Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phân tích cơ sở pháp lýcho hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.96 KB, 20 trang )

1

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................................1

Bảo lãnh ngân hàng đã hình thành và phát triển từ rất lâu trên thế giới nhưng ở
Việt Nam, những năm gần đây, loại hình dịch vụ này nói riêng cùng với hoạt động
ngân hàng nói chung mới đang trên đà phát triển. Hiện nay, bảo lãnh ngân hàng đã
phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, là loại dịch vụ kinh doanh có nhiều tác động
tích cực trong việc thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch về dự thầu, thực
hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm… Bảo lãnh ngân hành tỏ ra là công
cụ hữu hiệu giúp các nhà kinh doanh tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng lớn hoặc
có cơ hội nhập khẩu các hàng hóa dịch vụ từ nước ngoài một cách dễ dàng và
thuận lợi. Hơn thế nữa, nhờ có bảo lãnh ngân hàng mà các bên giao dịch có thể
giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh, từ đó xúc tiến hàng loạt các quan hệ hợp đồng
trong nền kinh tế mở hiện nay.
Xuất phát từ sự phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng cũng như vai trò
tích cực của nó đối với nền kinh tế, em xin chọn đề bài “Phân tích cơ sở pháp lý
cho hoạt động bảo lãnh ngân hàng và thực trạng hoạt động bảo lãnh ngân hàng
tại tổ chức tín dụng” là đề tài nghiên cứu của bài tập này.

I. CƠ SỞ PHÁP LÍ
1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, là việc
người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực


2

hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu đến hạn mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. 1 Khi hoạt


động bảo lãnh mang tính chuyên nghiệp, nói cách khác là được thực hiện bởi một
tổ chức chuyên nghiệp như TCTD thì được gọi là bảo lãnh ngân hàng.
Cụ thể, pháp luật ngân hàng đưa ra định nghĩa như sau: “Bảo lãnh ngân hàng
là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh
về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết;
khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận”2.
Như vậy, ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng thừa nhận nghiệp vụ bảo lãnh
ngân hàng là một hình thức cấp tín dụng của TCTD. Sở dĩ có thể coi như vậy bởi
sau khi TCTD thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng được bảo lãnh, khách hàng
phải nhận nợ với TCTD và phải hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay.
2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Bên cạnh những đặc điểm của bảo lãnh nói chung, bảo lãnh ngân hàng cũng có
những đặc điểm riêng thể hiện tính đặc thù của nó:
Thứ nhất, bảo lãnh ngân hàng có bản chất là loại giao dịch thương mại đặc
thù. Tính chất thương mại thể hiện ở chỗ hoạt động này do TCTD, với tư cách là
thương nhân, thực hiện nhằm mục tiêu thu lợi nhuận, do đó nó mang tính chuyên
nghiệp như một nghiệp vụ kinh doanh.
Thứ hai, TCTD thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng với tư cách là một
nhà kinh doanh chuyên nghiệp. Bởi tính chuyên nghiệp đó mà các quyền và
nghĩa vụ của TCTD trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng có sự khác biệt so với một
người bảo lãnh không chuyên trong quan hệ nghĩa vụ dân sự nói chung. Ví dụ,
người bảo lãnh trong bảo lãnh dân sự thông thường có quyền xin tòa án hủy bỏ hợp
đồng bảo lãnh bằng cách đưa ra chứng cứ về việc mình không biết khả năng hoàn
trả của người được bảo lãnh như thế nào. Trong bảo lãnh ngân hàng, TCTD không
1
2

