Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Hoàn thiện cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.74 KB, 139 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế thị trường đặt ra cho các nhà kinh doanh và đầu tư phải
nắm bắt và xử lý thông tin chính xác, kịp thời nhằm đưa ra các quyết định tối
ưu có lợi nhất cho mình. Trong nền kinh tế toàn cầu hoá và sự phát triển
thương mại quốc tế hiện nay, một trong những kênh thông tin luôn thu hút sự
quan tâm của các doanh nghiệp là các qui định về hệ thống thuế quan.
Theo quản lý hải quan hiện đại, trị giá hải quan là phần số liệu về trị giá
được đưa ra hoặc đưa vào lãnh thổ hải quan, do cơ quan hải quan quản lý và sử
dụng phục vụ cho các mục tiêu quản lý nhà nước về Hải quan, trong đó mục
tiêu dùng để tính thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu là chủ yếu và gọi
là trị giá tính thuế. Trị giá tính thuế là yếu tố quan trọng (cùng với số lượng
hàng hoá và mức thuế suất đối với mỗi loại hàng hoá đó) cấu thành nên thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Bởi vậy xác định trị giá hải quan là một công tác
quan trọng trong hệ thống thuế quan hiện đại đảm bảo cho qui trình thủ tục hải
quan nói chung và kiểm tra tính thuế nói riêng được thuận lợi và chính xác.
Ở Việt Nam, trị giá hải quan của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được
chính thức xuất hiện vào đầu thập kỷ 90, đánh dấu bằng sự ra đời của Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991. Từ thời điểm đó đến trước năm
2002, trị giá hải quan chủ yếu phục vụ một mục tiêu quản lý duy nhất là dùng
để tính thuế cho hàng hoá xuất nhập khẩu, vì vậy giai đoạn này trị giá hải
quan được biết với tên gọi là trị giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Theo đó, việc xác định trị giá tính thuế chủ yếu dựa trên bảng giá tối thiểu do
Nhà nước qui định. Đây là cơ chế áp dụng trị giá tính thuế hải quan theo sự áp
đặt của Nhà nước. Theo cơ chế này, tuy đã có tác dụng nhất định trong việc
dự toán nguồn thu cho NSNN và trong đấu tranh chống gian lận thương mại
qua giá, nhưng cũng biểu hiện rất nhiều bất cập cho cả cơ quan quản lý lẫn
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc tự chủ hạch toán kinh doanh.
Xác định trị giá tính thuế theo Bảng giá tối thiểu không còn phù hợp với
thực tiễn khi Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế. Với sức ép hội nhập




2
và toàn cầu hoá nền kinh tế bắt buộc chúng ta phải thay đổi, phải có một cơ chế
xác định trị giá phù hợp hơn, thuận tiện, khách quan và minh bạch hơn.
Từ năm 2002 về sau, qua một thời gian Việt Nam tham gia vào các tổ
chức khu vực, liên khu vực như ASEAN, ASEM, AFTA,... để chuẩn bị các
điều kiện tạo tiền đề cho Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), về phương diện thuế quan, Việt Nam phải có nghĩa vụ thực hiện xác
định trị giá tính thuế theo các nguyên tắc của Hiệp định thực hiện điều 7 Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (gọi tắt là Hiệp định trị giá
GATT/WTO hay ACV), vì vậy Chính phủ đã ban hành Nghị định
60/2002/NĐ-CP ngày 06/06/2002 áp dụng cơ chế xác định giá tính thuế theo
nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT/WTO và được hướng dẫn bằng Thông
tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, mãi đến
đầu năm 2004, các văn bản này mới chính thức được áp dụng để xác định giá
tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu đối với các quốc gia có tham gia ký kết
trao đổi thương mại song phương với Việt Nam. Đến cuối năm 2004 đã áp
dụng xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu cho 56 quốc gia và đến thời
điểm hiện nay đã áp dụng đối với hầu hết các nước trên thế giới.
Sau hơn 4 năm thực hiện áp dụng Hiệp định trị giá GATT/WTO trong
hoạt động xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu ở nước ta, về
cơ bản đã tiếp cận được cơ chế và kỹ thuật xác định trị giá hiện đại của Hiệp
định. Tuy vậy, trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn cả về cơ chế
chính sách, cả về cơ sở công nghệ kỹ thuật và đội ngũ cán bộ thực hiện của
chủ thể quản lý lẫn đối tượng quản lý, hiện tượng gian lận trốn thuế qua việc
khai giá thấp hơn thực tế mua bán còn diễn ra hết sức phổ biến mà cơ quan
quản lý chưa quản lý được, việc khiếu nại, khiếu kiện về trị giá tính thuế vẫn
diễn ra thường xuyên và vô cùng phức tạp.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu

cầu đơn giản và hài hòa hóa thủ tục hải quan theo Công ước Kyoto và để có
được những cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu khoa học,
phù hợp với quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam hiện nay, đòi hỏi phải


