hợp tác kinh tế với các nước khác phục vụ mục tiêu chính sách kinh tế mở.
1.2.6.2. Thành phần dự trữ ngoại hối nhà nƣớc
Dự trữ ngoại hối nhà nước là dự trữ của Nhà nước bằng ngoại hối. Thuộc quyền
chi phối và sử dụng của Nhà nước, gồm các thành phần sau:
- Tiền mặt bằng ngoại tệ.
- Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

- Chứng khoán và các giá tờ có giá khác bằng ngoại tệ do chính phủ các nước, các
tổ chức nước ngoài, hoặc các tổ chức quốc tế phát hành.
- Dự trữ ngoại hối tại Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ( International Monetary Fund).
- Vàng dự trữ Nhà nước.
- Các loại ngoại hối khác của Nhà nước.
1.2.6.3. Nguyên tắc chung của quản lý dự trữ ngoại hối
Nguyên tắc an toàn: nói đến dự trữ, trước hết phải nói đến sự an toàn của nó;
trong quản dự trữ ngoại hối nhà nước, cũng phải tuân thủ nguyên tắc an toàn. Theo
nguyên tắc này, dự trữ ngoại hối nhà nước dù được tồn tại dưới hình thức nào ( tiền
mặt, tiền gửi hay chứng khoán, vàng) cũng phải đảm bảo sự an toàn tuyệt đối. Nếu dự
trữ ngoại hối bằng tiền mặt, ngoại tệ, bằng vàng và chứng khoán thì cần phải có hệ
thống bảo quản bí mật, an toàn có khả năng chống trộm, chống cắp, chống phá hủy.
Nếu dự trữ ngoại hối tồn tại dưới hình thức tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, thì cần phải
chọn lọc ngân hàng nào để gửi tiền cho đảm bảo an toàn, tin cậy và thuận lợi.
Nguyên tắc linh hoạt và có lợi: theo nguyên tắc này, cơ cấu dự trữ ngoại hối có
thể được điều chỉnh linh hoạt sao cho có lợi nhất.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

10

Đối với dự trữ ngoại tệ cần có dự báo sự biến động tỷ giá một cách thường xuyên
để đón đầu và điều chỉnh dự trữ ngoại tệ một cách hợp lý. Những ngoại tệ nào biến
động, hoặc tỷ trọng giao dịch không lớn thì giảm mức dự trữ, ngoại tệ nào ổn định và
tăng giá cần gia tăng mức dự trữ. Nhìn chung hầu hết các nước đều tập trung dự trữ
các ngoại tệ mạnh như USD, EURO…
Đối với dự trữ bằng chứng khoán, xu hướng tăng dự trữ chứng khoán của chính
phủ các nước công nghiệp phát triển. Dự trữ vàng sẽ tăng tỷ lệ nghịch với giá vàng
trên thị trường thế giới.

Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán: Dự trữ ngoại hối nhà nước, ngoài
việc “dự trữ” cho các nhu cầu chiến lược, phải đảm bảo khả năng thanh toán. Vậy dự
trữ ngoại hối nói chung và dự trữ ngoại tệ nói riêng phải có bao nhiêu mới được coi là
đảm bảo khả năng thanh toán? Xét về mặt định lượng, có hai chỉ tiêu để đánh giá dự
trữ ngoại tệ đảm bảo khả năng thanh toán.
- Thứ nhất: mức dự trữ ngoại tệ tính trên nợ ngắn hạn của quốc gia (nợ ngắn hạn
của quốc gia gồm nợ ngắn hạ , nợ trung hạn phải trả). (Dự trữ ngoại tệ/ nợ ngắn hạn).
Tỷ lệ nói trên phải lớn hơn hoặc bằng 1. Tuy nhiên, nước nào có cán cân vãng lai
thặng dư thì tỷ lệ xấp xỉ bằng 1 hoặc lớn hơn 1 được coi là đảm bảo khả năng thanh
toán.còn những nước có cán cân vãng lai thiếu hụt thì mức dự trữ ngoại tệ phải lớn
hơn nợ ngắn hạn rất nhiều,các nhà nghiên cứu cho rằng những nước đó phải đạt tỷ lệ
từ 2 trở lên mới đảm bảo khả năng thanh toán- nghĩa là dự trữ ngoại tệ phải hơn gấp
đôi nợ ngắn hạn của quốc gia. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mức “đảm bảo khả năng
thanh toán” cho dự trữ ngoại tệ thì chưa đủ. Một sự cân bằng dư thừa ở mức độ lớn là
điều mà hầu như nước nào cũng mong muốn.
- Thứ hai: Mức dự trữ ngoại tệ tính theo kim ngạch nhập khẩu. Theo khuyến cáo
của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì : Mức dự trữ ngoại tệ đạt từ 8 – 10 tuần nhập khẩu
(tức từ 3 đến 4 tháng nhập khẩu) được coi là mức trung bình. Nếu mức dự trữ này đạt
18 đén 24 tuần nhập khẩu được coi là mức dự trữ cao, nếu dự trữ trên mức đó là quá
cao. Dự trữ ngoại tệ quá cao cho phép đáp ứng mọi nhu cầu nhưng chưa hẳn là tốt nếu
xét về phương diện kinh tế.
1.2.6.4. Quản lý hoạt động ngoại hối
Quản lý hoạt động ngoại hối là quá trình kiểm tra, giám sát các đối tượng hoạt
động ngoại hối, nhằm đảm bảo ngoại hối vận động luân chuyển để phục vụ tốt nhất
việc thực hiện các quan hệ kinh tế - xã hội, trên cơ sở chấp hành các quy định của pháp
luật về ngoại hối và quản lý ngoại hối.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối


11

1.2.6.5. Quản lý các giao dịch vãng lai
Đối tượng thanh toán XNK hàng hóa, dịch vụ: Người cư trú được mua ngoại tệ
tại ngân hàng được phép để đáp ứng nhu cầu thanh toán cho đối tác nước ngoài, ngược
lại khi có thu bằng ngoại tệ thì phải chuyển toàn bộ vào Việt Nam và gửi vào tài khoản
ngoại tệ tại ngân hàng được phép. Mọi giao dịch đều phải thực hiện thông qua ngân
hàng được phép, ngoại trừ những trường hợp do Chính phủ quy định riêng.
Đối với chuyển tiền một chiều: Ngoại tệ thu được từ bên ngoài do chuyển tiền
một chiều (quà biếu, quà tặng, viện trợ…) của chính phủ và các tổ chức ở Việt Nam
được gửi vào tài khoản ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng được phép, hoặc được sử
dụng cho mục đích khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Người cư trú là cá nhân được nhận ngoại tệ từ nước ngoài với mục đích bình
thường như cho, tặng, từ thiện, hỗ trợ… phù hợp với quy định của Chính phủ.
Người cư trú được mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để phục vụ nhu cầu hợp
pháp (tu nghiệp, học tập, chữa bệnh, thi đấu thể thao, thi văn hóa, nghệ thuật)
Người không cư trú và người cư trú là người nước ngoài có ngoại tệ, được
chuyển ra nước ngoài, hoặc được quyền mua ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài nếu có
nguồn thu nhập hợp pháp bằng VND.
Đối với ngoại tệ tiền mặt, vàng…: Tất cả mọi đối tượng là người cư trú , người
không cư trú, mang ngoại tệ ,vàng khi xuất cảnh, nếu vượt quá mức quy định đều phải
khai báo hoặc xuất trình giấy phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.6.6. Quản lý các giao dịch vốn
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng ngoại tệ
chuyển vào Việt Nam, các nguồn thu bằng VND chuyển đổi thành ngoại tệ để chuyển
ra nước ngoài phải được thực hiện thông qua tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng
được phép. Đối với đầu tư gián tiếp thì vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải được chuyển đổi
thành VND để thực hiện đầu tư. Tất cả các khoản vốn đầu tư, lợi nhuận và các khoản
thu nhập hợp pháp chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài cũng phải thông
qua ngân hàng được phép.

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài : các đối tượng người cư trú là tổ chức( nhà
nước, chính phủ) và cá nhân đều được đầu tư ra nước ngoài theo quy định của chính
phủ hoặc ngân hàng nhà nước. nếu là tổ chức kinh tế , thì phải mở tài khoản ngoại tệ
tại ngân hàng được phép và phải đăng kí với NHNN, tất cả các luồng ngoại tệ ra, vào
đều phải thực hiện theo tài khoản này


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

12

Các khoản vay, trả nợ nước ngoài của nhà nước, chính phủ, của các tổ chức, cá
nhân, cũng như việc cho vay, thu nợ từ nước ngoài, đều được quy định, cụ thể nhằm
quản lý chặt chẽ sự vận động của các nguồn vốn tín dụng vào và ra khỏi đất nước..
1.2.6.7. Quản lý việc sử dụng ngoại tệ
Như các nước khác,Việt Nam quy định trong giao dịch quốc nôi như giao dich,
niêm yết, định giá, thanh toán…. Không được thực hiện bằng ngoại tệ mà chỉ được
thực hiện bằng VND trừ trường hợp cho phép. Như vậy trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử
dụng đồng Việt Nam. Tuy nhiên việc mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng được phép
để giao dịch vãng lai, giao dịch vốn như nói ở phần trên là hoàn toàn hợp pháp.
1.2.6.8. Tổ chức và quản lý hoạt động của thị trƣờng hối đoái
Các nghiệp vụ giao dịch trên thị trường hối đoái:
- Nghiệp vụ giao dịch giao ngay – mua bán ngoại tệ giao ngay (Spot Operation)
- Nghiệp vụ giao dịch kì hạn – mua bán ngoại tệ có kì hạn (Forward Operation)
- Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi (Swap operation)
- Nghiệp vụ giao dịch quyền chọn (Options operation)
- Nghiệp vụ giao dịch tương lai (Future operation)
1.2.6.9. Lập và báo cáo cán cân thanh toán quốc tế
 Nguyên tắc lập cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế phải phản ảnh toàn bộ giao dịch kinh tế giữa người

cư trú và người không cư trú.
Đơn vị tiền tệ dùng trong cán cân thanh toán quốc tế là Dollar Mỹ.
Các giao dịch kinh tế được phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế phải là số
liệu thống kê tại thời điểm hoạch toán vào sổ sách kế toán.
Các giao dịch kinh tế được tính theo giá thực tế đã thỏa thuận giữa người cư trú
và người không cư trú khi phản ánh vào cán cân thanh toán quốc tế.
 Trách nhiệm lập cán cân thanh toán quốc tế
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm tổng hợp số liệu và lập cán cân
thanh toán quốc tế.
Các bộ, ngành như Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Bộ Tài Chính, Tổng cục Hải quan,
Tổng cục Thống kê… Những bộ, ngành có phát sinh giao dịch kinh tế giữa người cư
trú và người không cư trú đều phải có trách nhiệm phối hợp và cung cấp thông tin, số
liệu cho NHNN, để NHNN lập cán cân thanh toán quốc tế 1 cách kịp thời và chính
xác. Riêng các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng thực hiện báo cáo theo quy
định của NHNN theo chế độ thông tin báo cáo kế toán và thống kê ngân hàng.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

13

1.3. Khái niệm về tý giá hối đoái
1.3.1. Tỷ giá hối đoái là gì?
Tỷ giá hối đoái thể hiện mối quan hệ so sánh tương quan giá trị giữa các đồng
tiền. Đó là hệ số quy đổi một đơn vị tiền tệ của nước này sang những đơn vị tiền tệ của
nước khác.
Khi những điều kiện kinh tế - chính trị thay đổi, tỷ giá hối đoái có thể biến động
một cách đáng kể. Một sự sụt giảm trong giá trị của một đồng tiền được gọi là giảm
giá. Một sự gia tăng trong giá trị của một đồng tiền được gọi là tăng giá.
Để nhận biết được tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nền