Điều 361 BLDS 2005
Điều 4 khoản 18 Luật các tổ chức tín dụng 2010



3

thể hủy bỏ hợp đồng bảo lãnh bằng cách đó vì với các nghiệp vụ chuyên môn như
thẩm định, điều tra họ buộc phải nắm được tình hình tài chính của khách hàng
trước khi quyết định kí kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh.
Thứ ba, giao dịch bảo lãnh ngân hàng có kết quả là tạo lập hai hợp đồng:
hợp đồng dịch vụ bảo lãnh (giữa TCTD và khách hàng) và cam kết bảo lãnh
(giữa TCTD và người có quyền) . Hai hợp đồng này có mối quan hệ nhân quả với
nhau, theo đó hợp đồng dịch vụ bảo lãnh là căn cứ để hình thành cam kết bảo lãnh,
còn cam kết bảo lãnh là bằng chứng về việc thực hiện hợp đồng dịch vụ bảo lãnh.
Tuy nhiên chúng vẫn hoàn toàn độc lập với nhau về phương diện chủ thể cũng như
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Tính độc lập thể hiện ở chỗ hợp đồng này vô
hiệu không thể kéo theo hợp đồng kia vô hiệu. Đồng thời, việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng này không bị phụ thuộc vào việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kia.
Thứ tư, giao dịch bảo lãnh ngân hàng là giao dịch “kép” bởi như đã nói ở
trên khi giao dịch, TCTD phải tiến hành kí kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh trước rồi
sau đó phát hành cam kết bảo lãnh. Hai hành vi này tuy đều do một chủ thể là
TCTD thực hiện nhưng vẫn là hai hành vi độc lập.
Thứ năm, bảo lãnh ngân hàng là giao dịch được xác lập và thực hiện dựa
trên chứng từ. Tính chất chứng từ thể hiện ở chỗ khi TCTD phát hành cam kết bảo
lãnh hay khi thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh, cũng như khi người nhận bảo
lãnh thực hiện quyền yêu cầu, các chủ thể đều bắt buộc phải thiết lập bằng văn bản.
Những văn bản đó sau này là bằng chứng chứng minh quyền,nghĩa vụ của các bên,
tạo cơ sở pháp lí để các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với bên kia.
Thứ sáu, bảo lãnh ngân hàng mang tính vô điều kiện, độc lập. Tính chất vô
điều kiện của bảo lãnh ngân hàng thể hiện ở nguyên tắc TCTD bảo lãnh phải thực
hiện nghĩa vụ đối với người nhận bảo lãnh khi người này yêu cầu, ngay sau khi họ

đã xuất trình các chứng từ phù hợp với nội dung của cam kết bảo lãnh do TCTD


4

phát hành mà không phụ thuộc vào việc người được bảo lãnh có khả năng tự thực
hiện được nghĩa vụ của họ hay không.
3. Chủ thể trong giao dịch bảo lãnh ngân hàng
3.1.Bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh là TCTD thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Theo Luật các tổ chức tín
dụng 2010, ngân hàng thương mại và công ti tài chính là những chủ thể được phép
thực hiện hoạt động bảo lãnh ngân hàng 3. Nếu bên nhận bảo lãnh là tổ chức cá
nhân nước ngoài thì bên bảo lãnh phải là các ngân hàng được phép thực hiện thanh
toán quốc tế. TCTD chỉ được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chuyên nghiệp khi thỏa
mãn các điều kiện sau: được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ
bảo lãnh (được ghi rõ trong giấy phép thành lập và hoạt động); có đăng kí kinh
doanh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng (cũng được ghi rõ trong giấy chứng nhận
đăng kí kinh doanh.
Do nghĩa vụ bảo lãnh được thực hiện bằng tài sản của bên bảo lãnh nên phạm
vi bảo lãnh phải do bên bảo lãnh quyết định và được ghi rõ trong văn bản bảo lãnh.
TCTD có quyền quyết định bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ tài sản của
khách hàng. Các nghĩa vụ tài sản có thể được bảo lãnh bởi TCTD như nghĩa vụ trả
nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản vay; các nghĩa vụ tài
chính đối với nhà nước; nghĩa vụ trong quan hệ hợp đồng… Ngoài ra, pháp luật
còn quy định giới hạn bảo lãnh “tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với
một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của của tổ chức tín dụng.
Tổng số dư bảo lãnh của chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng nước ngoài”4
3.2.Bên được bảo lãnh
Bên được bảo lãnh là khách hàng được TCTD bảo lãnh. Trong giao dịch bảo

lãnh ngân hàng, bên được bảo lãnh thường là các chủ thể kinh doanh bao gồm các
3
4

Điều 98, 108 Luật các tổ chức tín dụng 2010
Điều 7 Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN


5

tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Sau khi xem xét các điều kiện bảo lãnh quy
đinh tại Điều 8 Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế bảo lãnh ngân
hàng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành, TCTD còn phải lưu ý đến
những đối tượng sau đây không được bảo lãnh:
- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc),
Phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của TCTD;
- Cán bộ, nhân viên của TCTD đó thực hiện thẩm định, quyết định bảo lãnh;
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của TCTD; nếu là
bố, mẹ, vợ, chồng, con của giám đốc, phó giám đốc chi nhánh của TCTD thì việc
chấp nhận bảo lãnh hay không sẽ do TCTD xem xét quyết định.
3.3.Bên nhận bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ
hưởng bảo lãnh của TCTD. Tuy pháp luật không quy định cụ thể nhưng về nguyên
tắc, khi tham gia quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bên nhận bảo lãnh phải thỏa mãn
một số điều kiện nhất định như có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
có các giấy tờ, tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ của mình.
Các điều kiện cụ thể thường do bên bảo lãnh đưa ra.
4. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng
Trong bảo lãnh ngân hàng, do TCTD phải giao kết cả hai loại hợp đồng với hai

chủ thể khác nhau nên TCTD sẽ có hai tư cách pháp lí với cơ cầu quyền, nghĩa vụ
khác nhau. Còn khách hàng và người nhận bảo lãnh thì chỉ có một tư cách pháp lí
duy nhất là người hưởng dịch vụ bảo lãnh (phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bảo lãnh)
và người thụ hưởng bảo lãnh (phát sinh từ cam kết bảo lãnh). Trong mỗi hợp đồng,
quyền, nghĩa vụ của bên này sẽ tương ứng với quyền và nghĩa vụ của bên kia.

Bên bảo lãnh
(TCTD)

Bên được bảo lãnh
(khách hàng)

Bên nhận bảo lãnh
(người có quyền)


6

Quyền chấp nhận hoặc từ
chối đề nghị cấp bảo
lãnh của khách hàng.
Quyền năng này được
quy định nhằm đảm bảo
nguyên tắc quyền tự do
kinh doanh của tổ chức
tín dụng đồng thời đề
cao tính tự chịu trách
nhiệm của tổ chức tín
dụng.
Quyền yêu cầu khách

hàng cung cấp các tài
liệu, thông tin có liên
quan đến việc thẩm định
bảo lãnh và tài sản bảo
đảm (nếu có).

Quyền đề nghị TCTD cấp bảo
lãnh cho mình

Nghĩa vụ cung cấp đầy đủ,
chính xác và trung thực các
tài liệu và các thông tin theo
yêu cầu của TCTD. Quy định
này nhằm bảo đảm quyền lợi
cho TCTD, đồng thời đảm
bảo sự an toàn cho hoạt động
kinh doanh ngân hàng và
nâng cao ý thức trách nhiệm
hợp đồng cho bên khách
hàng.
Quyền yêu cầu khách Nghĩa vụ thực hiện các cam
hàng có các biện pháp kết về tài sản bảo đảm.
bảo đảm cho nghĩa vụ
được bảo lãnh. Quyền xử
lí tài sản bảo đảm của
khách hàng theo thỏa
thuận và pháp luật.Quy
định này cũng nhằm mục
đích bảo đảm quyền và
lợi ích chính đáng cho

TCTD.
Quyền thu phí bảo lãnh Nghĩa vụ thanh toán đầy đủ
theo thỏa thuận.
và đúng hạn phí bảo lãnh cho
TCTD theo thỏa thuận.
Quyền kiểm soát việc Nghĩa vụ chịu sự kiểm tra,
thực hiện nghĩa vụ của kiểm soát và báo cáo tình
người được bảo lãnh. hình hoạt động có liên quan


7

Quy định này để tổ chức
tín dụng tự bảo vệ lợi ích
của chính mình khi tham
gia quan hệ hợp đồng
dịch vụ bảo lãnh
Quyền hạch toán ghi nợ
và yêu cầu khách hàng
hoàn trả số tiền mà bên
bảo lãnh đã trả thay.

đến giao dịch bảo lãnh cho
TCTD.

Nhận nợ và hoàn trả cho
TCTD số tiền TCTD đã trả
thay, bao gồm cả gốc, lãi và
các chi phí trực tiếp phát sinh
từ việc thực hiện nghĩa vụ

bảo lãnh.
Quyền khởi kiện theo Khởi kiện theo quy định của
quy định của pháp luật pháp luật khi TCTD vi phạm
khi khách hàng vi phạm các nghĩa vụ đã cam kết.
các nghĩa vụ đã cam kết.
Quyền chuyển nhượng Quyền chuyển nhượng quyền,
quyền, nghĩa vụ của nghĩa vụ nếu được các bên có
mình cho tổ chức tín liên quan chấp thuận bằng
dụng khác nếu được các văn bản.
bên có liên quan chấp
thuận bằng văn bản.
Quyền từ chối thực hiện
nghĩa vụ của người bảo
lãnh nếu việc đòi tiền là
không có cơ sở pháp lí
và không phù hợp với
các điều kiện thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh như đã
cam kết.

