Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vùa và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.29 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc lưu
thông dòng vốn của nền kinh tế. Tại thời điểm này, bên cạnh một số ngân hàng quốc
doanh, ngày càng có nhiều ngân hàng thương mại và nước ngoài tham gia, tạo nên sự
phong phú về sản phẩm, đa dạng về dịch vụ cũng như nâng cao tính cạnh tranh trong
ngành ngân hàng.
Khách hàng là yếu tố quyết định sự thành công của ngân hàng. So với khách hàng
cá nhân, khách hàng doanh nghiệp tuy ít hơn về số lượng nhưng do nhu cầu và mật độ sử
dụng dịch vụ nhiều nên họ là đối tượng mang lại một nguồn thu đáng kể cho ngân hàng.
Ngoài ra, chính các dịch vụ của ngân hàng cũng có sự hỗ trợ rất lớn cho các doanh
nghiệp, giúp cho hoạt động kinh doanh của họ nhanh chóng, hiệu quả hơn. DNV&N
được nhận định sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai, sẽ trở thành một động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, đây là đối tượng ngày càng được các
ngân hàng quan tâm đến. Nắm bắt được thực tiễn đó, ngân hàng HSBC tại Việt Nam vừa
giới thiệu sản phẩm ngân hàng trọn gói dành riêng cho khối DNV&N bởi lẽ đây là nhóm
khách hàng tiềm năng mà họ muốn tập trung phát triển trong thời gian tới. Ông Huỳnh
Bửu Quang, Giám đốc toàn quốc dịch vụ Tài chính doanh nghiệp, cho biết: “Tập đoàn
HSBC gần đây đã triển khai chiến lược toàn cầu để trở thành ngân hàng tốt nhất cho các
DNV&N. Việt Nam được chọn là một trong 30 thị trường trọng yếu mà tập đoàn muốn
hướng đến trong những năm tới với mục tiêu là biến các tiềm năng kinh doanh của
DNV&N thành hiện thực. Điều này cho thấy xu hướng phát triển loại hình dịch vụ ngân
hàng giúp các DNV&N có cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng như các doanh nghiệp
quy mô lớn” là xu hướng chung của các NHTM hiện nay và cũng là tất yếu của các nước
trên thế giới.
Với tầm quan trọng và tính cấp thiết như vậy, sau một thời gian thực tập tại NHNo
&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội, em đã chọn đề tài : “ Giải pháp mở rộng tín dụng ngân
hàng đối với DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.



2. Mục đích nghiên cứu :
Khóa luận nghiên cứu những cơ sở lý luận cơ bản về DNV&N, thực trạng hoạt
động tín dụng DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội trong những năm gần
đây để đề xuất những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với
DNV&N tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu : Thực trạng hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại
NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu : Hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh các năm
2006,2007 và 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu :
Dựa trên các phương pháp : duy vật biện chứng, suy luận logic và kết hợp duy vật
lịch sử, sử dụng số liệu thực tế để phân tích và luận giải.
5. Kết cấu khóa luận :
Khóa luận gồm 3 phần : Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó
phần nội dung gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề chung về mở rộng tín dụng đối với các DNV&N tại
NHTM.
Chương II : Thực trạng tín dụng Ngân hàng đối với các DNV&N tại
NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội.
Chương III : Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại
NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỞ RỘNG TÍN
DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM
1.1.

Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ :


1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Doanh nghiệp là một tổ chức hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế, nhưng để
đưa ra một khái niệm cụ thể về doanh nghiệp thì lại có nhiều quan điểm khác nhau. Theo
DLarue- Acitlat: “doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất và là một đơn vị phân phối…
doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục tiêu và quản lý theo hướng tạo ra lợi nhuận
hùng mạnh, vĩnh cửu…”. Còn theo Luật doanh nghiệp hiện hành của Việt Nam: “ Doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định
được đăng kí kinh doanh theo qui định của phát luật nhằm mục đích thực hiện hoạt động
kinh doanh”.
Như vậy doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức hoạt động kinh tế có tư cách pháp
nhân, được thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực nhất định với
mục đích thu được lợi nhuận hoặc công ích.
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều doanh nghiệp ta có thể phân theo một số
các tiêu thức:
-

Theo qui mô sản xuất hoạt động: doanh nghiệp qui mô lớn, doanh nghiệp qui mô

vừa và nhỏ.
-

Theo cấp quản lý: doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương,

doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp.
-

Theo ngành kinh tế kỹ thuật: doanh nghiệp ngành công nghiệp, doanh

nghiệp ngành thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp ngành nông lâm nghiệp, doanh
nghiệp ngành tài chính, doanh nghiệp ngành phi tài chính.

DNV&N là 1 một hình thức DN, mang những đặc điểm chung giống như các loại
hình DN khác nhưng lại có những đặc điểm riêng mà chỉ có ở những DN qui mô vừa và
nhỏ. Tùy vào điều kiện của từng nước khác nhau thì có các phân định DNV&N khác
nhau nhưng để chính xác thường phải dựa vào vốn tự có, số lượng người lao động làm
việc trong DN, giá trị tài sản cố định của DN. Ví dụ theo quan điểm của Mỹ, mức lợi
nhuận hàng năm dưới 150.000USD được coi là DNV&N, theo quan điểm của Thái Lan,
DN vừa là DN có từ 50 đến 200 lao động, DN nhỏ là DN có dưới 50 lao động. Còn ở
Việt Nam theo Nghị định 90/2001/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001 thì
DNV&N được hiểu: “DNV&N là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh


doanh theo luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 người”. Theo nghị định này thì DNV&N sẽ bao gồm các
DN hoạt động theo luật DN Nhà nước, các DN hoạt động theo luật DN, các hợp tác xã
hoạt động theo luật Hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể.
1.1.2. Đặc điểm của DNV&N:
DNV&N cũng là một tổ chức kinh tế, ngoài những đặc trưng vốn có của một DN
thì nó cũng mang những đặc trưng riêng xuất phát từ chính khái niệm của nó:
Một là: DNV&N có vốn đầu tư ban đầu không lớn ( không quá 10 tỉ đồng), khả
năng thu hồi vốn nhanh.
Theo qui định, để thành lập một DNV&N chỉ cần một số vốn ban đầu tương đối ít
( dưới 10 tỉ đồng). Đồng thời chu kì kinh doanh ngắn, diễn biến theo mùa nên thời gian
hoàn vốn ngắn hơn so với những tổ chức kinh tế có qui mô lớn, không tồn tại tình trạng
vốn ứ đọng quá lâu, dễ dàng chuyển hướng đầu tư dẫn đến hiệu quả kinh tế cao.
Hai là: DNV&N có quy mô vốn và lao động nhỏ, năng lực tài chính thấp.
Theo kết quả khảo sát điều tra hơn 63 ngàn DN tại 30 tỉnh thành phố phía Bắc cho
thấy số vốn của DNV&N còn rất thấp : 50% DN có vốn dưới 1 tỷ đồng, 75% DN có vốn
dưới 2 tỷ đồng, 90% DN có vốn dưới 5 tỷ đồng. Đa phần DNV&N luôn lâm vào tình
trạng “ khát vốn” do vốn tự có thì ít, những kênh huy động vốn thì yếu kém. Thêm vào
đó, hầu hết các DNV&N có quy mô kinh doanh không lớn, không có tài sản đảm bảo để

vay vốn, việc chuyển giao quyền sở hữu về vốn góp bằng tài sản chưa rõ ràng minh bạch,
uy tín, hiệu quả sử dụng vốn thì chưa cao nên doanh thu, lợi nhuận, khả năng tính lũy
cũng bị ảnh hưởng hạn chế. Năm 2005, lợi nhuận bình quân của DNV&N là 240 triệu
đồng, thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ DN của cả nước (khoảng 1,14 tỷ
đồng). Năm 2006, các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận/ vốn và lợi nhuận/ doanh thu cũng
thấp, ở mức 3 tỷ đồng và 2, 57 tỷ đồng so với mức bình quân chung của các DN cả nước
là 4,86 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng (Vneconomy, 2006). Do nguồn năng lực tài chính còn
yếu nên chưa tạo lòng tin với nhà đầu tư.
Ba là: DNV&N chủ yếu là DN ngoài quốc doanh, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ và linh
hoạt.
Số lượng lao động ít ( dưới 300 lao động), cơ cấu tổ chức đơn giản ít cấp bậc
khiến cho DNV&N linh hoạt, dễ thay đổi cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Hơn nữa,
chủ sở hữu của DNV&N thường cũng là người quản lí của DN nên họ sẽ được tự do hoạt
động, nhanh chóng chớp lấy những cơ hội kinh doanh thuận lợi và tự quyết những vấn đề
mang tính định hướng và sống còn một cách nhanh chóng như thay đổi nhân sự, đổi
hướng kinh doanh… Trong khi DN lớn thì thiếu sự linh động, khó phản ứng kịp với biến