kinh tế, người ta thường phân loại tỷ giá theo các tiêu thức sau đây :
 Theo tiêu thức pháp lý:
- Tỷ giá chính thức: tỷ giá này do NHTW của các quốc gia xác định, theo đó
NHTW công bố tỷ giá chính thức hoặc mức trần biên độ dao động trong các phiên
giao dịch theo thời điểm nhất định trong ngày, NHTM được phép kinh doanh tiền tệ sẽ
ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi.
- Tỷ giá thị trường: là tỷ giá hình thành trên thị trường ngoại hối theo cung và cầu
ngoại tệ của khách hàng.
 Theo tiêu thức kỹ thuật, nghiệp vụ:
- Tỷ giá giao ngay (Spot rate): giá thỏa thuận vào ngày giao dịch thực tế áp dụng
trong vòng 2 ngày sau đó.
- Tỷ giá kỳ hạn (Forward rate): giá thỏa thuận vào ngày ký hợp đồng (bằng văn
bản hay bằng miệng) nhưng lại áp dụng cho một ngày giao dịch ngoại tệ nhất định sau
ngày thỏa thuận.
 Theo tiêu thức mức độ ảnh hƣởng của yếu tố trƣợt giá hàng hóa dịch vụ
giữa hai quốc gia:
- Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ giá chưa tính đến những yếu tố trượt giá hàng hóa dịch
vụ giữa hai quốc gia.
- Tỷ giá thực: là tỷ giá đã tính đến yếu tố trượt giá hàng hóa dịch vụ giữa hai quốc
gia với nhau.
 Theo tiêu thức giá trị bình quân của một đồng tiền so với hai hay nhiều đồng
tiền khác:
- Tỷ giá hiệu dụng /trung bình: là tỷ giá phản ánh giá trị bình quân của một đồng
tiền so với hai hay nhiều đồng tiền khác.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

14


- Tỷ giá thực hiệu dụng /trung bình có hiệu chỉnh: là tỷ giá phản ánh giá trị bình
quân của một đồng tiền so với hai hay nhiều đồng tiền khác nhưng sử dụng tỷ giá thực
trong tính toán.
1.3.2. Chế độ quản lý tỷ giá
Chế độ tỷ giá hối đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên
quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ
bản là chế độ tỷ giá "thả nổi" theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá
hối đoái, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái "cố định" theo đó nhà
nước sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền (các)
nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp góc đó.
1.3.2.1. Chế độ tỷ giá cố định
Chế độ tỷ giá cố định là việc một quốc gia thực hiện việc điều hành tỷ giá theo cơ
chế sau: Nhà nước cam kết đảm bảo duy trì tỷ giá tại một mức xác định được công bố
trước hoặc là Nhà nước đảm bảo sự dao động của tỷ giá trong một biên độ nhất định
nào đó nếu như tỷ giá có những biến động. Thông thường, đồng nội tệ sẽ được xác
định tỷ giá hối đoái cố định với một đồng ngoại tệ mạnh (USD, GBP, JPY, EUR,
CAD.....) hoặc với vàng và được giữ cố định trong một khoảng thời gian dài. NHNN
sẽ can thiệp để giữ cho tỷ giá ổn định bằng cách bán ngoại tệ ra khi tỷ giá tăng và mua
ngoại tệ vào khi tỷ giá giảm để kéo giá ngoại tệ lên.
Việc điều hành tỷ giá trong chế độ tỷ giá cố định rất đơn giản và trong chế độ
này thì tỷ giá khá ổn định. Điều này giúp ổn định kinh tế vĩ mô, hoạt động kinh doanh
và đầu tư nước ngoài được thúc đẩy, tăng tính hợp tác trong thương mại giữa các quốc
gia và tạo tính kỷ luật cho các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, bù lại trong thời kỳ
khủng hoảng, cán cân thanh toán bị thâm hụt nghiêm trọng thì sức ép về tỷ giá lên
NHNN lại tăng lên gấp bội so với các chế độ tỷ giá khác. Việc giữ tỷ giá cố định lúc
này sẽ tạo ra sự chênh lênh giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa, làm sai lệch các tính
toán, tạo ra tỷ giá chợ đen và NHNN phải có một lượng ngoại tế đủ lớn để duy trì tỷ
giá và phải thương xuyên giám sát sự biến động của tỷ giá. Và trong trường hợp nếu
NHNN không thể chống đỡ được thì nó buộc phải tuyên bố phá giá tiền tệ thả nổi tỷ

giá để cho tỷ giá được xác lập theo các quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và
mọi cam kết của nó trước đây đều không có hiệu lực.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

15

1.3.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi
Chế độ tỷ giá thả nổi, hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt, là chế độ tỷ giá hối
đoái mà giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối do
quan hệ cung cầu của các đồng tiền xác định. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi
được gọi là một đồng tiền thả nổi. Trong chế độ này thì tỷ giá được xác định hoàn toàn
dựa trên các yếu tố thị trường và đặc biệt trong trường hợp thả nổi hoàn toàn thì
NHNN hoàn toàn không tham gia vào việc can thiệp tỷ giá ngay cả với tư cách là một
nhân vật tham gia vào thị trưòng một cách vô tư nhất.
Tuy nhiên trong chế độ tỷ giá thả nổi trên thị trường hối đoái các nước còn phân
biệt tỷ giá thị trường và tỷ giá chính thức. Tỷ giá thị trường là tỷ giá mua bán ngoại tệ
của các NHTM, sở giao dịch chứng khoán. Tỷ giá thị trường lên xuống xung quanh tỷ
giá chính thức theo quy luật cung cầu, các loại hình giao dịch, phương thức giao dịch,
các phương tiện giao dịch và thanh toán. Tỷ giá chính thức là tỷ giá do NHNN công
bố, gần sát với tỷ giá thị trường nhưng thay đổi chậm hơn tỷ giá thị trường.
Đối với chế độ tỷ giá thả nổi chúng ta thấy được một số ưu điểm là chế độ tỷ giá
thả nổi tạo ra mức độ độc lập tiền tệ cao hơn, duy trì sự ổn định chung của thế giới,
ngăn cản sự lây lan của các “căn bệnh” kinh tế (lạm phát, thất nghiệp…), tạo ra cơ chế
điều chỉnh tự động đối với các cú sốc thương mại và tránh được sự tấn công mang tính
chất đầu cơ, giảm bớt áp lực cho NHNN, tỷ giá trong chế độ này phản ánh đúng các
tín hiệu của thị trường thương mại quốc tế cũng như phản ánh sát tương quan về giá trị
đồng tiền của quốc gia, từ đó nâng cao hiệu quả của thị trường tài chính. Tuy nhiên nó
có một số nhược điểm như tỷ giá liên tục biến đổi và rất khó có thể kiểm soát được, rủi