Nghĩa vụ phát hành thư
bảo lãnh hoặc kí hợp
đồng bảo lãnh với bên
nhận bảo lãnh vì quyền
lợi của khách hàng được
bảo lãnh. Chỉ khi nào tổ
chức tín dụng đã thực

Quyền yêu cầu TCTD phải
phát hành thư bảo lãnh hoặc

kí hợp đồng bảo lãnh với bên
có quyền vì quyền lợi của
mình.

Nghĩa vụ chứng minh
rằng việc đòi tiền của
mình là hoàn toàn phù
hợp với các điều kiện
thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh như đã được ghi
nhận trong cam kết bảo
lãnh. Khi đó bên nhận
bảo lãnh mới thiết lập
được tư cách chủ nợ
đối với TCTD.


8

hiện xong nghĩa vụ này
thì họ mới có quyền
được yêu cầu khách hàng
thanh toán phí dịch vụ
bảo lãnh.
Nghĩa vụ thực hiện nghĩa Quyền yêu cầu TCTD thực
vụ bảo lãnh theo cam kết hiện đúng cam kết bảo lãnh
bảo lãnh.
và các thỏa thuận khác. Quy
định này nhằm đảm bảo
quyền lợi cho khách hàng

được bảo lãnh và người nhận
bảo lãnh, đồng thời đề cao
tinh thần kỉ luật hợp đồng cho
các bên giao dịch
Nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ Quyền yêu cầu TCTD hoàn
tài sản bảo đảm và các trả đầy đủ tài sản bảo đảm và
giấy tờ có liên quan cho các giấy tờ có liên quan cho
khách hàng khi thanh lí khách hàng khi thanh lí hợp
hợp đồng dịch vụ bảo đồng dịch vụ bảo lãnh.
lãnh.

Quyền yêu cầu tổ chức
tín dụng bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ thay cho
người được bảo lãnh
khi người này không
thực hiện đúng nghĩa
vụ của họ đối với mình.

5. Hình thức và nội dung của giao dịch bảo lãnh ngân hàng
5.1.Hình thức
Việc bảo lãnh của TCTD đối với khách hàng phải được lập thành văn bản có
thể công chứng, chứng thực nếu các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Trong
giao dịch bảo lãnh ngân hàng có hai loại văn bản ghi nhận quyền và nghĩa vụ của
các bên đó là giấy đề nghị bảo lãnh và cam kết bảo lãnh. Giấy đề nghị bảo lãnh là
văn bản do tổ chức, cá nhân có nhu cầu lập theo mẫu và gửi cho TCTD. Hành vi
này có thể coi như hành vi đề nghị giao kết hợp đồng. Sau đó TCTD và khách hàng
sẽ ký kết với nhau hợp đồng dịch vụ bảo lãnh hay hợp đồng cấp bảo lãnh. Cam kết
bảo lãnh là văn bản do TCTD lập theo thể thức luật định. Văn bản bảo lãnh có thể
là cam kết đơn phương của TCTD đối với bên nhận bảo lãnh (gọi là thư bảo lãnh)



9

hoặc là cam kết song phương hoặc đa phương giữa TCTD với bên nhận bảo lãnh
và khách hàng được bảo lãnh (hợp đồng bảo lãnh).
5.2.Nội dung
Hợp đồng dịch vụ bảo lãnh, phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu như tên, địa
chỉ của TCTD và khách hàng: giá trị nghĩa vụ được bảo lãnh, số tiền bảo lãnh và
mức phí bảo lãnh; thời hạn bảo lãnh và điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; mục
đích bảo lãnh; hình thức bảo đảm bằng tài sản cho nghĩa vụ hoàn lại đối với người
bảo lãnh; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ bảo lãnh… Cam
kết bảo lãnh phải hội đủ các nội dung chủ yếu như tên, địa chỉ của TCTD, khách
hàng và bên nhận bảo lãnh; ngày phát hành bảo lãnh và số tiền bảo lãnh; thời hạn
bảo lãnh và các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; quyền và nghĩa vụ của các
bên;… Các nội dung nêu trên có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ nếu các
bên liên quan có thỏa thuận.
6. Thủ tục bảo lãnh ngân hàng
Trên nguyên tắc đảm bảo tự do kinh doanh của các TCTD, pháp luật cho phép
TCTD được quyền quy định cụ thể về trình tự, thủ tục và điều kiện được bảo lãnh,
phù hợp với đặc điểm của từng TCTD và các loại hình nghiệp vụ bảo lãnh. Các thủ
tục này không phải là thủ tục hành chính như trong lĩnh vực quan lí nhà nước mà
chỉ đơn giản là sự quy ước đơn phương mang tính dân sự của TCTD đối với khách
hàng để họ lưu ý thực hiện khi thiết lập quan hệ bảo lãnh với TCTD.
7. Các loại hình bảo lãnh ngân hàng
Với chủ trương đa dạng hóa các loại hình nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng nhằm
mở rộng khả năng cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng, pháp luật hiện hành quy
định các tổ chức tín dụng được thực hiện các loại hình bảo lãnh ngân hàng sau
đây5:
5