động của thị trường thì về mặt này DNV&N thể hiện tính ưu việt hơn cả. Đồng thời do
quy mô khiêm tốn của mình mà DNV&N có thể hoạt động trong cả những lĩnh vực mà
nhiều DN lớn không muốn tham gia hoặc không thể vươn tới tạo ra một lượng cung hàng
hóa đầy đủ, kịp thời dù là nhỏ nhất của xã hội.
Bốn là: Nguồn tài chính của các DNV&N còn hạn hẹp, thiết bị công nghệ lạc hậu.
Xuất phát từ nguồn vốn nhỏ nên các DNV&N ở Việt Nam thường không có điều
kiện trang bị máy móc, thiết bị hiện đại. Theo ông Phùng Xuân Nhạ (2006), hệ thống
máy móc của các DNV&N lạc hậu khoảng 20 năm đối với ngành điện tử, 25 năm so với
ngành cơ khí, 70% công nghệ dệt may đã được sử dụng 20 năm. Theo Bộ Lao động và
thương binh xã hội thì 76% thiết bị máy móc tại các DNV&N hiện đang sử dụng là từ
những năm 1950 hay 1960, hơn 70% đã khấu hao hết, gần 50% máy móc cũ được tân
trang lại. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn

của thế giới. Kết quả là năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, chi phí
đầu vào cao dẫn đến giá thành cao, khó cạnh tranh. Kết quả điều tra cũng cho thấy có
41,3% DN có kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong năm tới, 52,4% DN
dự định giữ nguyên quy mô sản xuất kinh doanh như hiện nay và chỉ có 6,3% DN muốn
thu hẹp sản xuất. Điều này chứng tỏ DN luôn có nhu cầu mở rộng và đổi mới nhưng vấn
đề về vốn vẫn luôn là yếu tố cản trở khiến DNV&N đã cũ nay lại càng cũ hơn với tỷ lệ
đổi mới chỉ ở mức 5-7 % /năm so với 20% của thế giới.
Năm là: Trình độ quản lý của ban quản lý các DNV&N còn yếu kém, tay nghề của
người lao động chưa cao, khó có khả năng thu hút đc nhân tài.
Như đã trình bày ở trên, hầu hết DNV&N đều có chủ sở hữu đồng thời là người
quản lý. Điều này có cái lợi mà cũng có cái hại cho bản thân DN vì theo điều tra thì trong
tổng số các chủ DNV&N chỉ có 1% có trình độ sau đại học, 3% có trình độ đại học. Điều
này khiến đặt nghi vấn cho năng lực quản lý của chính những chủ DN chưa qua đào tạo,
chưa có kinh nghiệm này. Trong khi khả năng thu hút các nhà quản lý giỏi, nhân tài từ
các lĩnh vực về với DNV&N là rất ít vì nguồn tài chính eo hẹp, sức hấp dẫn về môi
trường làm việc là không lớn, những ưu đãi đối với nhân lực là gần như không có. Bên
cạnh đó, ngay cả người lao động trong các DN này thì chủ yếu đều là dân địa phương, tay
nghề kém, ít được đào tạo, bồi dưỡng tay nghề do kinh phí eo hẹp. Với thực trạng nguồn
lực như thế đã và đang gây ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao và tiếp nhận quy trình
kỹ thuật đồng bộ hiện đại cần thiết.

1.1.3. Vai trò của DNV&N trong nền kinh tế:


Tại nhiều quốc gia, kể cả những nước phát triển, những nước đang phát triển,
những nước kém phát triển, tỷ trọng DNV&N thường là một con số đáng kể. Với một
nước có nền kinh tế phát triển như nước Mỹ có đến 99,7% tổng số hãng kinh doanh có
thuê nhân công là DN nhỏ, tạo đc 75% số việc làm mới và chiếm 96% tổng số các nhà
xuất khẩu hàng hóa. Ở Thái Lan, năm 2002, DNV&N chiếm khoảng 95% tổng số DN
công nghiệp, tuyển dụng từ 85% - 90% lực lượng lao động, đóng góp trên 50% GDP, có

vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và xuất khẩu, phát triển kinh tế ở các vùng lạc
hậu ở Thái Lan. Còn ở Việt Nam, theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), hiện nay Việt Nam có gần 350.000 DN, chiếm 96,5% trên tổng số DN. Mỗi năm
lại có khoảng 30.000 - 40.000 DN đăng ký và 100.000 - 200.000 hộ kinh doanh cá thể ra
đời. Có thể thấy tầm quan trọng của DNV&N đã được các nước thừa nhận, hoạt động và
sự phát triển của chúng đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng:
Thứ nhất : các DNV&N đóng góp quan trọng vào GDP, Ngân sách Nhà nước và
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trong thời gian qua, DNV&N đã đóng góp hơn 40% GDP, 29% tổng kinh ngạch
xuất khẩu cả nước, 31% tổng sản lượng công nghiệp, đóng góp khoảng 17,46% tổng nộp
ngân sách. Có thể nhận thấy đây là một bộ phận góp phần không nhỏ vào tốc độ tăng sản
lượng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế.
Thứ hai : góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Bắt nguồn từ đặc điểm quy mô nhỏ, tính linh hoạt cao nên DNV&N có ưu điểm là
có thể hoạt động ở mọi nơi thậm chí cả những vùng chưa phát triển như vùng núi, hải đảo
.. Tùy vào đặc điểm, thế mạnh của từng vùng lãnh thổ, các DN này hoạt động sản xuất
các mặt hàng khác nhau để phục vụ người tiêu dùng. Việc nhiều DN chủ yếu là DNV&N
được thành lập ở các nông thôn, vùng núi, vùng sâu…đã góp phần chuyển hướng tỷ trọng
ngành nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo sự cân đối trên toàn quốc theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Điều này được thể hiện rõ trong việc DNV&N tạo
ra khoảng 49% việc làm phi công nghiệp ở nông thôn.
Thứ ba : tạo ra nhiều công ăn việc làm mới.
Với số dân đông khoảng hơn 80 triệu như ở Việt Nam hiện nay thì mục tiêu giải
quyết công ăn việc làm là hết sức cần thiết và cấp bách. Trong khi khu vực NN hàng năm
còn đóng góp một phần lao động thất nghiệp tạm thời cho nền kinh tế thông qua quá trình
tinh giảm biên chế, khu vực DNV&N mỗi năm cung cấp việc làm cho hơn 50% số lao
động làm việc trong DN và mỗi năm tăng thêm nửa triệu lao động. Đặc biệt bộ phận DN
này đã giải quyết được phần lớn lao động thất nghiệp ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa…



vừa tận dụng được nhân lực mà lại ổn định được kinh tế và công ăn việc làm cho con em
trong địa phương. DNV&N không những cung thêm nhiều cơ hội cho người lao động
nông thôn mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, giảm thiểu hiện
tượng di cư vào đô thị, giảm sức ép dân số tại các thành phố lớn.
Thứ tư : là tiền đề tạo ra nhiều DN lớn.
Trên thế giới có rất nhiều tập đoàn kinh tế lớn xuất phát từ những chi nhánh,
những phân xưởng nhỏ nhưng với quá trình hoạt động, tích lũy vốn, kinh nghiệm để trở
thành những DN lớn. Điều đó chứng tỏ bản thân hai loại hình DN này đã có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. DNV&N là khởi nguồn của DN lớn, tập đoàn kinh tế lớn, cung cấp
sản phẩm đầu vào, tham gia chế tác và đặc biệt là tạo ra mạng lưới phân phối sản phẩm
của DN lớn. Còn DN lớn đảm bảo vững chắc cho DNV&N về tài chính, công nghệ, thị
trường và kinh nghiệm quản lý.
Thứ năm : làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các DNV&N góp phần làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự xuất hiện
thêm nhiều DN trong cùng một ngành, cùng một lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và
buộc các DN lớn, DN cũ phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt hơn, phải liên tục đổi mới,
nâng cao sản lượng, chất lượng, làm ăn có hiệu quả để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.
Và các DN lớn cũng không nằm ngoài cuộc. Điều này đã tạo ra điều kiện cho nền kinh tế
hoạt động lành mạnh và hiệu quả hơn khi mà mỗi cá thể trong nó đang phải tự hoàn
thiện.
1.1.4. Các nguồn huy động vốn của DNV&N:
a. Nguồn tài chính phi chính thức:
-