3
nhận thức đúng đắn về cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó đề ra những giải pháp
thiết thực nâng cao hiệu quả công tác xác định giá tính thuế hàng hóa nhập
khẩu ở Việt Nam, tiến tới đạt được mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh
xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư, đảm bảo nguồn thu, chống thất thu cho
NSNN là vấn đề hết sức bức xúc và thiết thực hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “ Hoàn thiện cơ chế xác
định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu tại Việt Nam” làm luận văn thạc
sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, hy vọng góp phần tháo gỡ những vấn đề cấp
thiết trên đây.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngay từ đầu những năm 2000, để chuẩn bị những tiền đề cho Việt
Nam gia nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tổ chức Thương mại quốc tế WTO,
Chính phủ đã có Chỉ thị về từng bước áp dụng các phương pháp của Hiệp
định trị giá GATT/ WTO để xác định trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập
khẩu. Trên tinh thần đó, ngành Hải quan đã tổ chức nhiều hội thảo, cử nhiều
đoàn cán bộ cao cấp đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm ở nhiều nước trên
thế giới và khu vực, đồng thời biên soạn nhiều tài liệu nghiên cứu với sự
tham gia của nhiều nhà khoa học và các nhà hoạch định và điều hành chính
sách, cụ thế như:
- Sách “Các phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT và kiểm
toán hải quan” của tác giả Phạm ngọc Hữu biên soạn và hiệu đính- NXB Tài
chính Hà nội - 1996
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành mã số N08-2000 “Xác định lộ
trình tiến tới thực hiện Hiệp định trị giá GATT/WTO và các giải pháp thực

thi” do Cục Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu thuộc Tổng cục Hải quan thực
hiện năm 2000.
- Sách “Cộng đồng doanh nghiệp – cơ quan Hải quan và Hiệp định trị
giá GATT/WTO” do Tổng cục hải quan biên soạn tháng 5-2001
- Sách “Hướng dẫn xác định trị giá hải quan Asean (ACVG)” do Tổng
cục hải quan biên soạn tháng 4-2004.


4
- Giáo trình “Thuế và trị giá hải quan” do trung tâm đào tạo, bồi dưỡng
công chức Hải quan thuộc Tổng cục Hải quan biên soạn năm 2006.
- Sách “Sổ tay kiểm tra trị giá hải quan của Tổ chức Hải quan thế giới
WCO” do trung tâm đào tạo, bồi dưỡng công chức Hải quan thuộc Tổng cục
Hải quan biên soạn tháng 4-2007.
- Sổ tay Hiện đại hoá hải quan do Ngân hàng Thế giới xuất bản (bản
dịch năm 2007).
- Tài liệu “Cải các thủ tục xuất nhập khẩu hướng dẫn cho đối tượng
thực thi” do Cab Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Ngân hàng Thế giới xuất bản
tháng 9/2008.
- Hiệp định trị giá GATT/WTO (ACV) bản tiếng Anh và tiếng Việt gồm:
- Các văn bản Luật Hải quan năm 2001, Luật Hải quan sửa đổi bổ sung
năm 2005; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Quản lý thuế; Luật Kế
toán và các chuẩn mực kế toán hiện hành; Luật Ngân hàng, Luật Đầu tư,...
nghiên cứu những điều qui định liên quan đến xác định trị giá tính thuế
- Các Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết thi hành các Luật nêu
trên và các thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành hữu quan, đặt biệt là các
qui định riêng trong lĩnh vực kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.
- Các văn bản của ngành Hải quan về qui trình nghiệp vụ, tổ chức hệ
thống kiểm tra và xác định trị giá hải quan, về tờ khai trị giá, về thu thập, cập
nhật khai thác thông tin dữ liệu giá tính thuế,... từ cơ quan Hải quan trung

ương đến Cục Hải quan, Chi cục Hải quan địa phương.
(Phụ lục 8: Danh mục các văn bản Luật và các văn bản khác về xác
định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu tại Việt Nam).
Các công trình nghiên cứu trên hầu hết mới chỉ đề cập đến các khía
cạnh về kỹ thuật cũng như giới thiệu các phương pháp mang tính chất chung
nhất, chưa có công trình nào đi sâu đánh giá thực trạng việc xác định trị giá
tính thuế hiện nay để từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện
cơ chế xác định trị giá tính thuế hiện nay cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam
hiện nay và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.


5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích thực trạng quá trình
kiểm tra, xác định trị giá tính thuế, đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế xác
định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu phù hợp với thực tiễn đất nước và
quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ
+ Phân tích những đặc điểm, bất cập về cơ chế xác định trị giá tính thuế
theo bảng giá tối thiểu trước thời điểm chính thức áp dụng hiệp định trị giá
GATT/WTO (trước năm 2004).
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về trị giá tính thuế theo
các phương pháp của GATT/WTO và cơ chế xác định giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu theo Luật pháp Việt Nam hiện nay.
+ Đánh giá đúng thực trạng cơ chế xác định giá tính thuế hàng hóa
nhập khẩu hiện hành ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế của công tác
xác định giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu hiện hành.
+ Đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả
thực thi trong việc kiểm tra, xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo xu

hướng hội nhập quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Cơ chế xác định trị giá tính thuế đối
với hàng hoá nhập khẩu tại Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các vấn đề về cơ chế chính sách
kiểm tra, xác định trị giá (các phương pháp xác định, phương thức khai báo,
qui trình thủ tục kiểm tra, xác định trị giá); cơ chế phối hợp giữa cơ quan hải
quan và các cơ quan hữu quan trong việc xác định, kiểm tra giá; những điều
kiện, cơ sở để thực hiện cơ chế xác định trị giá; biện pháp thanh tra, kiểm tra