ro trong kinh doanh về tỷ giá tăng, mức độ ổn định của giá trị đồng tiền không cao
khiến cho các hoạt động đầu tư không phát triển, gây khó khăn cho các MNC
(Multinational Corporation – Công ty đa quốc gia) trong việc tính toán và quản lý rủi
ro tỷ giá, việc thực hiện các chính sách điều hành nền kinh tế có liên quan tới tỷ giá
gặp nhiều trở ngại, làm trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế của một quốc gia.
Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do được cho là phương thức hữu hiệu cho
sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế chứng minh rằng, càng thả nổi tỷ giá
thì sự phát triển kinh tế càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến động của tỷ giá rất phức tạp,
chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội... đặc biệt là nạn đầu
cơ. Trên thực tế thì lại không có thị trường thuần tuý nên không thể có một chế độ tỷ
giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối làm cho tỷ


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

16

giá hối đoái có những diễn biến thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý
ngày càng được nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các nước đang phát triển.
1.3.2.3. Chế độ tỷ giá thả nối có quản lý
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. Ở
đó, tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp
khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép.
Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ:
- Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ
can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó.
- Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức
có vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng
thời kỳ.
- Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá

mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp.
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý trừ Mỹ, Nhật, Canada… Các nước trong khối cộng đồng chung Châu Âu
(EEC) còn thực hiện chế độ thả nổi tập thể các đồng tiền của họ (thời kì đồng EUR
chưa lưu hành chính thức) đối với các đồng tiền ngoài khối như USD, JPY,… nhưng
vẫn duy trì tỷ giá cố định đối với các đồng tiền trong khối. Chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý tuy vẫn do cung cầu quyết định, nhưng khi nội tệ bị lên giá hay hạ giá quá
mạnh thì Chính phủ sẽ can thiệp để nội tệ không bị hạ giá quá thấp hay lên giá quá
cao. Đây thực chất là hình thức kết hợp của chế độ cố định và chế độ thả nổi hoàn toàn
hoặc có thể gọi đây là một chế độ điều hành tỷ giá trung gian. Nó vẫn duy trì vai trò
của NHNN trong điều hành tỷ giá nhưng chỉ ở một mức độ vừa phải chứ không quá
nhiều như trong chế độ cố định, NHNN chỉ thực hiện can thiệp vào tỷ giá khi mà nó
cảm thấy cần thiết chứ nó không bị rằng buộc trách nhiệm neo giữ tỷ giá trong giới
hạn biên độ như trong chế độ cố định. Cũng tương tự chế độ này không như chế độ thả
nổi hoàn toàn mà vai trò của Nhà nước ở đây giúp cho tỷ giá không quá biến động tạo
ra sự ổn định ở một mức độ nào đó trong quan hệ với việc không can thiệp quá nhiều
vào vấn đề tỷ giá. Trong chế độ này thì NHNN can thiệp vào tỷ giá bằng cách tham gia
thị trường như một nhân vật của thị trường, tuy nhiên cũng tuỳ mức độ của vấn đề tỷ
giá mà NHNN có thể có những mệnh lệnh chính sách áp đặt để thực hiện các quyết
định điều hành của mình.


Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối

17

Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đem lại khá nhiều lợi ích là cho phép khắc phục
các nhược điểm của hai chính sách trên tuy nhiên việc áp dụng chính sách này rất dễ
dẫn đến việc thiên về chính sách tỷ giá cố định bởi vì các quyết định điều hành về tỷ
giá thường xuyên bị áp lực từ các quyết định của các chính sách khác vì thế cho nên

rất dễ xảy ra việc quá lạm dụng vai trò của Nhà nước trong khi thực hiện chính sách
này. Cơ chế can thiệp của NHNN trong trường hợp cần thiết cũng giống như trong chế
độ tỷ giá cố định tuy nhiên khi xảy ra khủng hoảng thì áp lực lên NHNN trong điều
hành tỷ giá không lớn như trong chế độ tỷ giá cố định bởi vì khi đó tỷ giá sẽ được
NHNN để cho các yếu tố thị trường tự điều chỉnh và tác hại trong việc này là rất nhỏ
so với trường hợp neo tỷ giá cố định.
Như vậy ta thấy trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý thì việc điều hành tỷ giá
trở nên có hiệu quả hơn đồng thời nó vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cũng như tính
bám sát tín hiệu thị trường của tỷ giá ở một mức độ nhất định, có thể chấp nhận được.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 trình bày những kiến thức cơ bản về ngoại hối nói chung và quản lý
ngoại hối nói riêng; trình bày những khái niệm cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối,
phân loại các chính sách ngoại hối; nêu lên được vai trò quan trọng của NHTW đối với
trong hoạt động quản lý ngoại hối, các nghiệp vụ của NHTW và các yếu tố tác động
đến chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, chương 1 cũng đề cập đến những khái niệm về tỷ giá hối đoái, các
loại tỷ giá hối đoái và các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau. Sự thay đổi của tỷ giá hối
đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách khi đưa ra các
quyết định về quàn lý ngoại hối
Trên đây là cơ sở lý luận về ngoại hối và chính sách quản lý ngoại hối. Chương
2 chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn Việt Nam đã vận dụng những lý luận cơ sở đó vào thực
tiễn như thế nào thông qua các chính sách ngoại hối của từng thời kỳ.