Vay từ người quen, người thân với lãi suất thường là thấp nhương

lượng vốn huy động không được nhiều và không có sẵn khi cần thiết.
-


Vay từ người cho vay nặng lãi, mặc dù không cần tài sản thế chấp và

có thể đáp ứng đủ, kịp thời cho nhu cầu vay nhưng hình thức này lại có chi phí rất cao.
-

Vay thông qua hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các

DN hoặc giữa các DN với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào.
Ưu điểm của hình thức huy động vốn này là đơn giản, linh hoạt, chi phí giao dịch
thường thấp hơn so với hình thức còn lại, dựa trên cơ sở chữ tín giữa người đi vay và
người cho vay nên thường không cần tài sản thế chấp. Điều này hoàn toàn phù hợp với
đặc điểm mỏng vốn và ít tài sản đảm bảo của DNV&N. Tuy nhiên, nguồn tài chính này
cũng có những hạn chế như người đi vay chỉ vay được một khối lượng nhỏ và chỉ vay


trong ngắn hạn với chi phí phát sinh cao và khó dự đoán trước. Do đó hình thức huy động
vốn này chỉ đủ để tài trợ cho những hoạt động mua sắm tài sản cố định cố quy mô nhỏ,
sửa chữa nhỏ. Trong khi đó theo nghiên cứu thì có đến trên 50% DNV&N có nhu cầu mở
rộng sản xuất kinh doanh với nhu cầu về vốn lớn. Bởi vậy việc tiếp cận một nguồn tài
chính chính thức là tự nhiên và cấp thiết.
b. Nguồn tài chính chính thức:
- Nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức quốc tế thông qua
Ngân sách chính sách xã hội.
-

Nguồn vốn từ các quỹ : Quỹ hộ trợ phát triển, quỹ tín dụng nhân

dân ,quỹ phát triển nông thôn, liên hiệp hợp tác xã, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc tế.
-


Các chương trình tín dụng của các tổ chức và chính phủ nước ngoài

như : hỗ trợ của công ty tài chính quốc tế IFC tại Việt Nam, Quỹ phát triển DNV&N cả
cộng đồng châu Âu ( SMEFD), tín dụng hỗ trợ của ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (
JBIC), Quỹ Mekong Enteprise Fund II (MEFII) thuộc Công ty Quản lý quỹ đầu tư
Mekong, Tập đoàn Bank-Invest (Đan Mạch)…
- Nguồn vốn thông qua thị trường chứng khoán, các DN có thể huy động vốn thông
qua thị trường chứng khoán bằng cách niêm yết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy
nhiên, với các DNV&N thì hình thức này còn hết sức khó khăn vì điều kiện niêm yết,
phát hành là hết sức chặt chẽ. Trong khi các DNV&N vẫn bị hạn chế về kinh tế và tài
chính dẫn đến việc lập báo cáo tài chính không chính xác, trung thực. Thậm chí chỉnh
bản thân DN đã cố tình chế biến số liệu để trốn thuế hoặc để khai khống lượng tài sản có
trong tay làm mất lòng tin từ nhà đầu tư.
-

Nguồn vốn tín dụng từ các TCTD hiện hành bao gồm các NHTM quốc

doanh, NHTM cổ phần, NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài, các quỹ tín dụng
nhân dân và các công ty cho thuê tài chính. Để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh,
các DNV&N chủ yếu tiếp cận nguồn tín dụng của NH. Nhưng thực trạng hiện nay cho
thấy nhu cầu vay vốn của các DN vẫn có trong khi chỉ có chưa đến 50% DN ngoài quốc
doanh tiếp cận được vốn NH.

1.2.

Tín dụng Ngân hàng đối với DNV&N:

1.21. Khái niệm, đặc điểm của tín dụng NH :
a. Khái niệm:



Tín dụng ( credit ) xuất phát từ chữ Latinh credo, có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm
lẫn nhau hay nói cách khác là lòng tin. Theo K.Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định
lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Trên cơ sở tiếp cận tín dụng theo chức năng hoạt động của NH, tín dụng được hiểu
như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay ( Ngân hàng và các định
chế tài chính khác ) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ),
trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và
lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
b. Đặc điểm:
• Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa NH và các DNV&N :
Lòng tin là cơ sở đầu tiên có quan hệ tín dụng. Ở đây cũng thế, NH phải tin tưởng
là DN sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả và hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian đã thỏa
thuận. Tuy nhiên, để có được lòng tin này thì NH sẽ căn cứ vào uy tín của DN, tài sản
đảm bảo hay sự bảo lãnh của bên thứ ba.
• Tính thời hạn :
Quan hệ tín dụng NH là quan hệ vay mượn có thời hạn. Thời hạn trong quan hệ tín
dụng phụ thuộc vào thỏa thuận giữa NH và DN. Để xác định thời hạn vay NH căn cứ vào
tính hợp lý giữa thời han đi vay và thời hạn cho vay vốn để giảm thiểu rủi ro thanh
khoản. Còn DN xác định dựa trên cơ sở chu kì sản xuất kinh doanh, thời điểm hình thành
nguồn thu của mình.
• Tính hoàn trả :
Quan hệ tín dụng NH chỉ nảy sinh khi NH kì vọng là sẽ nhận được một lượng lớn
ngoài phần vốn gốc sau một thời gian thỏa thuận.
• Tính rủi ro :
Quan hệ tín dụng NH với các DNV&N luôn bao hàm tính rủi ro. Rủi ro có thể xảy
ra từ nhiều nguyên nhân khách quan như : khủng hoảng kinh tế, chiến tranh.. nhưng xác

suất của những nguyên nhân này là ít mà chủ yếu là từ những nguyên nhân chủ quan
như : rủi ro đạo đức khi DN không chịu chi trả, DN phá sản…
c. Phân loại :
• Theo thời hạn cho vay :


Tín dụng ngắn hạn : là loại tín dụng có thời gian dưới 1 năm. Tín dụng ngắn hạn
được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của DN và phục vụ các nhu
cầu sinh hoạt của các cá nhân.
Tín dụng trung hạn : là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này
được dùng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất và
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn : là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp
vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở
hạ tầng ( đường xá, bến cảng, sân bay…) , cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
• Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng :
Cho vay không bảo đảm : là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
Cho vay có bảo đảm : là loại tín dụng dựa trên cơ sở các quan hệ bảo đảm như :
cầm cố, thế chấp, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
• Theo phương thức hoàn trả :
Tín dụng trả góp : là loại tín dụng mà khách hàng hoàn trả vốn gốc và lãi theo định
kỳ. Loại cho vay này chủ yếu được áp dụng trong cho vay bất động sản nhà ở thương
mại, cho vay tiêu dùng, cho vay đối với những người kinh doanh nhỏ, cho vay để mua
sắm máy móc thiết bị.
Tín dụng phi trả góp : là loại tín dụng thanh toán một lần theo thời gian đã thỏa
thuận.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu : loại tín dụng không có thời hạn cụ thể. NH có thể
yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ.


• Theo phương thức cấp tín dụng :
Tín dụng trực tiếp : là các khoản tín dụng mà NH cấp vốn trực tiếp cho người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trở nợ vay cho NH.
Tín dụng gián tiếp : là loại tín dụng được thực hiện thông qua việc mua lại các khế
ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
Tùy theo nhu cầu cụ thể, DNV&N có thể lựa chọn loại hình tín dụng phù hợp với
mình.