Điều 5 Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN


10

-

Bảo lãnh vay vốn;
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng;
Bảo lãnh thanh toán;
Bảo lãnh dự thầu;
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm;
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước;
Bảo lãnh đối ứng;
Xác nhận bảo lãnh;
Các loại bảo lãnh khác mà pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ
quốc tế.

II.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TẠI TỔ

CHỨC TÍN DỤNG
1. Những kết quả đạt được khi áp dụng các quy định của pháp luật vào thực
tiễn hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại các tổ chức tín dụng
Trong thời gian vừa qua, với việc áp dụng các quy định hiện hành, hoạt động
bảo lãnh ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, trong đó có thể kể ra
các thành tựu như:
- Số lượng và chất lượng các giao dịch bảo lãnh ngày càng tăng. Điều này

chứng tỏ các doanh nghiệp đã nhận thức được những ưu điểm của loại hình dịch vụ
này. Số lượng khách hàng đến đề nghị được bảo lãnh ngày càng nhiều, phong phú
về thành phần kinh tế và lĩnh vực kinh tế. Do đó, các TCTD ngày càng nâng cao,
mở rộng và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng trong nhiều lĩnh vực mới để
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
- Bảo lãnh ngân hàng đang là một trong các nguồn thu quan trọng, đem lại cho
các TCTD bảo lãnh nguồn thu chủ yếu và ổn định, từ đó gián tiếp nâng cao chất
lượng của các dịch vụ ngân hàng khác.
- theo xu hướng phát triển của ngiệp vụ bảo lãnh ngân hàng, trình độ của các
cán bộ về nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được cải thiện, nâng cao. Từ đó nâng
cao uy tín của TCTD bảo lãnh, giúp các TCTD tăng khả năng cạnh tranh trên thị


11

trường, tạo mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống và thu hút thêm lượng
khách hàng mới.
- Các TCTD không ngừng đổi mới và nâng cao cơ sở vật chất, ứng dụng công
nghệ tin học nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh cũng như
các nghiệp vụ ngân hàng khác như thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm,…nhằm hỗ
trợ bổ sung để giúp cho nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng có điều kiện phát triển.
- Thông qua hoạt động bảo lãnh ngân hàng nhiều doanh nghiệp đã tìm kiếm
được sự tin tưởng từ phía đối tác để qua đó tận dụng được cơ hội kinh doanh, nâng
cao hiệu quả kinh doanh và tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Bảo lãnh ngân hàng luôn được xem như tấm Giấy thông hành cho doanh
nghiệp trong các hoạt động mua bán trả chậm. Việc này không những tạo thuận
lợi cho kế hoạch của nhà kinh doanh mà các đối tác cũng sẽ có cơ sở để tin tưởng
nhà kinh doanh hơn.
- Bảo lãnh ngân hàng cũng giúp các doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ từ

đối tác (đối với bảo lãnh tiền ứng trước) hoặc từ các tổ chứac tín dụng khác (bảo
lãnh vay vốn) lúc đó sẽ giúp các doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính để thực
hiện hợp đồng, tham gia giao dịch và ký kết hợp đồng
2. Những bất cập còn tồn tại trong thực tiễn hoạt động bảo lãnh ngân hàng
tại các tổ chức tín dụng
Bên cạnh những kết quả đạt được thì thực trạng bảo lãnh ngân hàng vẫn còn
một số tồn tại sau:
- Thủ tục bảo lãnh ngân hàng và giải tỏa bảo lãnh vẫn còn khá phức tạp, gây
khó khăn cho nhiều doanh nghiệp khiến cho nhiều doanh nghiệp chưa tiếp cận
được với bảo lãnh ngân hàng, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mà
ngân hàng cũng mất đi hiệu quả kinh doanh từ nghiệp vụ bảo lãnh.
- Hoạt động bảo lãnh tập trung chủ yếu vào một số ngân hàng quốc doanh. Hiện
nay, ngoài các ngân hàng quốc doanh còn có các ngân hàng thương mại cổ phần,