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

18

CHƢƠNG II


THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
QUA CÁC THỜI KỲ Ở VIỆT NAM
2.1. Chính sách quản lý ngoại hối qua các thời kỳ
2.1.1. Chính sách quản lý ngoại hối thời kỳ trƣớc năm 1988
2.1.1.1. Những điểm cơ bản trong chính sách quản lý ngoại hối
- Chính phủ độc quyền kinh doanh ngoại hối. Mọi hoạt động thanh toán đối ngoại
và liên quan đến ngoại hối được thực hiện thông qua Ngân hàng ngoại thương
(NHNT) là đơn vị đại diện của NHNN trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
- Khuyến khích ngoại tệ chuyển từ nước ngoài chuyển vào, hạn chế tối đa việc
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
- Chính sách về kiều hối giai đoạn này mang tính chất của nền kinh tế tập trung và
vẫn còn nhiều hạn chế nên chưa thực sự khuyến khích kiều hối chuyển về. Ngoài việc
cho phép người thụ hưởng được gửi tiết kiệm với lãi suất ưu tiên và được cấp giấy
chứng nhận để mua hàng taị các cửa hàng miễn thuế, chính sách kiều hối quy định
người thụ hưởng được phép giữ ngoại tệ và phải bán cho NHNT với tỷ giá cao (tỷ giá
thưởng) và chỉ được gửi về dưới 6 loại ngoại tệ chính gồm: FRF, CHF, DM, GBP,
HKD, USD. Sau năm 1982, chính sách kiều hối được nới lỏng hơn trước như bắt đầu
xoá bỏ việc mua hàng tại cửa hàng miễn thuế và người thụ hưởng phải nộp phí được
phép kí gửi số ngoại tệ chuyển về với lãi suất được trả bằng ngoại tệ, được phép
chuyển vốn, lãi ra nước ngoài hoặc quy đổi VND theo tỷ giá có thưởng nhưng lại hạn
chế khối lượng rút tiền từng lần và loại tiền gửi về.
- Cơ chế tỷ giá cố định được áp dụng trong thời kỳ này để điều hành chính sách
tiền tệ. Tỷ giá được xác định theo kế hoạch phát triển kinh tế của Chính phủ mà không
dựa vào quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Do đó không phản ánh đúng sức
mua của đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác trong thời gian này như Rúp Liên Xô
(RUR), USD... Tỷ giá không được sử dụng như công cụ điều tiết vĩ mô một cách có
hiệu quả. Đồng Việt Nam được đánh giá cao hơn giá trị thực của chúng. Các doanh
nghiệp xuất khẩu phải bán lại toàn bộ số ngoại tệ thu được; khi có nhu cầu được phép
của cấp có thẩm quyền thì doanh nghiệp được các NHTM cung ứng ngoại tệ. Trong

điều kiện này, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất thụ động trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, làm cho hoạt động ngoại thương trì trệ kém phát triển.


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

19

- Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh ngoại hối của các tổ chức kinh tế, cá nhân và
nghiêm cấm việc lưu thông, tàng trữ ngoại hối dưới mọi hình thức. Các tổ chức kinh
tế, các tổ chức xã hội có nguồn thu ngoại tệ phải bán lại 100% số ngoại tệ thu được.
2.1.1.2. Tác động của chính sách quản lý ngoại hối đối với nền kinh tế
 Đối với hoạt động XNK
Để thực hiện chính sách độc quyền về ngoại thương, Nhà nước chỉ cho phép một
số ít các doanh nghiệp quốc doanh được trực tiếp tham gia hoạt động XNK với các
điều kiện phải đáp ứng các yêu cầu về vốn, có giấy phép kinh doanh – hoạt động
XNK... Ngoài ra, Nhà nước cũng kiểm soát chặt chẽ các danh mục cũng như giá trị
hàng hoá trao đổi mua bán trên thị trường quốc tế. Nhiều mặt hàng còn bị quản lý bằng
Quota, giấy phép và hạn ngạch... Với sự kiểm soát chặt chẽ về ngoại thương nên trong
giai đoạn này, kim ngạch XNK tăng không đáng kể và cán cân thương mại ngày càng
bội chi.
Thực trạng thâm hụt của cán cân thương mại là một phần hậu quả của sự bất hợp
lý của cơ chế tỷ giá; đồng Việt Nam bị đánh giá cao đã khuyến khích NK và cản trở
XK. Giá trị XK đã không bù đắp được nhu cầu NK, cán cân thương mại thâm hụt dẫn
đến dự trữ ngoại tệ bị giảm nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, Nhà nước lại tăng cường
kiểm soát ngoại hối, bảo hộ mậu dịch, hạn chế NK... Điều này đã làm cho nền sản xuất
trong nước lâm vào tình trạng đình đốn, hoạt động cầm chừng vì thiếu vật tư, nguyên
liệu.
Đối với hoạt động XK, mặc dù đã được Nhà nước bù lỗ thông qua tỷ giá kết toán
nội bộ, song các DN sản xuất hàng XK vẫn không bù đắp được chi phí làm hạn chế

kim ngạch XK. Đồng thời, số lượng các DN được trực tiếp tham gia XNK ít nên khó
khăn trong việc tiếp cận thông tin giá cả và mặt hàng trên thị trường quốc tế, làm giảm
sự nhạy bén, năng động trong hoạt động thương mại quốc tế. Hậu quả là các DN XNK
rất thụ động, hoạt động theo kế hoạch và trông chờ vào Nhà nước bù lỗ.
 Đối với hoạt động vay trả nợ nƣớc ngoài
Giai đoạn trước đổi mới, nền kinh tế bị bao vây bởi chính sách cấm vận của Mĩ,
nhưng Việt Nam vẫn nhận được nhiều nguồn viện trợ, nguồn vay từ Chính phủ các
nước Liên Xô, Đông Âu và một số nước tư bản, các tổ chức quốc tế. Nguồn vốn nước
ngoài là một trong những nguồn cung ngoại tệ chủ yếu cho nền kinh tế trong những
năm sau chiến tranh. Tuy nhiên những biến động bất lợi về tình hình chính trị trong
khu vực của quốc tế, nguồn viện trợ nói chung đã có nhiều thay đổi. Các nước thuộc tổ
chức quốc tế OECD và các nước cung ứng ODA chủ yếu như Nhật Bản, CHLB Đức,