1.2.2. Vai trò của tín dụng NH đối với sự phát triển của DNV&N :
Theo nghiên cứu vốn tự có của DNV&N chiếm tỷ trọng là 36,25%, vốn vay NH
chiếm tỷ trọng 45,31%, còn lại vốn khác chiếm 18,44%. Bình quân vốn vay của một DN
là 1,79 tỷ đồng lớn hơn hẳn vốn tự có bình quân của DN là 0,49 tỷ đồng. Điều này cho
thấy tín dụng NH đã và đang trở thành một phận không thể thiếu trong nguồn huy động
của DN.
• Tín dụng NH góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DN .
Cơ cấu vốn tối ưu chính là sự kết hợp hợp lý nhất trong việc sử dụng vốn của
DNV&N theo hướng có lợi nhất. Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư, DN có thể
sử dụng vốn tự có và vốn đi vay vì nguồn tài trợ gần như là không đến tận tay DN. Trong
khi việc sử dụng nguồn vốn tự có đối với DN là hết sức xa xỉ và đắt đỏ thì nguồn tín
dụng từ NH được đánh giá tốt hơn cả. Nếu DN sử dụng vốn tự có quá nhiều thì có thể
dẫn đến hậu quả khó lường cho DN khi những cú sốc kinh tế xảy ra. Hơn nữa, vốn tự có
mỏng sẽ làm các nhà đầu tư mất lòng tin dẫn đến việc không thể mở rộng được nguồn
vốn thông qua hình thức lên sàn chứng khoán. Còn nếu DN sử dụng vốn vay quá lớn thì
việc trả nợ sẽ trở thành áp lực lớn cho DN, phần lãi lớn phải trả sẽ làm tăng chi phí , ảnh
hưởng đến lợi nhuận của DN. Do vậy buộc DN phải tự tạo cho mình một cơ cấu vốn phù
hợp trong việc sử dụng vốn tự có và vốn vay sao cho hợp lý nhất.
• Tín dụng NH tạo điều kiện cho DNV&N sản xuất kinh doanh thường
xuyên, liên tục, mở rộng.
Từ khi thành lập cho đến khi đi vào hoạt động, DNV&N đều có thể ở trong tình

trạng thiếu vốn thuê mặt bằng, mua trang thiết bị, đổi mới công nghệ…dẫn đến không
thành lập được. Thậm chí ngay cả khi đã thành lập thì DN cũng không có đủ vốn để quay
vòng sản xuất hay đổi mới thiết bị, đào tạo cán bộ..khiến cho chất lượng sản phẩm kém,
tính cạnh tranh thấp, chi phí cao, lợi nhuận và doanh thu thấp. Tín dụng NH không những
giúp DN mở rộng, phát triến mà còn chuyên môn hóa cho DN.
• Tín dụng NH giúp các DNV&N tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trước hết, để vay được vốn của NH thì bản thân các DN phải có chỗ đứng trên thị
trường. Điều này là hết sức khó khăn với các DN nhỏ vì hầu như quy mô nhỏ bé mà
thương hiệu thì chưa thể cạnh tranh với các DN lớn. Bởi vậy họ chỉ có thể tiếp cận nguồn
vốn NH bằng các dự án kinh doanh có hiệu quả và những con số thực sự tạo lòng tin cho
NH. Vì vậy ngay từ khi lập phương án kinh doanh thì chính DN đã phải tự nghiên cứu
phương án của mình và phân tích, xây dựng sao cho tính khả thi là cao nhất. Tiếp đến,


sau khi nhận được nguồn tài trợ từ NH thì các DN này lại nhận đc sự tư vấn và kiểm tra
giám sát của NH nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn đúng và hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay
NH, các DN không chỉ suy nghĩ sao cho sử dụng vốn có hiệu quả mà còn phải đảm bảo
đồng vốn phải sinh được đồng lãi để vừa có lợi nhuận, vừa có lãi trả NH. Trên cơ sở đó,
các DNV&N ngày càng hoàn thiện hơn và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, DNV&N có thế ra đời, tồn tại và phát triển vững mạnh thì sự có mặt của
tín dụng NH là cần thiết . Bởi vậy việc mở rộng tín dụng NH đối với DNV&N là tất yếu.
1.2.3. Sự tiếp cận vốn tín dụng NH của các DNV&N :
Theo số liệu điều tra của Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) mới đây cho thấy, ngay cả trong điều kiện lạm phát,
trên 90% DNV&N vẫn có nhu cầu vay vốn. Tuy nhiên, chỉ hơn 10% được vay 100% theo
nhu cầu. DN có cầu vay vốn trong khi cung từ phía NH là hạn chế. Tính đến tháng 8/
2007, ước tính có đến 80% lượng vốn cung ứng cho DNV&N từ kênh NH. Nhưng thực tế
chỉ có 32,28% DNV&N có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của các NH, 35,24%
khó tiếp cận và 32,38% không thể tiếp cận được. Điều này được xác định là các nguyên

nhân sau: thứ nhất là khả năng tài chính yếu của DNV&N, việc tiếp cận nguồn tín dụng
NH chưa cao. Nguyên nhân là do năng lực quản lý kém, chưa chuẩn bị được các dự án
khả thi, không được tín chấp. Khảo sát cho thấy, đa số các công ty vay được vốn chủ yếu
là dựa vào tài sản thế chấp trong khi DNV&N lại khó đáp ứng được yêu cầu này. Thứ
hai, các NH hiện nay chưa chú trọng đến đối tượng DNV&N, một phần là do họ chưa có
hệ thống đánh giá đầy đủ, chính xác về đối tượng này. Các nguyên nhân trên khiến cho
DNV&N đã mỏng về vốn lại càng khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn từ NH. Tuy nhiên,
trong thời gian gần đây, về phía các NH đã có những động thái hỗ trợ tích cực cho đối
tượng khách hàng này. Chẳng hạn cách chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở
một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay để đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn.
Như NHTM Cổ phần ngoài quốc doanh (VPBank), ngoài các khách hàng truyền thống,
NH này sẽ từ chối các khoản vay mới trên 15 tỷ đồng để “chia” lượng tín dụng đó cho
những khoản vay nhỏ hơn. Với Vietcombank, từ một NH bán buôn cũng đã chuyển dần
sang mô hình bán lẻ. Theo đó, cơ hội tiếp cận vốn từ NH này cũng thuận lợi hơn. Quy mô
vốn cho DNV&N của NH này cũng đã tăng từ 500 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng…Nhưng
qua khảo sát của phóng viên tại một số NHTM cổ phần và NHTM quốc doanh: trong 100
hồ sơ vay vốn ngẫu nhiên của các DNV&N thì chỉ có khoảng từ 35 – 40 hồ sơ có thể
được chấp nhận cấp vốn, tức là chỉ có khoảng 30%-40% hồ sơ vay vốn được chấp nhận.
Như vậy, thực tế khả năng tiếp cận vốn NHTM của các DNV&N vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa thực sự được như DN mong muốn.
1.3.

Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ :


1.3.1. Khái niệm :
“ Mở rộng” là có sự thay đổi dẫn đến sự lớn hơn về quy mô và phạm vi. Hay nói
cách khác thì “ mở rộng” chính là sự tăng trưởng theo chiều ngang về quy mô, khối
lượng và số lượng để phân biệt với sự tăng trưởng theo chiều sâu. Như vậy, mở rộng tín
dụng NH đối với DNV&N là những hoạt động tín dụng của NH nhằm thỏa mãn và

mở rộng hơn nữa đối tượng khách hàng là DNV&N.
Mở rộng tín dụng đòi hỏi NH phải đa dạng hóa đối tượng, đa dạng hóa các sản
phẩm tín dụng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu hợp lý của khách hàng, trên cơ sở vẫn chú
trọng đến chất lượng tín dụng đã cung cấp. Do đó để mở rộng đối với DNV&N, NH sẽ
phải mở rộng mạng lưới cấp tín dụng, tăng tỷ trọng tín dụng đối với DNV&N, tiến hành
mở rộng thị phần cho vay với DNV&N.