12

ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài..,nhưng tỉ trọng bảo lãnh chủ yếu lại
nghiêng về các ngân hàng quốc doanh.
- Các loại hình bảo lãnh chưa được phong phú và đa dạng. Mặc dù hệ thống
pháp luật đã thay đổi theo hướng mở rộng và tạo điều kiện khuyến khích các loại
hình bảo lãnh phát triển nhưng các TCTD ở Việt Nam hiện nay vẫn thiên về bảo
lãnh trong nước như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Còn các loại
bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo
lãnh đối ứng vẫn chưa được phổ biến. Điều này có thể xuát phát từ tâm lí cẩn thẩn
của các TCTD nhưng cũng đồng thời do các quy định của pháp luật còn tương đối
phức tạp và chưa tương thích với pháp luật các quốc gia khác cũng như pháp luật
quốc tế, thông lệ và tập quán quốc tế trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài, gây
tâm lí e ngại cho các TCTD.
- Như đã nói, các quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng còn gây cản trở

các TCTD Việt Nam, khiến các tổ chức này chưa thể tham gia những hợp đồng
bảo lãnh với khách hàng quốc tế. Ví dụ như về giới hạn bảo lãnh của Việt Nam
hiện nay đó là mỗi tổ chức tín dụng không được bảo lãnh quá 15% vốn tự có, mà
với số vốn hiện nay thì việc bảo lãnh ngân hàng cho những hợp đồng có giá trị lớn
là rất khó. Chính vì quy định của pháp luật không cho bảo lãnh quá 15% vốn tự có
của mỗi TCTD cho một khách hàng mà có những khách hàng tiềm năng với những
hợp đồng giá trị thì các TCTD lại phải nhờ đến sự chỉ đạo của Trung ương mới
được phép thực hiện, hoặc nếu đề nghị TCTD khác đồng bảo lãnh thì cũng rất
phức tạp về thủ tục cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi tổ chức.
- Đối với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo
lãnh ngân hàng, có thể thấy rằng các quy định này mới chỉ tập trung quy định các
quyền, nghĩa vụ của ngân hàng và khách hàng trong quan hệ hợp đồng dịch vụ bảo
lãnh giữa ngân hàng bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Sự thiếu vắng những quy định
cụ thể về trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh trong việc đưa ra cam kết bảo lãnh
với bên nhận bảo lãnh cũng như trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là một


13

hạn chế đáng lưu ý. Hạn chế này dẫn đến khó khăn cho bên nhận bảo lãnh trong
việc yêu cầu ngân hàng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Cuối cùng, việc pháp luật Việt Nam chưa ghi nhận tính chất không thể hủy
ngang của bảo lãnh ngân hàng như một nguyên tắc bắt buộc là một thiếu sót vô
cùng lớn. Tính chất đó thể hiện ở việc bảo lãnh ngân hàng là giao dịch không thể
đơn phương hủy ngang bởi những người đại diển có thẩm quyền của TCTD bảo
lãnh. Điều này khiến cho chế định về bảo lãnh ngân hàng của chúng ta thiếu sự
tương đồng với chế định về bảo lãnh ngân hàng trong pháp luật các nước cũng như
pháp luật quốc tế. Nếu bảo lãnh ngân hàng không có tính chất này thì khi đó quyền
lợi của người nhận bảo lãnh sẽ không được bảo đảm và việc bảo lãnh cũng sẽ trở
thành vô nghĩa và không cần thiết cho dù người bảo lãnh là một tổ chức có khả