6
trị giá, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về trị giá tính thuế hàng hoá
nhập khẩu từ 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh,
các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
những vấn đề liên quan đến xác định trị giá tính thuế.
Trên cơ sở đó, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Tổng hợp,
phân tích, so sánh, tích hợp số liệu kết hợp nghiên cứu lý luận với khảo sát
thực tiễn; phương pháp xã hội học, điều tra, tiếp cận hệ thống.
6. Đóng góp mới của đề tài
- Hệ thống hoá, phân tích, so sánh các cơ chế, chính sách liên quan đến
xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu. Phân tích những cơ chế do ngành
Hải quan ban hành, chính sách do Chính phủ và các ngành hữu quan ban hành
mà Ngành hải quan phải thực hiện, qua đó đánh giá những thuận lợi, khó
khăn của từng loại cơ chế, chính sách đối với hoạt động xác định trị giá hàng

hoá nhập khẩu hiện nay.
- Đánh giá thực trạng hoạt động xác định giá tính thuế hàng hoá nhập
khẩu hiện nay trên cơ sở khảo sát, điều tra, thu thập, phân tích các dữ liệu giá
tính thuế tại ngành Hải quan.
- Phân tích những khó khăn, thuận lợi và đề xuất các giải pháp nhằm
hoàn thiện qui trình xác định trị giá tính thuế hiện nay về cơ chế chính sách,
về điều kiện trang thiết bị làm việc và con người thực hiện, về quan hệ phối
hợp trong và ngoài ngành, về nhận thức và tình hình chấp pháp của người
nhập khẩu, doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH
TRỊ GIÁ TÍNH THUẾ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU
1.1. KHÁI QUÁT VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CÁC CƠ CHẾ XÁC ĐỊNH TRỊ
GIÁ TÍNH THUẾ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU

1.1.1. Khái quát về trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
1.1.1.1. Khái niệm trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu
- Trị giá hải quan (Custom Value)
Theo quản lý hải quan hiện đại: “Trị giá hải quan đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu là phần số liệu về trị giá của hàng hoá được đưa ra hoặc đưa
vào lãnh thổ hải quan do cơ quan hải quan quản lý và sử dụng phục vụ cho
các mục tiêu quản lý Nhà nước về hải quan” [50, tr.92].
Theo điều 15 Hiệp định trị giá GATT/WTO: “Trị giá hải quan của hàng
nhập khẩu là trị giá hàng hoá phục vụ cho đánh thuế theo trị giá hàng đối với

hàng nhập khẩu” [36, tr.4]; [40, tr.156].
- Trị giá tính thuế (Duty Value)
+ Quan niệm giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo Hiệp định trị giá
GATT/WTO: “Trị giá tính thuế là trị giá hải quan nhằm mục đích tính thuế.
Xác định trị giá hải quan là xác định trị giá làm cơ sở tính thuế” [23, tr.300].
+ Khái niệm theo luật pháp Việt Nam: Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 quy định “giá tính thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên
theo hợp đồng, phù hợp với cam kết quốc tế” [5, tr.11]. Điều 1 Nghị định số
40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ qui định về xác định trị giá
đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu “Xác định trị giá hải quan nhằm mục
đích tính thuế và thống kê đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu” [8, tr.1].
Thông tư 40/2008/TT-BTC cũng ghi rõ “Trị giá hải quan nhằm mục
đích tính thuế (sau đây gọi là trị giá tính thuế)” [6, tr.1].


8
Như vậy, từ các khái niệm trên, thừa nhận một quan điểm chung đó là:
“Trị giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là trị giá hải quan của hàng
hoá nhập khẩu đó phục vụ mục đích tính thuế”. Trên thực tế, tuỳ theo từng
phạm vi và mục đích nghiên cứu, có tài liệu, văn bản (hầu hết là tài liệu nước
ngoài) sử dụng cụm từ “Trị giá hải quan”; có tài liệu, văn bản (chủ yếu các tài
liệu trong nước) sử dụng cụm từ “trị giá tính thuế” nhưng phân tích dưới góc
độ nhằm mục đích tính thuế thi 2 khái niệm này đồng nhất với nhau. Trong
luận văn này, xin sử dụng chung một khái niệm là “trị giá tính thuế hàng hoá
nhập khẩu”
1.1.1.2. Đặc điểm và vai trò của trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
• Đặc điểm của trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
- Đặc điểm chung: Nhằm mục đích tính thuế (thuế nhập khẩu, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thu chênh lệch giá)

- Đặc điểm riêng: Với mỗi khái niệm kéo theo những đặc điểm khác
nhau, chẳng hạn trị giá tính thuế theo khái niệm Việt Nam còn nhằm mục đích
thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu. Phương pháp xác định cũng khác nhau
tuỳ theo chính sách xác định giá tính thuế từng giai đoạn.
• Vai trò của trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu
Trị giá tính thuế thể hiện vai trò cơ bản là:
- Trị giá tính thuế phục vụ mục tiêu quản lý và xây dựng chính sách
xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế. Trị giá tính thuế còn cho biết tổng
trị giá hàng hoá đã được thực xuất khẩu hay nhập khẩu qua từng thời kỳ. Đây
chính là số liệu quan trọng để xây dựng bảng cân đối kim ngạch XNK của nền
kinh tế, từ đó giúp cơ quan quản lý có thể biết được trong kỳ đó, thời điểm đó,
giai đoạn đó nền kinh tế có đạt được sự cân bằng về cán cân thương mại hay
không, có hiện tượng nhập siêu hay xuất siêu không để có chính sách điều
chỉnh (về hạn ngạch hoặc về thuế) và quản lý kịp thời.
- Trị giá tính thuế là cơ sở để thực thi các chính sách quản lý hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu. Trong một số trường hợp, để bảo hộ nền sản xuất