1.3.2. Cơ sở để mở rộng tín dụng ngân hàng :
Với quá trình hội nhập kinh tế và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các NHTM
hiện nay đều muốn mở rộng tín dụng đối với các DNV&N, để có thể tăng sức cạnh tranh
và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, để có thể mở rộng tín dụng đối với đối tượng này,
cần phải có những cơ sở nhất định. Đó là :
• Tiềm năng của chính Ngân hàng :
Việc các Ngân hàng gia nhập WTO đã và đang tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho
nền kinh tế nước ta. Sự tăng trưởng GDP, kéo theo là sự tăng lên của nguồn vốn huy
động được từ dân cư, đã làm mạnh thêm tiềm lực về vốn cho các NH. Đồng thời, trong
quá trình hội nhập, các NHTM tiếp cận với nền khoa học công nghệ hiện đại, giúp cho
NH đánh giá, nhận định về khách hàng tốt hơn, từ đó sẽ giảm được rủi ro và đây chính là
cơ sở cho việc mở rộng tín dụng đối với DNV&N.
• Nhu cầu của khách hàng :
Hiện nay, như đã đề cập ở trên, nhu cầu tiếp cận với nguồn vốn tín dụng NH của
các DNV&N là rất lớn. Nhưng không phải tất cả các DNV&N có nhu cầu đều có thể tiếp
cận được với nguồn vốn này. Điều này khiến cho quá trình mở rộng tín dụng NH đối với
DNV&N là hoàn toàn có thể thực hiện được.
1.3.3. Sự cần thiết của mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với DNV&N :
a. Đối với ngân hàng :
Trong điều kiện khủng hoảng, các NH phải đối mặt với việc bị nhu cầu vay vốn
tiêu dùng giảm mạnh. Người dân không mặn mà với việc vay tiền để mua sắm, đầu tư…



Thị trường chứng khoán sau những giai đoạn thăng hoa thì giờ lại trở lại đúng thực trạng,
giá vàng và giá đôla thì diễn biến bất thường. Điều này đã làm giảm đáng kể nguồn thu từ
NH và buộc NH phải tìm đến một đối tượng khách hàng khác. Đó chính là DNV&N vì
trong khi các DN lớn thì có thể tìm nguồn tài trợ trên thị trường chứng khoán thì các
DNV&N lại luôn thiếu vốn và khát vốn. Việc mở rộng này là hết sức có lợi cho NH. NH
không những giải quyết được vấn đề đầu ra của vốn mà còn thu hút thêm khách hàng cho
những dịch vụ : tư vấn, thanh toán, đầu tư…Bởi DNV&N không chỉ có nhu cầu sử dụng
vốn mà với sự quen biết, tín nhiệm, các DN này còn muốn sử dụng các dịch vụ khác của
NH. Chính những nhu cầu này của khách hàng đã làm tăng đáng kể nguồn thu cho NH.
Hơn nữa việc mở rộng tín dụng cho DNV&N tạo ra những mối quan hệ mới cho
NH, giúp NH quảng bá hình ảnh và thương hiệu trong thế giới các doanh nhân, giảm
được chi phí tìm kiếm khách hàng, tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi theo hướng có ích.
b. Đối với DNV&N :
Đầu tiên, việc mở rộng tín dụng này sẽ giải quyết thêm nhiều nhu cầu vay vốn hơn
cho DN. DNV&N sẽ có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, mua mới hoặc tân trang
thiết bị, máy móc hay thực hiện các dự án kinh doanh có tính khả thi cao nhưng thiếu
vốn. Từ đó, DN có thể tìm kiếm lợi nhuận, tồn tại, phát triển và nâng cao tính cạnh tranh
trên thị trường.
Hơn nữa, đây là một động lực quan trọng giúp DNV&N nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn do DN phải thực sự nỗ lực hoạt động, phải minh bạch tài chính để có thể tạo lợi
nhuận trả nợ và lãi cho NH, tạo uy tín lâu dài với bạn hàng, nhà đầu tư và NH. Và hơn
thế nữa là dưới sự kiểm tra, giám sát và tư vấn của NH thì DN có thể phát huy năng lực
của mình.
c. Đối với nền kinh tế :
Việc mở rộng tín dụng NH sẽ giúp cả DN và NH giải quyết được bài toán về vốn
để cùng tìm kiếm lợi nhuận. NH thì tìm kiếm thêm được một nguồn thu từ lãi, từ dịch vụ
lớn làm cơ sở để đáp ứng nhu cầu cho vay các đối tượng khác, đầu tư sinh lợi nhuận, phát
triển dịch vụ…Còn các DNV&N thì hoạt động có hiệu quả hơn, mở rộng sản xuất hơn,
giải quyết được nhiều công ăn việc làm hơn và đóng góp nguồn thu đáng kể vào NSNN.
Mở rộng tín dụng với DNV&N góp phần làm cho vốn được luân chuyển hiệu quả đến

những nơi thực sự khát vốn trong nền kinh tế.
Như vậy, có thể nói mở rộng hoạt động cho vay DNV&N của NHTM có vai trò vô
cùng quan trọng không chỉ đối với bản thân NH và DN mà cho cả nền kinh tế. Mở rộng
hoạt động cho vay giúp NH nâng cao mức thu nhập đồng thời giúp cho các DNV&N
khắc phục được những nhược điểm về vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và


năng lực cạnh tranh trên thị trường từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và ổn định
xã hội.
1.3.4. Các tiêu thức đánh giá mức độ mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với DNV&N :
Việc đánh giá kết quả mở rộng tín dụng NH đối với DNV&N có thể dựa vào một
số tiêu thức sau :
a.

Tốc độ tăng trưởng khách hàng là DNV&N:

Số lượng khách hàng là
DNV&N tăng các năm

=

DNV&N năm (t) – DNV&N năm (t-1)

x

DNV&N năm (t-1)

100%

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng trưởng về số lượng DNV&N năm nay so với

năm trước là bao nhiêu.
Tổng số lượng DNV&N được vay vốn
Tỷ trọng DNV&N được
=
vay vốn tại NH
Tổng số lượng DNV&N đề nghị vay vốn

x

100%

Số DNV&N đề nghị NH vay vốn là tổng số lượng DNV&N có nhu cầu về vốn tại
thời điểm nhất định.
b. Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay đối với DNV&N :
Doanh số cho vay đối với DNV&N là tổng số tiền mà Ngân hàng đã thực sự giải
ngân cho khách hàng được tính trong một thời gian nhất định.
Mức tăng doanh số
Tổng doanh số
=
cho vay DNV&N
DNV&N năm ( t )

cho

vay

-

Tổng doanh số cho vay
DNV&N năm ( t – 1 )


Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về quy mô tín dụng đối với DNV&N.
Tốc độ tăng
Mức tăng trưởng doanh số cho vay DNV&N
doanh số cho =
Tổng doanh số cho vay DNV&N năm (t – 1)
vay DNV&N

x 100%

Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi của doanh số cho vay năm nay so với doanh số
cho vay năm trước là bao nhiêu. Qua đó biết được xu hướng cho vay DNV&N là mở
rộng hay thu hẹp.
c. Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNV&N :
Dư nợ Tín dụng thể hiện quy mô của hoạt động Tín dụng tại một thời điểm nhất
định


Tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N

=

Dư nợ cho vay DNV&N
Tổng dư nợ cho vay

x

100%

Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ cho vay DNV&N chiếm bao nhiêu % trong

tổng dư nợ cho vay của Ngân hàng.
Tốc độ tăng trưởng
Dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay
cho vay đối với các
DNV&N năm(t-1)
= DNV&N năm (t)
DNV&N
Dư nợ cho vay DNV&N năm (t- 1)

Dư nợ cho vay một DNV&N
Tỷ trọng dư nợ cho vay
=
một DNV&N
Tổng dư nợ cho vay

x 100%

d. Các ngành nghề hoạt động của DN mà NH cho vay:
Với tiêu thức này thì xem xét trong những thời kỳ khác nhau thì các lĩnh vực hoạt
động của DN mà NH cho vay có được mở rộng, bổ sung hay không. Những lĩnh vực hoạt
động đó bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, hay là dịch vụ.
e. Các loại hình DN mà NH cho vay:
Trên thực tế, có rất nhiều loại hình DN. Vấn đề cần xem xét ở đây là các ngành nghề
có được bổ sung hay không. Các loại hình DNV&N chủ yếu bao gồm: Công ty TNHH,
Hợp tác xã, DN tư nhân…
f. Các hình thức Tín dụng được mở rộng:
Cần quan tâm các Ngân hàng đã mở rộng tín dụng được theo những hình thức như
thế nào? Các hình thức mở rộng Tín dụng chủ yếu bao gồm: cho vay, cho thuê tài chính,
bảo lãnh, thanh toán, chiết khấu…

1.3.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với DNV&N :
a. Các nhân tố khách quan :
-

Môi trường pháp lý

Các yếu tố pháp lý trong nền kinh tế là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho
sự phát triển xã hội. Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động NH nói
chung và hoạt động cho vay nói riêng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả cho vay của
NH. Pháp luật ban hành không hợp lý, đồng bộ sẽ gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh


của các DN cũng như hoạt động của NH. Ngược lại, hệ thống pháp luật đồng bộ và hợp
lý sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tạo
điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh; bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho NH và cả
khách hàng, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho NH và DN…
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản
pháp luật có liên quan đến quan hệ cho vay của NHTM như: Luật các tổ chức tín dụng,
luật DN, Nghị định số 90/2001/ NĐ-CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển DNV&N,
Quyết định số 193/2001/TT-BTC ngày 29/09/2001 về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng
cho các DNV&N, Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20/02/2006 của Ngân hàng Nhà
nước về hướng dẫn một số nội dung về thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các
DNV&N…
-