năng tài chính mạnh như TCTD
Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở nước ta thời gian qua đã có nhiều
bước phát triển, tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển các mối quan hệ
của nền kinh tế không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ của một quốc gia, mà còn mở
rộng ra các nước khác nhau. Vì vậy, để bắt kịp với tình hình kinh tế mạnh mẽ như
hiện nay thì các ngân hàng ở Việt Nam cần phải triển khai hoạt động bảo lãnh ngân
hàng mang tầm quốc tế để giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được với
nguồn vốn của nước ngoài để đầu tư sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Một
hành lang pháp lí chặt chẽ và thông thoáng cũng sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt
động bảo lãnh ngân hàng phát triển.
3. Một số giải pháp khắc phục thực trạng về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
tại các tổ chức tín dụng.
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định quy định của pháp luật về quyền lợi,
nghĩa vụ của các bên trong từng hợp đồng cụ thể: Như đã phân tích ở trên, hiện
nay Quy chế bảo lãnh ngân hàng cũng như Luật các tổ chức tín dụng chưa quy
định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo lãnh và hợp


14

đồng cấp bảo lãnh, đặc biệt là chưa có điều luật nào quy định trực tiếp địa vị pháp
lí của các tổ chức tín dụng trong mối quan hệ với bên nhận bảo lãnh. Vì vậy, khi
thực hiện các bên dễ gặp phải khó khăn vướng mắc dẫn đến khả năng xảy ra tranh
chấp là rất lớn. Để tránh gây bất lợi cho tất cả các bên tham gia, luật cần quy định
rõ quyền lợi và nghĩa vụ của bên bảo lãnh sao cho phù hợp với luật quốc gia cũng
như các thông lệ và tập quán quốc tế như: quy định trách nhiệm kiểm tra do người
thụ hưởng xuất trình phù hợp với những điều khoản và điều kiện của cam kết bảo
lãnh: trách nhiệm thanh toán khi các chứng từ đó là phù hợp hoặc quyền từ chối
thanh toán nếu phát hiện ra hành vi gian dối do sự lừa đảo về chứng từ của bên
bảo lãnh

Thứ hai, về thẩm quyền kí kết các văn bản bảo lãnh của tổ chức tín dụng,
pháp luật cần có quy định rõ ràng về cơ chế ủy quyền, trong đó cần chấp nhận
phương thức ủy quyền thường xuyên giữa Tổng giám đốc cho giám đốc chi
nhánh. Có như vậy mới phát huy được hết vai trò, khả năng của chi nhánh mà đại
diện là giám đốc chi nhánh và đảm bảo được tính chịu trách nhiệm của người ủy
quyền cho việc ủy quyền trở nên chắc chắn, an toàn và hiệu quả hơn. Hơn nữa
pháp luật cũng cần có quy định thống nhất về việc ủy quyền lại theo hướng cho
phép người được ủy quyền có thể ủy quyền lại cho người thứ ba nếu được người
đầu tiên đồng ý bằng văn bản. quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho ngân
hang phát hành thư bảo lãnh tại các chi nhánh hay các phòng giao dịch được thuận
tiện, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, về thủ tục thiết lập bảo lãnh ngân hàng, pháp luật hiện hành không
quy định cụ thể mà trao quyền cho tổ chức tín dụng bảo lãnh tự quy định và công
bố công khai đối với khách hàng. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ
quốc tế, tuy nhiên để đảm bảo tính thống nhất trong nhận thức về bản chất của bảo
lãnh ngân hàng, pháp luật cũng cần xác định rõ thứ tự trước sau trong việc xác lập
mối quan hệ pháp lí giữa ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Nếu quy định


15

như vậy sẽ giúp cho việc xác lập quan hệ bảo lãnh ngân hàng trên thực tế có một
cơ sở pháp lí vững chắc và cũng là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên trong mối quan hệ pháp lí đó để thực hiện một cách dễ dàng, nhanh chóng.
Theo quy định hiện hành, ngân hàng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh theo các điều kiện được ghi trong cam kết bảo lãnh. Tuy nhiên các quy định
này vẫn chưa xác định rõ trình tự yêu cầu của bên nhận bảo lãnh đối với ngân
hang bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cũng như không xác định rõ
hậu quả pháp lí nếu bên nhận bảo lãnh không đưa ra yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh trong thời hạn bảo lãnh. Pháp luật nên có quy định cụ thể về trình tự yêu