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

20

Italia, Anh ngưng tài trợ vốn cho Việt Nam. Nhìn chung ở giai đoạn này, Việt Nam
thực sự khó khăn trong việc thu hút và kêu gọi các nguồn vốn để ổn định phát triển
kinh tế.
Bên cạnh đó, tài khoản vãng lai thường xuyên thâm hụt đã làm cho Việt Nam
mất khả năng trả nợ nước ngoài, làm giảm uy tín đối với các tổ chức tài chính quốc tế.
Cụ thể là IMF đình chỉ cho Việt Nam vay vốn, sau đó là các tổ chức tài chính quốc tế
khác như WB, ADB...đã rất dè dặt trong quan hệ tài chính với Việt Nam. Đồng thời,
các tổ chức kinh tế, tư nhân cũng ngần ngại trong việc góp vốn đầu tư hoặc cung cấp
các khoản tín dụng trả chậm cho các DN trong nước. Giai đoạn này nguồn cung ngoại
tệ từ cán cân vốn thật sự hạn chế.
2.1.2. Chính sách quản lý ngoại hối thời kỳ 1988-1998
Với yêu cầu cấp thiết của tình hình mới khi nền kinh tế đang chuyển đổi nhanh

sang cơ chế thị trường, các hoạt động đối ngoại trở nên sôi động hơn, Nghị định số
161/HĐBT ban hành Điều lệ QLNH của nước CHXHCN Việt Nam đã ra đời. Nghị
định 161 là văn bản nền tảng trong chính sách QLNH và tỷ giá của Việt Nam trong
giai đoạn 1988-1998 khi quá độ từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường. Điều lệ QLNH là văn bản pháp lý có tính chất định hướng cho hoạt động ngoại
hối trong thời kỳ với nguyên tắc từng bước nới lỏng QLNH, tạo điều kiện thúc đẩy
hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế.
2.1.2.1. Quản lý các giao dịch vãng lai
 Đối với nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu
Trong giai đoạn đầu đổi mới, tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường luôn
căng thẳng, vì vậy việc quản lý ngoại tệ từ nguồn thu XK luôn chặt chẽ:
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ phải bán ngoại tệ thu được từ XK cho Nhà nước (kết
hối). Đây là nội dung được nhấn mạnh trong tất cả các văn bản, bổ sung, tăng cường
về QLNH trong thời kỳ này.
- Quy định biện pháp cân đối ngoại tệ để khuyến khích các tổ chức bán ngoại tệ
cho ngân hàng. Nội dung của biện pháp cân đối ngoại tệ, đó là: NHNN quy định
nguyên tắc về quyền được mua số lượng ngoại tệ tối thiểu bằng số ngoại tệ tổ chức đã
bán cho ngân hàng. Quy định về trách nhiệm phải bán số ngoại tệ thu được từ XK dịch
vụ tối thiểu bằng mức ngoại tệ tổ chức đã mua của ngân hàng để làm dịch vụ XK.
- Bắt buộc phải bán số ngoại tệ các đơn vị chưa dùng đến cho ngân hàng và các
TCTD trên địa bàn trên cơ sở tính toán nhu cầu ngoại tệ trong quý tới của TCKT để
giải quyết tình trạng khan hiếm ngoại tệ.


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

21

 Việc mua ngoại tệ phục vụ NK hàng hoá, dịch vụ
Các tổ chức có ngoại tệ trên tài khoản được phép sử dụng để thanh toán hàng hoá

NK. Trong trường hợp có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán NK, tổ chức đó phải
được Thủ trưởng Bộ, ngành, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố xác nhận thì mới xem xét
bán số ngoại tệ cần thiết phục vụ cho việc NK trên cơ sở các chứng từ phù hợp.
 Tình hình hoạt động chi trả kiều hối
Từ năm 1988, chính sách kiều hối được thông thoáng hơn trước cho phép nhận
tất cả các loại ngoại tệ, được phép gửi tiết kiệm bằng ngoại và xoá bỏ quy định hạn
mức rút tiền từng lần. Người nhập cảnh được mang ngoại tệ vào không hạn chế sau khi
khai báo hải quan. Ngoài ra, NHNN quy định việc huy động và chi trả kiều hối cho các
ngân hàng được uỷ quyền đảm nhận. Tổ chức trong và ngoài nước có thể làm đại lý
cho các ngân hàng được uỷ quyền.
Nhờ đổi mới chính sách kiều hối, lượng kiều hối chuyển về giai đoạn 1991-1997
tăng hơn giai đoạn trước, góp phần đáp ứng nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Đặc biệt, sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ năm 1995, NHNN không hạn
chế khối lượng, số lần gửi và ngoại tệ gửi của kiều hối. Người thụ hưởng nhận bằng
VND theo tỷ giá của ngân hàng (không nhận ngoại tệ bằng tiền mặt) và được phép gửi
ngoại tệ tiết kiệm tại ngân hàng, phải chịu thuế thu nhập không thường xuyên. Việc
không cho phép nhận kiều hối bằng ngoại tệ tiền mặt hạn chế việc phát triển thị trường
tự do và mức độ đôla hoá trong thời kỳ này. Tuy nhiên, người thụ hưởng đã rút tiền
trước hạn từ các tài khoản tiền gửi ngoại tệ để bán trên thị trường tự do do tỷ giá trên
thị trường này cao hơn. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển tiền lậu vẫn xảy ra với quy mô
lớn.
Bảng 2.1: Lƣợng kiều hối từ năm 1991 đến 1997