9
trong nước và điều chỉnh các chính sách đối ngoại song phương, các quốc
gia thường sử dụng công cụ hạn ngạch (quota) như một hàng rào phi thuế
quan. Trị giá tính thuế sẽ là cơ sở số liệu để cơ quan quản lý thương mại
đánh giá hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đạt hay vượt hạn ngạch qui định, từ
đó có biện pháp điều chỉnh về chính sách thương mại hay chính sách thuế
(thuế hạn ngạch).
- Trị giá tính thuế tham gia thực hiện nhiệm vụ thống kê nền kinh tế
- Trị giá tính thuế là cơ sở quan trọng cho việc tính toán, xác định thuế
đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây là vai trò cơ bản của trị giá tính thuế.
Với vai trò này trị giá tính thuế đồng nghĩa với trị giá hải quan.
1.1.1.3. Ý nghĩa của trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu

- Trước hết, trị giá tính thuế góp phần hình thành đúng giá cả hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu. Với một cơ chế tính thuế nhất định, xác định đúng trị
giá tính thuế sẽ góp phần bình ổn giá cả thị trường hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Trị giá tính thuế là yếu tố cơ bản cấu thành hệ thống thuế quan của
một quốc gia, là căn cứ để xác định các loại thuế nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt,
giá trị gia tăng, chênh lệch giá hàng nhập khẩu. Bởi vậy xét về mặt tài chính,
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu là cơ sở để tập trung nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm đẩy mạnh xuất khẩu,
phát triển sản xuất trong nước đều có chính sách khuyến khích xuất khẩu, vì
vậy thuế đối với hàng hoá xuất khẩu thường có mức thuế suất là 0%. Nguồn
thu thuế quan chủ yếu từ hàng hoá nhập khẩu.
- Xác định đúng về trị giá tính thuế sẽ góp phần chống thất thu cho
ngân sách Nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước phát triển, tạo sự minh bạch,
bình đẳng trong cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, kích thích
phát triển giao lưu thương mại quốc tế.
- Xác định đúng về trị giá còn góp phần xác định đúng về kim ngạch
nhập khẩu, làm căn cứ số liệu để Chính phủ điều hành và quản lý hoạt động
xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia.


10
Chính vì những ý nghĩa trên, một số nhà nghiên cứu về trị giá hải quan
đã nói một cách hình ảnh rằng: “Các phương pháp xác định trị giá tính thuế
hàng hoá nhập khẩu là những khuôn mẫu hợp lý đúc nên những tấm bê tông
tiêu chuẩn. Khi “trời yên bể lặng” nó là nhịp cầu nối cho các mối quan hệ
thương mại giữa các nước, nhưng khi “gió bão, nó dựng thành hàng rào thuế
quan nghiệt ngã hay những pháo đài kiên cố trong cuộc chiến tranh thương
mại vắng tiếng súng nhưng không kém phần khốc liệt” [36, tr.17].
1.1.2. Nội dung chủ yếu các cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng
nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO (ACV)

1.1.2.1. Tổng quan quá trình hình thành các hệ thống xác định trị
giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu trên thế giới
Cùng với sự ra đời và phát triển của Nhà nước, thuế ra đời như là một
công cụ tất yếu đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Hơn thế nữa,
thuế còn đảm đương những chức năng khác như điều tiết tiêu dùng, bảo hộ
sản xuất,... Lịch sử loài người đã ghi nhận hai cách tính thuế cơ bản mà đến
nay còn được áp dụng, đó là:
- Đánh thuế cụ thể (hay thuế tuyệt đối) tức là đánh theo lượng hàng hoá
mà không tính đến trị giá của hàng hoá như việc đánh thuế hiện nay của một
số nước chậm phát triển (Lào, các nước Nam phi), như việc đánh thuế đối với
xe ô tô đã qua sử dụng nhập khẩu vào Việt Nam hiện nay.
Thuế NK phải nộp = SL HHNK x Mức thuế tuyệt đối trên 1 đơn vị HHNK
- Thuế Tòng giá tức là thuế đánh theo trị giá hàng hoá và một tỷ lệ phần
trăm nhất định.
Thuế NK phải nộp = SL HHNK x GTT x TS (%)
Một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Úc, Hàn quốc, Trung quốc, Nhật
Bản, Việt Nam... áp dụng đồng thời cả hai hình thức trên để tính thuế nhập
khẩu gọi là hình thức đánh thuế hỗn hợp (Combine Duty). Tuy nhiên, việc
đánh thuế tuyệt đối chủ yếu áp dụng đối với một số mặt hàng cá biệt cần hạn
chế nhập khẩu mà không thể kiểm soát được bởi chính sách phi thuế quan mà