Môi trường kinh tế

Sự phát triển kinh tế của đất nước có tác động rất nhiều đến hoạt động cho vay bởi
nhu cầu tín dụng của các DN phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế
có mức tăng trưởng ổn định sẽ tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh phát triển, nhu

cầu tiêu dùng của dân cư tăng lên, đó cũng là cơ hội tốt cho các DN đầu tư mở rộng sản
xuất, do đó nhu cầu tín dụng của DN cũng được tăng lên tương ứng tạo điều kiện cho các
NHTM mở rộng hoạt động cho vay. Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định làm cho giá cả
ổn định, tình trạng lạm phát ở mức kiểm soát sẽ tạo điều kiện cho NH mở rộng quy mô
hoạt động và tránh được những thiệt hại cho NH do sự mất giá của đồng tiền từ đó tạo
điều kiện nâng cao hiệu quả cho vay của NH. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn
trì trệ, suy thoái, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, quy mô sản xuất bị thu hẹp, nhu cầu đầu
tư bị giảm mạnh, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng của NH gặp khó khăn trong
việc trả nợ, hiệu quả cho vay của NH bị giảm sút.
-

Môi trường chính trị - xã hội

Một quốc gia có môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện
thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư. Xã hội có ổn định thì nền kinh tế mới phát triển
được, bất cứ một sự biến động nào về chính trị hay xã hội cũng đều gây ra sự xáo động
cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó, nó có tác động đáng kể tới các hoạt động của cả NH và
DN.
-

Các chủ trương chính sách vĩ mô của Nhà nước

Các chủ trương chính sách của Nhà nước có tác động rất lớn đối với hoạt động
cho vay của NH bằng việc Nhà nước đưa ra những định hướng, chính sách, mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội, đặc biệt là chính sách tiền tệ quốc gia. Bởi hoạt động cho vay của
NHTM chịu tác động trực tiếp từ các công cụ của chính sách tiền tệ như: tỷ lệ dự trử bắt


buộc, nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và tái chiết khấu… Ngoài ra, các
chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu… có tác động

đến mọi mặt của toàn bộ nền kinh tế, vì thế nó tác động trực tiếp đến các DN. Nếu như
các chính sách này không tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, gây khó khăn cho
các DN trong sản xuất kinh doanh thì chắc chắn hiệu quả cho vay của các NHTM cũng sẽ
bị giảm sút.
-

Các yếu tố bất khả kháng

Các DN trong quá trình sản xuất kinh doanh có thể phải đối mặt với những yếu tố
bất khả kháng như: thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, hoặc những thay đổi ở tầm vĩ mô…
vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường
xuyên xảy ra, tác động liên tục đến người vay, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho
người vay. Trong nhiều trường hợp người vay có thể dự báo, thích ứng hoặc khắc phục
được những khó khăn; đôi khi người vay bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho NH
đúng hạn đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những yếu tố bất khả kháng đối
với người vay là rất nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. Điều này ảnh hưởng
đến hiệu quả cho vay của NH.
b. Các nhân tố chủ quan :
* Các nhân tố thuộc về bản thân NH
Là những nhân tố vô cùng quan trọng quyết định đến hoạt động cho vay của các
NHTM. Bao gồm:
-

Chiến lược kinh doanh của NH

Chiến lược kinh doanh là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của
NH. Dựa trên cơ sở đưa ra các chiến lược kinh doanh đúng đắn thì NH mới có những kế
hoạch triển khai phù hợp cho từng thời kỳ nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu đặt ra.
Những kế hoạch có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả cho vay như: kế hoạch tăng trưởng
tín dụng, kế hoạch huy động vốn, kế hoạch Maketing NH…

-

Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng của một NHTM là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc
mở rộng hay thu hẹp tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định của NH đó. Chính sách
tín dụng phản ánh hoạt động tài trợ của NH, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín
dụng và nhân viên NH, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự
thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng
sinh lời. Chính sách tín dụng bao gồm: chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới
hạn tín dụng, chính sách về lãi suất và phí suất tín dụng, chính sách về thời hạn và kỳ hạn


nợ, chính sách về tài sản đảm bảo… Các chính sách này đảm bảo cho hoạt động tín dụng
đi đúng hướng, có ý nghĩa quyết định thành công hay thất bại của hoạt động tín dụng nói
chung và của hoạt động cho vay nói riêng. Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút
nhiều khách hàng vay vốn, đảm bảo khả năng sinh lời trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật, đường lối chính sách của Nhà nước. Như vậy, một chính sách tín dụng hợp lý
sẽ đảm bảo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi vay vốn cũng như đảm bảo an toàn
trong hoạt động cho vay của NH.
-

Phân tích tín dụng

Tín dụng là hoạt động sinh lời cao nhất song cũng là hoạt động rủi ro nhất của
NHTM. Rủi ro này do rất nhiều nguyên nhân, có thể gây ra tổn thất làm giảm thu nhập
của NH. Do vậy, các NH cần cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời
khi đưa ra quyết định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng. Phân tích tín
dụng phải được thực hiện trước, trong và sau khi cho vay. Đây là một công việc hết sức
quan trọng quyết định đến chất lượng của hoạt động cho vay. Nếu việc phân tích tín dụng

không thực hiện đầy đủ thì NH không nắm được những thông tin về khách hàng, không
xác định được những rủi ro có thể xảy ra. Do vậy, hiệu quả cho vay của NH có thể sẽ bị
giảm sút.
-

Quy trình cho vay

Quy trình cho vay là thứ tự các bước mà cán bộ tín dụng và những người có liên
quan, có thẩm quyền cần thực hiện trong quá trình cho vay. Nó được bắt đầu từ khi tiếp
xúc khách hàng để chuẩn bị lập hồ sơ vay vốn cho đến khi thu hồi được hết nợ và lưu lại
các thông tin về khách hàng.
Hiệu quả cho vay có được đảm bảo hay không phụ thuộc nhiều vào quy trình tín
dụng của NH. Việc thực hiện tốt các nội dung, quy định trong từng bước cùng với với
việc phân tích tín dụng hiệu quả sẽ giúp NH tránh được rủi ro cũng như nâng cao được
hiệu quả cho vay.
Trong quy trình cho vay, NH cần chú ý đến một số bước quan trọng như: tiếp xúc
tìm hiểu khách hàng, thẩm định, phân tích hồ sơ vay vốn, kiểm tra sử dụng vốn vay, thu
nợ gốc và lãi.
+ Tiếp xúc tìm hiểu khách hàng là một khâu quan trọng trong quá trình cho vay.
Trong giai đoạn này nhân viên NH cần thu thập được đầy đủ thông tin, có được những
thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực để có được những đánh giá đầy đủ và tổng thể về
khách hàng làm cơ sở cho việc quyết định cho vay và đề xuất hạn mức cho vay đối với
khách hàng.


+ Thẩm định và phân tích hồ sơ vay vốn phải đảm bảo phân tích chính xác tính khả
thi của phương án sản xuất kinh doanh, của các dự án đầu tư của DN cũng như khả năng
sinh lời của dự án và hiệu quả kinh tế mà dự án mang lại… Hơn nữa, còn đảm bảo đánh
giá đúng tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính và khả năng trả nợ
của DN.