Kiều hối từ năm 1991 đến 1997
469

500

400
400


300

249.5

TRIỆU USD

200
100

285

136.6

141

1992

1993

35

0
1991

1994

1995

1996


1997

Nguồn: Wikipedia, sbv


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

22

2.1.2.2. Quản lý đối với các giao dịch vốn
Để có thể chủ động trong việc vay vốn nước ngoài, các DN được phép kí kết vay
nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả. Các DN trước khi vay vốn nước ngoài
phải xin phép NHNN. Văn bản chấp thuận khoản vay này là cơ sở pháp lý để các
NHTM thực hiện việc rút vốn trả nợ nước ngoài cho các DN. Các DN có nguồn thu
ngoại tệ từ nguồn vay vốn phải chuyển về nước vào tài khoản ngoại tệ mở tại ngân
hàng. Sau khi có chấp thuận vay vốn nước ngoài, DN mới được kí hợp đồng và thực
hiện rút vốn khoản vay và trả nợ khoản vay khi đến hạn.
Trước năm 1999, DN khi vay vốn nước ngoài phải đáp ứng điều kiện lãi suất vay
ngắn hạn nhỏ hơn 7.5% và lãi suất vay trung dài hạn không lớn hơn lãi suất
LIBOR+2.5% và DN chỉ được mở một tài khoản ngoại tệ trong nước tại ngân hàng
được phép để tiếp nhận vốn vay và trả nợ nước ngoài. Các trường hợp mở tài khoản ở
nước ngoài để tiếp nhận và chi trả vốn vay phải được NHNN cho phép trong trường
hợp đặc biệt.
2.1.2.3. Kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ
Trước năm 1991, cá nhân không được phép sở hữu, mở tài khoản gửi tiết kiệm
ngoại tệ tại ngân hàng. Từ năm 1991, với mục tiêu huy động ngoại tệ trôi nổi vào ngân
hàng, NHNN đã cho phép cá nhân gửi ngoại tệ vào ngân hàng không kể nguồn gốc.
Theo đó, ngoại tệ không kể nguồn gốc đều có thể được sử dụng vào các mục đích như
bán cho NHNT hoặc ngân hàng được uỷ quyền; mua hàng tại các cửa hàng được phép

thu ngoai tệ hoặc chi trả dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ;
được phép gửi vào ngân hàng dưới dạng tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và được
hưởng lãi bằng ngoại tệ; ngoại tệ gửi tại ngân hàng được sử dụng để thanh toán hoặc
chuyển nhượng cho các tổ chức, cá nhân có tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng.
Đặc biệt, năm 1995, NHNN cho phép dân cư được gửi tiết kiệm và rút ra bằng
ngoại tệ tiền mặt hay chuyển đổi ra VND. Điều này góp phần tăng nguồn cung ngoại
tệ cho hệ thống ngân hàng nhưng cũng làm nảy sinh vấn đề đôla hoá ở Việt Nam.
Những biến đổi về tỷ giá và việc điều hành lãi suất VND và ngoại tệ chưa được phối
hợp nhịp nhàng, tính hấp dẫn của ngoại tệ cao, sử dụng tiền gửi ngoại tệ của người cư
trú tăng mạnh, vượt mức độ cho phép theo tiêu chuẩn của IMF đã ảnh hưởng không
nhỏ đến sự phát triển kinh tế và việc điều hành chính sách tiền tệ.
Để từng bước hạn chế việc sử dụng rộng rãi ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam,
NHNN chỉ cho phép một số đối tượng hoạt động trong các lĩnh vực như bán hàng
miễn thuế tại các hải cảng, sân bay; các tổ chức làm dịch vụ trong các lĩnh vực như


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

23

hàng không quốc tế, hàng hải quốc tế, cung ứng tàu biển, khách sạn quốc tế... được
phép thu ngoại tệ. tệ. Quy định số lượng ngoại tệ phải bán cho ngân hàng được uỷ
quyền tối thiểu 50%. Các tổ chức không thuộc đối tượng được phép phải bán hàng thu
VND. Nghiêm cấm tổ chức (trừ các ngân hàng và các TCTD được phép kinh doanh
ngoại hối) không được thanh toán, mua bán cho vay hoặc chuyển nhượng trực tiếp cho
nhau bằng ngoại tệ. Quy định này đã giúp cho ngân hàng kiểm soát tốt các giao dịch
ngoại tệ và điều hoà nguồn ngoại tệ cho các mục đích cần thiết trong tình hình khan
hiếm ngoại tệ trên thị trường.
2.1.2.4. Quản lý kim loại quý, đá quý
 Về việc xuất nhập khẩu vàng

Công dân nước ngoài và công dân Việt Nam được mang, chuyển vào Việt Nam
kim loại quý, đá quý với số lượng không hạn chế nhưng phải khai báo hải quan. Việc
mang, chuyển kim loại quý, đá quý ra nước ngoài phải có giấy phép của NHNN và
khai báo hải quan cửa khẩu. Trường hợp mang tư trang với khối lượng không hạn chế
không phải có giấy phép của NHNN.
Các tổ chức kinh tế có nhu cầu nhập khẩu kim loại quý, đá quý để phục vụ sản
xuất kinh doanh phải được NHNN cho phép.
 Về việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng
Để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh vàng và góp phần ổn định thị
trường vàng, hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ, ngày 24/9/1993 các văn bản
quy định về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực kinh doanh vàng đã mở rộng hơn rất
nhiều. Cụ thể Nhà nước đã công nhận quyền sở hữu hợp pháp về vàng của mọi tổ
chức, cá nhân; quy định các điều kiện cụ thể để được kinh doanh xuất nhập khẩu vàng
bạc, đá quý và đồng thời cũng quy định trách nhiệm của doanh nghiệp và Nhà nước
trong lĩnh vực quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Phân định rõ chức năng, quyền hạn
của các cơ quan liên quan trong việc xử lý những hành vi vi phạm QLNH.
2.1.2.5. Tỷ giá hối đoái
Sau khi triển khai Pháp lệnh ngân hàng với sự hình thành hệ thống ngân hàng hai
cấp, NHNN trực tiếp ấn định tỷ giá chính thức giữa VND và USD. Tỷ giá vẫn được ấn
định theo ý chí chủ quan, không phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị
trường nhưng hầu như được điều chỉnh liên tục theo sự biến động của thị trường tự do.
Tuy vậy, tỷ giá trên thị trường tự do thường cao hơn tỷ giá chính thức nên hệ thống
ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hút các luồng ngoại tệ vào ngân hàng và thực
tế vẫn tồn tại thị trường tự do sôi động, gây khó khăn cho công tác QLNH. Mức độ