11
phải sử dụng chính sách thuế tuyệt đối để hạn chế hoặc việc kiểm soát về trị
giá thực tế giao dịch rất khó khăn như việc đánh thuế xe ô tô đã qua sử dụng
nhập khẩu vào Việt Nam.
Đến nay, người ta cũng chưa xác định được chính xác thời điểm mà
thuế ra đời nhưng phần lớn các luận điểm cho rằng thuế quan ra đời trước
công nguyên. Với bề dày lịch sử như vậy, nhưng thuế quan chỉ thực sự phát
triển ở phạm vi quốc tế khi nhu cầu về giao lưu thương mại toàn cầu tăng lên

với tốc độ lớn nhất là sau thế chiến thứ 2. Song cùng với sự hình thành và
phát triển về thuế, trị giá hải quan cùng các yếu tố cơ bản khác như biểu thuế,
xuất xứ hàng hoá đã trở thành hệ thống trong các nội dung thoả thuận về thuế
quan và thương mại. Quá trình hình thành và phát triển của trị giá hải quan
trên thế giới có thể được điểm qua 3 giai đoạn như sau:
• Giai đoạn Geneve 1947
Những nỗ lực của quốc tế về chuẩn hoá và hài hoà các qui trình thủ tục
hải quan bao gồm cả hệ thống xác định trị giá. Ngay từ đầu thế kỷ 20, các
nước kinh tế phát triển Châu Âu phát kiến và mong muốn tìm kiếm một hệ
thống các phương pháp xác định trị giá hải quan áp dụng trên phạm vi quốc
tế. Tuy nhiên mãi đến năm 1947, dưới sự bảo trợ của Hội Quốc liên (Tổ chức
Liên hợp quốc ngày nay) những nỗ lực này mới thu được kết quả. Lần đầu
tiên các nguyên tắc về xác định trị giá hải quan được ghi nhận trong Hiệp
định chung về Thuế quan và Thương mại (gọi tắt là GATT). Tuy nhiên ở giai
đoạn này, các qui định mang tính nguyên tắc và thu gọn về trị giá hải quan
được ghi tại điều VII của Hiệp định, nhưng có thể nói đây là sự khởi đầu quan
trọng làm cơ sở cho việc hình thành nên hệ thống các qui tắc về xác định trị
giá hải quan được nhiều nước công nhận và áp dụng sau này.
Ba nguyên tắc cơ bản về trị giá hải quan được qui định tại Điều VII của
Hiệp định là: [23, tr 301]
1. Trị giá hải quan không được có tính áp đặt (arbitrary), giả định
(Fictitious) hay xác định dựa trên giá trị của hàng hoá bản địa.


12
2. Trị giá hải quan phải là trị giá thực hoặc dựa trên trị giá thực của
hàng nhập khẩu hoặc trị giá của hàng giống hệt hàng hoá nhập khẩu;
3. Trị giá hải quan phải được xác định từ một giao dịch bán hàng hay
chào bán hàng trong điều kiện cạnh tranh thông thường và cạnh tranh hoàn
hảo. Nếu vẫn không khẳng định được trị giá thật của hàng hoá thì trị giá hải

quan phải được dựa trên trị giá tương đương gần nhất có thể được khẳng định
mà thoả mãn được các tiêu chí đưa ra.
• Giai đoạn Brussels 1953 (Định nghĩa Brusselle -BDV)
Do qui định của điều VII của Hiệp định GATT mới chỉ dừng lại ở mức
độ đưa ra những nguyên tắc chung mà chưa bao gồm các hướng dẫn sát với
thực tế nên việc xác định trị giá hải quan vẫn không ổn định và không thể dự
đoán trước được. Với mục tiêu là tạo ra một hệ thống xác định trị giá hải quan
công bằng, ổn định và trung lập, ngay từ năm 1947, nhóm nghiên cứu trị giá
hải quan đã được thành lập tại Brusselle. Nhiệm vụ của nhóm là phải thảo ra
một định nghĩa về trị giá hải quan dựa trên cơ sở các nguyên tắc của Điều VII
Hiệp định GATT. Định nghĩa Brusselle (BDV) ra đời năm 1950 và có hiệu
lực từ ngày 23/7/1953 đánh dấu một bước phát triển mới về trị giá hải quan.
Định nghĩa BDV: [23, tr.301]
- Trị giá hải quan là giá thông thường (normal price) tức là mức giá của
một mặt hàng trong điều kiện thị trường mở và bên mua, bên bán không có
quan hệ đặc biệt trong điều kiện cụ thể về thời gian và địa điểm.
- Trên thực tế, vì phần lớn hàng nhập khẩu là đối tượng của một giao
dịch mua bán trung thực được thực hiện trong những điều kiện phù hợp với
những điều khoản của BDV nên có thể lấy giá giao dịch hay giá hoá đơn
làm cơ sở định giá chính xác cho phần lớn hàng nhập khẩu. BDV khuyến
nghị rằng nên sử dụng giá hoá đơn để xác định trị giá trong phạm vi lớn
nhất có thể.
- Khi không thể sử dụng được giá hoá đơn để xác định trị giá như các
trường hợp: Giao dịch không độc lập, hàng ký gửi, hàng do đại lý hay nhà


13
phân phối độc quyền nhập khẩu,... hoặc khi giá khai báo ở mức thấp đáng ngờ
thì hải quan có thể sử dụng một cơ sở thích hợp khác để định giá, thông
thường sử dụng những thông tin có sẵn tại cơ quan hải quan có tính đến các