+ Kiểm tra sử dụng vốn vay: là bước giúp NH hàng nắm được diễn biến của khoản
vốn đã cung cấp cho khách hàng để NH có những điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm
ngăn ngừa được rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình thức
kiểm tra sử dụng vốn giúp NH thiết lập được hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, tránh được
tổn thất cho NH.
+ Thu hồi nợ gốc và lãi: là khâu rất quan trọng, cho biết hoạt động cho vay của NH
có thực sự mang lại lợi nhuận cho NH hay không? Sự nhạy bén của NH trong việc phát
hiện kịp thời những biểu hiện bất lợi có thể xảy ra do doanh nghiệp mang lại và đưa ra
những biện pháp xử lý kịp thời sẽ làm giảm tối thiểu những khoản nợ quá hạn, hạn chế
đến mức thấp nhất những tổn thất cho NH.
-

Hệ thống thông tin tín dụng

Hệ thống thông tin hữu hiệu, nắm bắt kịp thời chính xác luồng thông tin về khách
hàng là điều kiện để xem xét và đưa ra quyết định cho vay, đề phòng được những rủi ro
có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của NH.
Đối với các NHTM, việc xây dựng hoàn chỉnh một hệ thống thông tin tín dụng với
nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp, xử lý thông tin kịp thời… là một trong những điều
kiện quyết định sự thành công trong công tác kinh doanh và nâng cao hiệu quả cho vay
của NHTM.
-

Hiệu quả công tác huy động vốn

Một trong những chức năng quan trọng của NH đó là chuyển tiết kiệm thành đầu
tư. Do đó, NH có thực hiện tốt công tác huy động vốn thì mới mở rộng được hoạt động
cho vay. Nếu NH có một chính sách tín dụng hợp lý, có chiến lược khách hàng tốt, thu
hút được nhiều khách hàng vay vốn có uy tín thì sẽ mang lại cho NH nguồn thu nhập
đáng kể.

-

Công tác thanh tra, kiểm tra

Công tác này phải được thực hiện song song kết hợp giữa thanh tra - kiểm tra ngân
hàng và kiểm tra, giám sát DN. Việc thanh tra, kiểm tra phải được thực hiện một cách
khách quan, trung thực có như vậy mới giúp NH tránh được những rủi ro do yếu tố chủ
quan mang lại.


-

Trình độ của cán bộ NH

Con người là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của bất cứ DN nào, hoạt động cho vay của NH cũng không nằm ngoài sự
tác động đó. Hiệu quả cho vay cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào công tác tuyển chọn
và đào tạo đội ngũ cán bộ của mỗi NHTM. Một NHTM với đội ngũ cán bộ nhân viên có
trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo đức tốt thì sẽ thực hiện các nghiệp vụ NH nói
chung và nghiệp vụ cho vay nói riêng một cách hệ thống, chuyên nghiệp và đạt hiệu quả
cao hơn.
* Các nhân tố thuộc về DN :
Đặc điểm chung của các DNV&N hiện nay là năng lực tài chính yếu kém, thiếu tài
sản thế chấp, phương án sản xuất kinh doanh chưa có tính khả thi cao, thông tin kế toán
chưa đáng tin cậy, trình độ quản lý của chủ DN yếu kém nên nhiều DN chưa đủ sức để
cạnh tranh trên thị trường. Điều này có thể dẫn đến việc sản xuất kinh doanh không hiệu
quả, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho NH làm cho hoạt động cho vay của NH không
có hiệu quả. Ngoài ra, do quy mô vốn nhỏ, DN thiếu tài sản thế chấp để vay vốn hoặc có
nhưng không đủ điều kiện. Các DNV&N chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa
phương nên trình độ chuyên môn, tay nghề của lao động thấp, kể cả chủ DN. Nhiều DN

chưa xây dựng được các phương án sản xuất kinh doanh, các dự án đầu tư có tính khả thi
cao để thuyết phục các NH bỏ vốn đầu tư làm cho hoạt động cho vay DNV&N của NH
kém hiệu quả.
Đặc biệt trình độ yếu kém của DN trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém
trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ NH, chây lì… là nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng, ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của NH. Rất nhiều khách hàng sẵn sàng mạo hiểm
với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm
mọi thủ đoạn ứng phó với NH như cung cấp thông tin sai, mua chuộc… Nhiều DN đã
không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có
thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong
trường hợp còn lại nhiều DN kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho NH đúng hạn.
Họ hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Sử dụng vốn là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả
cho vay của NH. DN sử dụng vốn của NH không đúng đối tượng kinh doanh, không
đúng với phương án, mục đích xin vay, thậm chí có một số DN còn sử dụng vốn vay
ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh doanh bất động sản… làm cho vốn đầu tư
của NH đứng trước rủi ro lớn, hiệu quả cho vay của NH bị giảm sút.
Như vậy, DNN&V là đối tượng khách hàng lớn và đầy tiềm năng mang lại cho các
NH nguồn thu nhập đáng kể. Hoạt động cho vay của NHTM có hiệu quả hay không
không những phụ thuộc vào khả năng, trình độ chuyên môn của NH mà còn phụ thuộc
nhiều vào bản thân các DN. DN có hoạt động hiệu quả, thực hiện đúng nguyên tắc vay


vốn thì cùng với đó hoạt động cho vay của NH mới có hiệu quả. Điều đó thể hiện chất
lượng của hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng được biểu hiện cụ thể qua các chỉ tiêu
có thể tính toán được như: kết quả kinh doanh, dư nợ, nợ quá hạn… và được trình bày cụ
thể ở nội dung của chương tiếp theo.
1.4. Kinh nghiệm mở rộng tín dụng đối với DNV&N ở một số quốc gia trên thế
giới :
1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc :

Theo các chuyên gia, kinh nghiệm cho vay DNV&N của Ngân hàng Phát triển
Trung Quốc (CDB) là NH thực hiện việc hỗ trợ tài chính, còn chính quyền địa phương
chịu trách nhiệm điều phối tín dụng. Trung Quốc còn thành lập một hệ thống bảo lãnh tín
dụng cho DNV&N, hợp tác với NH thế giới và các NH nhỏ khác thực hiện cho vay đối
với các DN siêu nhỏ. Điều này lý giải vì sao chỉ với 4.000 nhân viên, CDB có thể hỗ trợ
tới 16.050 DNV&N hoạt động trên một địa bàn rộng lớn (549 quận - huyện) với dư nợ
lên tới 16,79 tỷ nhân dân tệ.

1.4.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản :
Kinh nghiệm của Công ty Tài chính DNV&N ở Nhật Bản (JASME) là mở rộng
cho vay trên cơ sở xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn phân tích tình hình tài chính và
mức độ rủi ro tín dụng của loại hình DN. Theo đó, dựa trên hệ số tín nhiệm, JASME xem
xét cho vay mà không cần có tài sản đảm bảo. Đổi lại, JASME áp dụng một hệ thống tính
phí bảo hiểm khoản vay dựa trên cơ sở rủi ro tín dụng. Nhật bản đã thực hiện chương
trình “ hiện đại hóa” DNV&N với hàng loạt các chính sách tập trung vào : xúc tiến hiện
đại hóa hạ tầng kinh doanh cho các DNV&N, hiện đại hóa các thể chế quản lý, thành lập
trung tâm hộ trợ DNV&N, cung ứng các hoạt động tư vấn cho DNV&N, áp dụng các giải
pháp tài chính cho DNV&N…Các biện pháp trên dã giúp các DNV&N tiếp cận được
nguồn vốn NH với sự giúp đỡ của 2 NH lớn : NH Shoko Chukin Bank ( SCB) và NH
phát triển Nhật bản ( DBJ).
1.4.3. Kinh nghiệm của các nước châu Âu :
Các nước này đã áp dụng chính sách tín dụng hỗ trợ DN như : ngăn chặn việc các
DN lớn trì hãn thanh toán cho các DNV&N, hỗ trợ tài chính cho hiện đại hóa công nghệ
thiết bị, hỗ trợ tài chính cho việc áp dụng công nghệ tin học và quản lý và phân tích kinh
tế, hỗ trợ tài chính cho các DNV&N phát triển mạng lưới thông tin tiếp thị, cho phép các
quỹ đầu tư tham gia vốn vào các DNV&N. Ngoài ra Chính phủ còn lập các NH để cung
cấp tài chính cho các DNV&N thông qua các quỹ : quỹ bảo lãnh tín dụng công nghệ cho
DNV&N, quỹ hỗ trợ DNV&N mới thành lập, quỹ bảo lãnh tín dụng nói chung cho
DNV&N sử dụng và phát triển công nghệ mới, cho phép các DNV&N liên kết với nhau