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

24


biến động của tỷ giá không phù hợp với mức độ mất giá của VND (năm 1989 tỷ giá
tăng khoảng trên 50% trong khi lạm phát tăng khoảng 34%). Để phù hợp với điều kiện
thị trường, đồng thời để có đủ năng lực tài chính trong tay giúp NHNN sẵn sàng can
thiệp, ổn định thị trường, tháng 4/1991 Chính phủ đã thành lập Quỹ điều hoà ngoại tệ
giao cho NHNN.
Đặc biệt, để tăng cường quản lý, điều hành thị trường ngoại tệ, NHNN đã thành
lập hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội (11/1991) và Thành phố Hồ Chí Minh
(8/1991). Sự ra đời của hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ đánh dấu bước chuyển biến
lớn trong cơ chế QLNH, tỷ giá đã phản ánh phần nào khách quan cung cầu trên thị
trường. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các Trung tâm còn nhiều hạn chế, đồngViệt
Nam liên tục mất giá và NHNN đã phải can thiệp bằng việc bán ngoại tệ để cân bằng
thị trường đồng thời điều chỉnh tỷ giá chính thức.
Năm 1993, NHNN đã dùng tỷ giá trần và tỷ giá sàn để kiểm soát hoạt động của
các Trung tâm giao dịch ngoại tệ. NHNN quy định tỷ giá chính thức và cho phép các
NHTM xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ nhất định. Đồng thời chuyển Trung
tâm giao dịch ngoại tệ thành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. NHNN khi cần thiết
thì sử dụng ngoại tệ từ Quỹ điều hoà ngoại tệ để can thiệp. Sự ra đời của thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng đã góp phần tích cực điều hoà cung cầu ngoại tệ và duy trì ổn
định tỷ giá. Ngoài ra phải kể đến các nhân tố quan trọng khác như tốc độ tăng trưởng
XK cao, lượng kiều hối chuyển về và FDI vào Việt Nam ngày càng tăng góp phần
đáng kể làm tăng nguồn cung ngoại tệ và làm cho cán cân thanh toán được cải thiện
đáng kể.
Thị trường thời điểm này rất nhạy cảm với các biến động về kinh tế trong khu
vực và thế giới. Thời điểm giữa năm 1997, do tác động của cuộc khủng hoảng Tài
chính Đông Nam Á, XK vào các thị trường này giảm sút, FDI từ các nước bị khủng
hoảng cũng bị ảnh hưởng và thị trường ngoại hối của Việt Nam rơi vào tình trạng mất
cân đối về cung cầu ngoại tệ, đồng Việt Nam liên tục mất giá. Trước tình hình này,
ngày 16/2/1998, NHNN buộc phải phá giá đồng Việt Nam từ 11.175 VND/USD lên
11.800 VND/USD và đồng thời tăng biên độ mua bán của các NHTM từ +/-5% lên +/10%. Sau quyết định của NHNN, tỷ giá của các NHTM lập tức được điều chỉnh lên
kịch trần tăng 10% so với tỷ giá chính thức. Tuy nhiên, việc điều chỉnh này cũng

không làm giảm áp lực về nhu cầu ngoại tệ trên thị trường. Ngày 7/8/1998, NHNN tiếp
tục điều chỉnh tỷ giá từ 11.815 VND/USD lên 12.998 VND/USD và giảm biên độ mua
bán từ +/-10% xuống còn +/-7%; đồng thời NHNN chỉ công bố tỷ giá VND/USD, tỷ


Chương 2: Thực trạng chính sách QLNH qua các thời kỳ ở Việt Nam

25

giá VND so với các ngoại tệ khác giao cho NHTM ấn định dựa vào tỷ giá VND/USD
và tỷ giá các ngoại tệ này so với USD trên thị trường quốc tế, cho phép các NHTM tự
quyết định mức chênh lệch tỷ giá mua bán. Các quyết định trên đã phần nào khắc phục
hậu quả của chế độ tỷ giá cố định.
2.1.3. Chính sách quản lý ngoại hối từ năm 1998 đến nay
Giai đoạn này đánh dấu sự hội nhập toàn diện của nền kinh tế Việt Nam với nền
kinh tế thế giới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhà nước đã ban hành các chính sách
về ngoại hối nhằm xóa bỏ sự khác biệt giữa nước ta và các nước trên thế giới. Gần đây
nhất là Pháp lệnh ngoại hối 28/2005/PL-UBTVQH11 và các Thông tư hướng dẫn đã
đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế QLNH phù hợp với
tiêu chí chung theo thông lệ quốc tế.
2.1.3.1. Quản lý đối với các giao dịch vãng lai
 Chính sách kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ từ XK nói riêng và nguồn thu
vãng lai nói chung
Các đối tượng là người cư trú thuộc các tổ chức kinh tế, trừ doanh nghiệp FDI,
phải bán 80% và các tổ chức phi kinh tế phải bán 100% ngoại tệ từ nguồn thu vãng lai
cho ngân hàng trong vòng 15 ngày. Các nguồn thu ngoại tệ không phải là nguồn thu
vãng lai thì không phải bán. Để tránh tình trạng các DN tìm cách lách biến nguồn thu
vãng lai thành nguồn thu khác nhằm tránh ngoại tệ cho NHTM, cuối năm 1998, số
ngày phải bán ngoại tệ kể từ khi có nguồn thu giảm xuống còn 3 ngày. Điều này đã
làm giảm đáng kể việc ghim giữ ngoại tệ của các tổ chức, làm giảm sức ép lên tỷ giá

và cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã bớt căng thẳng.
Để thực hiện chủ trương hội nhập nền kinh tế thế giới, với xu hướng tự do hoá
cán cân vãng lai, chính sách mua bán ngoại tệ là công cụ hành chính bắt buộc chỉ nên
áp dụng tạm thời và đã có nhiều thay đổi từ năm 1999. Cụ thể, tỷ lệ giảm dần từ mức
80% đối với các tổ chức kinh tế năm 1998 xuống còn 50% năm 1999, 40% năm 2001,
30% năm 2002 và 0% năm 2003. Sự thay đổi trong chính sách kết hối năm 2003 còn
thể hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Quy định này áp dụng với cả
các DN FDI khi các DN này được quyền mua bán ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng nếu
có nhu cầu, trong khi trước đây các DN này không phải thực hiện chế độ kết hối mà
phải tự cân đối thu chi ngoại tệ, không được mua ngoại tệ tại ngân hàng.
Kể từ khi mở cửa nền kinh tế, các giao dịch ngoại thương của Việt Nam ngày
càng được mở rộng và đa dạng hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Hàng năm Việt Nam có một lượng lớn ngoại tệ thu từ xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, thu


×