điều kiện thực tế liên quan đến lô hàng đang được xác định giá.
Đây là những biện pháp linh hoạt mà BDV đạt được so với GATT1947 thể hiện bước tiến đáng kể hướng tới chuẩn hoá hệ thống xác định trị giá
trên toàn thế giới. Vì vậy, đến năm 1970 đã có khoảng 100 nước áp dụng
BDV bao gồm cả chính thức và không chính thức. Tuy nhiên BDV không
phải lúc nào cũng được áp dụng một cách thống nhất và mang tính toàn cầu
hoá, cụ thể:
+ Một số hiệp hội kinh tế đã áp dụng BDV như một chuẩn mực xác
định trị giá cho các nước thành viên như khối EEC, UDEAC, CARICOM.
+ Một số đối tác quan trọng trên thế giới, trong đó có Mỹ và New
Zealand lại không phê chuẩn BDV mà áp dụng hệ thống định giá riêng, phần
nhiều dựa trên khái niệm dương về trị giá.
+ Một số nước khác áp dụng BDV khi BDV mở rộng sang các nước sử
dụng giá POB để tính thuế như Úc, Canada;
• Giai đoạn Geneva 1973-1979 đến nay
Giai đoàn này, Hiệp định trị giá GATT được hình thành và phát triển
qua 2 vòng đàm phán.
Một, vòng đàm phán TOKYO
Với việc BDV còn bộc lộ những bất cập trên, nên ngay khi áp dụng
BDV, nhiều doanh nghiệp đã lên tiếng về sự tuỳ tiện, thiếu căn cứ trong quyết
định bác bỏ trị giá hoá đơn và nâng trị giá tính thuế của cơ quan hải quan. Bên
cạnh đó, nhiều nước đã dựa vào trị giá tham chiếu (tương đối áp đặt) để tiến
hành bảo hộ hàng hoá trong nước và tạo điều kiện cho thông quan hàng hoá mà
không ảnh hưởng tới thu NSNN của quốc gia họ. Vì vậy, vấn đề xác định trị
giá tính thuế hàng nhập khẩu cũng được đưa vào nội dung thương thuyết giữa
các quốc gia thực hiện BDV với nhau kéo dài từ năm 1973 đến năm 1979.


14
Mục tiêu các thương thuyết này là nhằm tháo gỡ những vướng mắc
trong chính sách thương mại, thiết lập một trật tự trong buôn bán thế giới đạt

tới sự mở rộng và tự do hoá giao thương quốc tế, các nước thấy cần phải thiết
lập một hệ thống xác định trị giá hải quan đạt tiêu chuẩn công bằng, nhất quán
và trung lập trên toàn thế giới, loại bỏ được việc xác định giá mang tính áp đặt
hay giả định, phù hợp với thực tiễn và không tạo rào cản đối với thương mại.
Ngày 12/4/1979, cuộc đàm phán đa phương (hay gọi là vòng đàm phán
TOKYO của GATT) được tổ chức tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Kết quả cho ra đời
“Hiệp định về thực hiện điều VII của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại” hay còn gọi là Hiệp định trị giá GATT hay ACV phát triển đến
ngày nay.
Tuy đạt được những thoả thuận chuẩn về xác định trị giá theo Hiệp
định trị giá GATT, nhưng đã xảy ra nhiều bất đồng quan điểm giữa các nước
công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển, đó là:
- Các nước công nghiệp phát triển, nhất là các nước thuộc khối EEC
sau khi đạt được thoả thuận riêng với Mỹ đã thôi không ủng hộ việc tiếp tục
áp dụng BDV nữa mà quay sang sử dụng khái niệm mới “trị giá dương”. Khái
niệm này qui định rằng:
+ Trị giá hải quan phải được xác định trên cơ sở giá thực tế đã thanh
toán hay sẽ phải thanh toán cho hàng hoá nhập khẩu. Đây chính là phương
pháp xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch của hàng nhập khẩu.
+ Ngoài phương pháp trị giá giao dịch trên, khái niệm “trị giá dương”
còn đưa ra thêm 5 trường hợp ngoại lệ khác thay thế (được áp dụng một cách
tuần tự) khi không áp dụng được phương pháp trị giá giao dịch.
- Các nước đang phát triển phản đối gay gắt đề xuất mới mà ủng hộ áp
dụng xác định trị giá BDV. Các nước này cho rằng đề xuất mới không cung
cấp đủ quyền lực cho cơ quan hải quan để bác bỏ trị giá giao dịch khi trị giá
này hoàn toàn khác biệt với trị giá giao dịch của hàng hoá tương tự (thường là
thấp hơn) mà những khác biệt đó không được doanh nghiệp giải thích chính


15

đáng. Họ lập luận rằng Hiệp định không bảo vệ quyền lợi cho những quốc gia
đang phát triển vì sẽ gây ra tình trạng phổ biến là giá ghi trong hoá đơn thấp
hơn giá thực tế giao dịch, làm tăng nguy cơ gian lận và thất thu thuế.
Trước những đề xuất đó của các nước đang phát triển, Hiệp định trị giá
GATT lại phải có thêm những giải quyết bằng những qui định về sự đối xử
khác biệt và đặt biệt, trong đó qui định quan trọng nhất là cho phép các nước
tham gia (chủ yếu là các nước đang phát triển) có thêm thời gian để thực hiện
đầy đủ ACV, tức là cho phép bảo lưu (chưa tham gia) một số điều khoản nhất
định của Hiệp định nếu thấy chưa phù hợp với khả năng thực tiễn của từng
nước trong chừng mực thời gian nhất định.
Hai, Vòng đàm phán Uruguay - Hiệp định trị giá GATT 1994 hay Hiệp
định trị giá GATT/WTO
Năm 1994, để hoàn thiện hơn nữa các qui định của hiệp định trị giá
GATT, vòng đàm phán Uruguay đã phê chuẩn “Quyết định về chuyển trách
nhiệm dẫn chứng” hay “Quyết định về những trường hợp cơ quan hải quan có
lý do để nghi ngờ tính trung thực hay chính xác của trị giá khai báo” [23,
tr.303, 304] (Quyết định 6.1 dựa trên Điều 17 của Hiệp định), gọi tắt là Quyết
định SBP (chuyển trách nhiệm dẫn chứng) được đính kèm với ACV để làm rõ
ý nghĩa của các qui định gốc về xác định trị giá. SBP xác định rằng trong các
trường hợp mà cơ quan hải quan có cơ sở nghi ngờ về tính trung thực hay
chính xác của giá khai báo thì trách nhiệm dẫn chứng được chuyển từ cơ quan
hải quan sang doanh nghiệp, tức là doanh nghiệp phải có trách nhiệm cung
cấp các bằng chứng chứng minh được trị giá khai báo là trị giá thực tế đã
thanh toán hay sẽ phải thanh toán của hàng hoá nhập khẩu. Trong quá trình
này, cơ quan hải quan sẽ phải thông báo cho doanh nghiệp nhập khẩu biết lý
do nghi ngờ về trị giá khai báo, cho phép doanh nghiệp có ý kiến giải trình và
cung cấp tài liệu chứng minh. Sau khi xem xét giải trình và tài liệu dẫn chứng
của doanh nghiệp, trên cơ sở các dữ liệu mà cơ quan hải quan hiện có và thu
thập được, cơ quan hải quan phải thông báo cho doanh nghiệp biết quyết định