để hình thành quỹ tương trợ trên cơ sở cùng góp thêm vốn vào phần tài trợ ban đầu của
Nhà nước để ngăn chặn tình trạng phá sản dây chuyền.
1.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam :
Thứ nhất : linh hoạt hình thức cho vay có đảm bảo.
Đây là hình thức mở rộng hình thức cho vay có bảo đảm bằng hàng hóa, dịch vụ.
NH có thể giải ngân dựa trên phương án sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của
sản phẩm, uy tín của DN. Và đặc biệt là NH có thể phát triển hình thức cho vay có đảm
bảo bằng các khoản sẽ phải thu của DN.
Thứ hai : cần nhanh chóng triển khai mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng.
Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay không đủ điều kiện về
thế chấp tài sản và cam kết trả nợ thay cho các DNV&N. Chính thức được triển khai từ
10/2/2009, nguồn quỹ dự phòng rủi ro bảo lãnh vay vốn là 200 tỉ đồng được chính phủ
giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam làm đầu mối (VDB). Những DN thuộc các
thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa
500 lao động sẽ được bảo lãnh vay vốn. Quy mô dự án, phương án sản xuất kinh doanh
của DN tối thiểu là 100 triệu đồng, không nợ quá hạn tại các tổ chức tín dụng, không nợ
thuế, có vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 10% và sử dụng 100% giá trị tài sản hình
thành từ vốn vay để thế chấp bảo đảm bảo lãnh. Số tiền được bảo lãnh tối đa bằng 100%
số nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa hai bên với mức phí
bảo lãnh tối đa bằng 0,5%/năm/số tiền bảo lãnh. Điều này cho thấy biện pháp này đã bắt
đầu được chú ý ở nước ta.
Thứ ba : thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với các DNV&N.
NH phải xác định chiến lược hoạt động dành cho khách hàng là DNV&N. Chính
sách này phải hướng tới việc thu hút thêm nhiều DNV&N và ưu đãi đối với các DNV&N
có quan hệ tín dụng thường xuyên và tốt với NH. Chẳng hạn như về chính sách tín dụng
thì NH phải có sự hướng dẫn cho vay riêng biệt đối với đối tượng là DNV&N, mở rộng
việc cấp tín dụng trên cơ sở cho vay theo dự án đầu tư : thương mại, dịch vụ, đổi mới
máy móc thiết bị, cho vay theo phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ : cho vay bổ
sung vốn lưu động mua nguyên, nhiên, vật liệu và các chi phí phục vụ cho sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ, cho vay mua phương tiện vận chuyển, cho vay tài trợ thực hiện các hợp
đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, cho vay các nhu cầu về tài chính : nộp thuế, mua cổ phần,
cổ phiếu , cầm cố, chiết khấu GTCG. Ví dụ như chính sách mà NH MHB đã áp dụng đối
với các DNV&N sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả, có quan hệ tín dụng với
MHB từ 2 năm trở lên, trả nợ gốc, nợ lãi vay đủ đúng hạn, được MHB xem xét quyết
định cho vay với lãi suất thấp hơn tối đa là 10% lãi suất cho vay cùng loại. Trường hợp
DNV&N vừa có quan hệ tín dụng với MHB vừa sử dụng các dịch vụ NH của MHB như
mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, mua bán ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh… có
thể được MHB xem xét quyết định áp dụng chính sách khách hàng với lãi suất cho vay


thấp hơn lãi suất cho vay cùng loại tối đa là 15%, hoặc giảm thu phí dịch vụ tối đa là 20%
phí dịch vụ cùng loại. MHB chấp nhận các loại tài sản bảo đảm như bất động sản : đất
đai, nhà xưởng, động sản: máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển, nguyên vật liệu,
hàng hóa, các giấy tờ có giá, cổ phiếu, trái phiếu, tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh
của bên thứ ba.
Thứ tư : góp phần đầu tư liên doanh, liên kết với DNV&N.
Để mở rộng tín dụng, NH không nhất thiết chỉ cho DN vay vốn mà có thể lựa chọn
xem DN nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng thì NH có thể thỏa thuận ký hợp đồng liên
doanh, liên kết với những DN đó để cùng sản xuất, kinh doanh. Như vậy, NH không
những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường, đồng thời trực
tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay.

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHNo&PTNT CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI
2.1.

Khái quát về hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội

2.1.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội trong năm2008 :

Năm 2008, GDP tăng 10,58% so năm 2007, trong đó ngành công nghiệp tăng
11,7%, dịch vụ tăng 10,8% và nông, lâm, thuỷ sản tăng 2,7%. Ước tính cả năm 2008, Hà
Nội thu hút được khoảng 300 dự án với vốn đầu tư đăng ký khoảng trên 5 tỷ USD (tăng
53,3%); trong đó cấp mới 270 dự án, với vốn đầu tư ước tính 4,4 tỷ USD (tăng 54,9%),
bổ sung tăng vốn 30 dự án (tăng 3,4%) với khoảng 0,6 tỷ USD (tăng 42,2%). Dự kiến
vốn đầu tư xã hội năm 2008 là 97.697 tỷ đồng, tăng 19,3% so năm 2007, trong đó vốn
đầu tư Nhà nước giảm 22,1%, vốn đầu tư của DNNN tăng 12,9%, vốn đầu tư của kinh tế
ngoài Nhà nước tăng 29,2%, dân cư đầu tư tăng 37,9% và vốn đầu tư nước ngoài tăng
13,1%. Tổng mức và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước tăng 28,2% so với năm
2007, trong đó tổng mức bán lẻ tăng 31,2%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so
tháng trước giảm 1,3%, tăng 22,92% so với năm 2007, chỉ số giá vàng tăng 32,72%, chỉ
số giá Đôla Mỹ tăng 3,25%. Tổng nguồn vốn huy động là 428.092 tỷ đồng, tăng 6,45%
so tháng trước và tăng 10,6% so cùng kỳ năm trước, trong đó tiền gửi dân cư tăng
15,34% và 15,8%, tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng 0,3% và 7,01%. Tổng dư nợ cho vay
đến cuối tháng 12 năm 2008 đạt 258.869 tỷ đồng, tăng 23,48% so tháng trước và tăng
27% so cùng kỳ năm trước, trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 19,81% và 25,03%, dư nợ
trung và dài hạn tăng 29,22% và 30,09%.


Năm 2008, kinh tế Hà Nội tiếp tục tăng trưởng. từng bước phát triển theo hướng
nâng cao chất lượng, ổn định và bền vững, tăng trưởng đồng đều ở các thành phần kinh
tế.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội :
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam Chi nhánh Bắc Hà Nội
là một Chi nhánh cấp 1 trong mạng lưới Chi nhánh của NHNo&PTNTVN. Chi nhánh
Bắc Hà Nội được thành lập theo quyết định số 342/QĐ/HĐQT-TTCB của Chủ tịch Hội
đồng quản trị NHNo&PTNTVN ngày 05 tháng 9 năm 2001.
Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu như sau :
1. Huy động vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với nhiều hình thức như tiền gửi
tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành kỳ phiếu, tín phiếu chứng chỉ tiền gửi với lãi suất

hấp dẫn và phương thức thanh toán linh hoạt; Chiết khấu các loại chứng từ có giá với
mức chi phí hợp lý.
2. Đầu tư vốn tín dụng bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ với lãi suất thích hợp: Cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn và cho vay chiết khấu các loại giấy tờ có giá, cho vay tài
trợ theo chương trình, dự án, cho vay đồng tài trợ với các NHTM bạn, cho vay tài trợ
xuất nhập khẩu, cho vay dài hạn các dự án lớn, cho vay khép kín các chu trình sản xuất lưu thông, cho vay các chương trình chỉ định của Chính phủ...
3. Thanh toán bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ: Thanh toán chuyển tiền điện tử
trong cả nước, thanh toán Quốc tế qua mạng SWIFT, TELEX, thanh toán L/C, thanh toán
tiền gửi và các giấy tờ có giá, thanh toán biên giới...
4. Bảo lãnh bằng đồng Việt Nam ngoại tệ: Bảo lãnh thư tín dụng hoặc tái bảo lãnh
tín dụng, bảo lãnh đấu thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh, tái bảo
lãnh hoặc đồng bảo lãnh cho các doanh nghiệp, tổ chức tài chính tín dụng trong nước và
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
5. Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối ngoại: Tiếp nhận và triển
khai các dự án uỷ thác vốn, dự án tài trợ kỹ thuật, dự án làm dịch vụ giải ngân, dự án uỷ
nhiệm cho các chi nhánh thực hiện, dự án nâng cao năng lực.
6. Đầu tư dưới các hình thức hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản và các
hình thức đầu tư khác với các doanhnghiệp và các tổ chức tài chính tín dụng.
7. Cầm cố động sản.
8. Kinh doanh, xuất nhập khẩu mỹ nghệ, vàng bạc, kim khí quý, đá quý.
9. Làm đại lý cho các tổ chức tài chính tín dụng trong nước, nước ngoài và quốc tế.


×