cầu của bên nhận bảo lãnh đối với ngân hang bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh, đồng thời quy định rõ hậu quả pháp lí nếu bên nhận bảo lãnh không đưa
ra yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn bảo lãnh. Các quy định về
thời hạn bảo lãnh cũng cần phải quy định rõ ràng hơn nữa.
Thứ tư, như đã nói, cần tạo sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật
Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng với các quy định của quốc tế. Tiếp thu, học hỏi
những quy định của các nước có nền kinh tế tiến bộ hơn chúng ta nhưng đồng thời
cũng phải chắt lọc sao cho phù hợp với tình hình phát triển trong nước. Có như
vậy mới thúc đẩy đầu tư nước ngoài phát triển mạnh, tăng cường hợp tác kinh tế
quốc tế.
Thứ năm, Quốc hội và Chính phủ cần quan tâm tới việc ban hành hệ thống các
văn bản quy định về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng có tính pháp lí cao hơn, và
đồng bộ, thống nhất (Luật các tổ chức tín dụng 2010 nhưng Quyết định ban hành
Quy chế bảo lãnh ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng nhà nước lại ban hành từ
năm 2006). Bên cạnh đó, cần phải chú ý tới các quy định có liên quan đến nghiệp
vụ này như cầm cố, thế chấp, đăng kí giao dịch bảo đảm…nhằm tạo thành một hệ
thống pháp luật thống nhất và chặt chẽ, vừa khắc phục được những kẽ hở, hạn chế


16

trong quá trình thực hiện, đồng thời vừa tạo thuận lợi cho các bên khi tham gia
giao dịch.
Thực tế cho thấy một số loại bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh
toán…là những loại bảo lãnh có mức độ rủi ro cao hơn các loại bảo lãnh khác như
bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh dự thầu. do vậy, trong trường
hợp khách hang có nhu cầu thực hiện nhiều loại bảo lãnh tại một số tổ chức tín
dụng, việc xác định khả năng rủi ro cho từng loại bảo lãnh để làm căn cứ xác định
mức bảo lãnh, mức phí bảo lãnh phù hợp cho từng loại bảo lãnh là rất cần thiết
nhưng hiện nay Quy chế bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam mới chưa quy định cụ

thể vấn đề này. Việc bổ sung nên dừng lại ở khung pháp lý chung còn việc quy
định cụ thể cần giao quyền cho các tổ chức tín dụng để tạo quyền tự chủ cho các
tổ chức tín dụng trong việc kinh doanh của mình.
Nói tóm lại, chúng ta cần hoàn thiện môi trường pháp luật theo hướng minh
bạch, thông thoáng, ổn định đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho các chủ thể tham
gia thị trường hoạt động có hiệu quả. Chỉnh sửa kịp thời những bất cập trong các
văn bản hiện hành để không dẫn đến việc khi triển khai các quy định bị chồng
chéo, bất hợp lí.


17

Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng ngày càng trở nên mạnh mẽ và được các chủ
thể kinh doanh sử dụng rất phổ biến như một dịch vụ tài chính quan trọng nhằm
bảo đảm khả năng xác lập và thực hiện các giao dịch của mình trong kinh doanh.
Tuy nhiên do sự phát triển quá nhanh chóng của loại hình dịch vụ ngân hàng này
mà pháp luật tỏ ra tương đối chậm chạp, không theo kịp với những xu thế phát
triển của nó. Đây cũng là một hệ quả đương nhiên mà chúng ta phải chấp nhận khi
thực hiện các chính sách thúc đẩy thị trường tài chính cũng như nền kinh tế đất
nước. Điều quan trọng là chúng ta phải kịp thời sửa đổi, bổ sung những thiếu sót,
những sai sót đó để hạn chế tối đa những vi phạm xảy ra, gây hậu quả xấu tới
ngành ngân hàng con non trẻ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Một trong những
nỗ lực đáng kể nhất về mặt lập pháp trong thời gian gần đây chính là việc ban
hành Thông tư 28/2012/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành, sắp có hiệu lực vào 2/12/2012 tới. Thông tư này sẽ
đảm bảo tính tương thích với Luật các tổ chức tín dụng 2010 đồng thời sửa đổi


18


những hạn chế của Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN, đưa ra những quy định mới
tiến bộ hơn và phù hợp hơn với thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam 2012 – Đại học Luật Hà Nội;
Bộ luật dân sự 2005;
Luật Thương mại 2005;
Luật các tổ chức tín dụng 2010;
Quyết định 26/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế bảo lãnh ngân hàng do

Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành;
6. Thông tư 28/2012/TT-NHNN quy định về bảo lãnh ngân hàng do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam ban hành, có hiệu lực vào 2/12/2012;
7.



×