16
cuối cùng là có chấp nhận hay không chấp nhận trị giá khai báo của doanh
nghiệp. Trường hợp, không thể xác định trị giá tính thuế theo trị giá giao dịch,
cơ quan hải quan sẽ sử dụng các phương pháp khác thay thế để xác định trị
giá tính thuế cho hàng hoá nhập khẩu, các phương pháp này được qui định
trong ACV theo trình tự nghiêm ngặt [40, tr.193], [23, tr.338].
Những sửa đổi, bổ sung này đã làm cho Hiệp định GATT hoàn thiện
hơn hẳn so với những qui định trước đây: Nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn, phạm
vi xác định trị giá được phổ rộng hơn, trị giá tính thuế được xác định sát hơn
với trị giá thực tế của hàng hoá. Những nội dung chính của Hiệp định được áp
dụng đến hiện nay và có tên gọi là “Hiệp định trị giá GATT 1994” hay “Hiệp
định trị giá GATT/WTO” gọi tắt là ACV.
Theo qui định của Hiệp định Marrakesh 1994 - Hiệp định về thành lập
Tổ chức thương mại thế giới (sau đây gọi tắt là WTO được thành lập năm
1995), thì tất cả các nước thành viên WTO bắt buộc phải thực hiện đầy đủ các
Hiệp định của WTO trong đó có Hiệp định trị giá GATT/WTO.
Hiệp định trị giá GATT/WTO có qui định về “đối xử khác biệt và đặc
biệt (Special and Differential Treatment – SDT), Điều 20 qui định về sự trì
hoãn áp dụng ACV, tức là đối với các nước đang phát triển chưa áp dụng
ACV thì phải áp dụng ACV trong vòng 5 năm sau vòng đàm phán Uruguay
1994 hoặc chậm nhất vào ngày 1/1/2000; đối với các nước gia nhập WTO
muộn hơn, thời hạn 5 năm được tính từ ngày nước đó gia nhập WTO [40.
tr.161] [23, tr.307].
Điều 21 Hiệp định qui định về việc bảo lưu một số điều khoản khi áp
dụng ACV. Một số nước đang phát triển xin bảo lưu thực hiện Điều 5 – Xác
định trị giá tính thuế theo phương pháp khấu trừ và Điều 6 – xác định trị giá
tính thuế theo phương pháp tính toán [40, tr.162].
Theo số liệu của Hội đồng định giá hải quan của WTO về tình hình
thực hiện ACV (trong đó có tình hình gia hạn áp dụng ACV chậm nhất đến

31/8/2002) thì kể từ thời điểm kết thúc Vòng đàm phán Uruguay đã có tới 58


17
nước đang phát triển yêu cầu trì hoãn thời hạn thực hiện ACV, trong số các
nước này đã chỉ có 2 nước áp dụng ACV đúng hạn trước năm 2000; 29 nước
bảo lưu thực hiện ACV đến hết ngày 1/10/2000; 25 nước cam kết thực hiện
trong khoảng năm 2000-2001, 22 nước đã và đang được xem xét gia hạn 5
năm bảo lưu thực hiện, chỉ có 13 nước chính thức áp dụng ACV tuy vẫn còn
bảo lưu thực hiện bảng giá tối thiểu. Có 52 nước bảo lưu thực hiện điều 5,
điều 6 đến tháng 10/2001; 46 nước xin tạm hoãn áp dụng điều 6 đến tháng
10/2001. Thêm vào đó có 23 nước, chủ yếu là các nước kém phát triển, không
xin gia hạn bảo lưu 5 năm đối với việc áp dụng ACV mà cũng không thông
báo cho WTO về việc thông qua các văn bản pháp luật của các nước đó về
xác định trị giá, những nước này chủ yếu vẫn áp dụng xác định giá theo
phương pháp quốc gia riêng của mình (áp dụng hỗn hợp cả BDV, ACV và áp
đặt giá theo phương pháp quốc gia) [23. tr.310].
Tóm lại, xác định trị giá tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/WTO
(ACV) là phương pháp xác định trị giá hiện đại, thống nhất, đảm bảo khách
quan, minh bạch, thuận tiện và chính xác, phù hợp với xu thế phát triển của
giao lưu thương mại quốc tế, nhất là đối với các quốc gia phát triển. Tuy
nhiên đối với các quốc gia đang phát triển và kém phát triển đang gặp phải rất
nhiều khó khăn khi áp dụng ACV mặc dù Hiệp định đã đưa ra nhiều qui định
về việc bảo lưu, trì hoãn, gia hạn trong việc thực hiện ACV. Đó là những khó
khăn cơ bản về tiềm lực kinh tế như khả năng dự trữ ngoại tệ để chủ động
trong thương mại quốc tế, khả năng cân đối kim ngạch xuất nhập khẩu, khả
năng thanh toán nợ nước ngoài, khả năng tiếp cận quản lý hải quan hiện đại
của đội ngũ cán bộ làm công tác xác định giá,... về môi trường pháp lý như sự
đồng bộ của pháp luật, tính khả thi của các chế định và khả năng áp dụng chế
tài. Các nước đang phát triển và kém phát triển, không còn con đường nào

khác, nếu không muốn”bế quan, toả cảng”, không muốn “đơn thương, độc
mã” trên thương trường quốc tế thì phải bắt buộc hoà nhập vào dòng chảy
giao lưu thương mại quốc tế theo các phương pháp quản lý hiện đại mặc dù


18
bước đầu sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí thua thiệt, thất thu thuế,... nhưng
đó là con đường duy nhất để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, tăng cạnh tranh và
phát triển kinh tế đất nước.
1.1.2.2. Các cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu của
các quốc gia trên thế giới hiện nay
• Quan niệm về cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
Từ quan niệm trị giá tính thuế và từ thực tế tính thuế hàng nhập khẩu
của các nước qua các thời kỳ, có thể khái quát về mặt lý thuyết quan niệm cơ
chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu như sau:
Đó là hệ thống các quy định pháp lý, kỹ thuật, phương pháp, biện
pháp, các công cụ liên quan với nhau trong việc xác định đúng đắn, trung
thực, khách quan trị giá hàng hóa làm cơ sở để tính thuế hàng hóa nhập
khẩu.
Trong luận văn cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu được
hiểu theo quan niệm trên đây.
Thực tế trên thế giới hiện nay vẫn song song tồn tại 3 cơ chế xác định
trị giá tính thuế hàng nhập khẩu, đó là:
Thứ nhất, cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo
Định nghĩa Brussells BDV (Brussells Definition of Value)
• Về cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo BDV
Định nghĩa Brussells đã chọn khái niệm về mặt lý thuyết để làm cơ sở
xây dựng nguyên tắc xác định trị giá. Theo BDV thì trị giá hải quan đối với
hàng hoá nhập khẩu là "giá thông thường", tức là giá đó phù hợp với hàng hoá
tại thời điểm nhập khẩu mà hải quan thực hiện việc thu thuế đối với việc mua,

bán hàng hoá được thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, hoàn hảo
giữa người mua và người bán độc lập và bình đẳng với nhau, giá cả hàng hoá
hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các điều kiện, các mối quan hệ giữa người
bán và người mua.


19
Khi nghiên cứu, áp dụng cơ chế xác định trị giá Hải quan theo BDV cần
tập trung vào 05 yếu tố cơ bản là: giá cả, thời gian, địa điểm, số lượng và cấp
độ thương mại. Ngoài ra, một số yếu tố điều chỉnh cũng được xem xét khi áp
dụng phương pháp này.
+ Yếu tố về giá: "Giá thông thường" trong định nghĩa Brussels là một
khái niệm hoàn toàn mang tính lý thuyết. Khi xem xét “giá thông thường” của
Định nghĩa cần lưu ý rằng giá này đã bao gồm các loại phí hoa hồng, phí môi
giới và các loại phí khác bảo đảm cho việc giao hàng tới địa điểm của nước
nhập khẩu, không bao gồm các khoản thuế và phí nội địa của nước nhập khẩu.
+ Yếu tố thời gian: Thời điểm xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập
khẩu theo BDV là thời điểm mở tờ khai làm thủ tục hải quan, tức là thời điểm
cơ quan Hải quan thực hiện việc đánh thuế nhập khẩu.
+ Yếu tố về địa điểm: Theo BDV, mức giá được xác định phải là giá
giao hàng hoá từ người bán sang người mua tại cảng hay một địa điểm của
nước nhập khẩu hay nói cách khác trị giá tính thuế theo BDV là giá CIF.
+ Yếu tố về số lượng: BDV không quy định một số lượng chuẩn nào cả
nhưng đã chỉ ra rằng khi xác định “giá thông thường” phải được căn cứ vào
số lượng để tôn trọng hoạt động thương mại tương ứng của mỗi lần giao dịch.
+ Yếu tố về cấp độ thương mại: BDV quy định nếu hàng hoá nhập khẩu
theo cấp độ thương mại khác nhau (bán buôn, bán lẻ,...) thì “giá thông
thường” sẽ được xác định theo mức giá ở cấp độ thương mại khác nhau.
+ Các yếu tố điều chỉnh: Vấn đề điều chỉnh được BDV đặt ra khi có
những yếu tố bất bình thường, không phù hợp với các điều kiện cạnh tranh lành

mạnh. Vấn đề chiết khấu và giảm giá khi nhập khẩu hàng hoá cũng được BDV
chấp nhận miễn là nó được thực hiện trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh.
• Về ưu, nhược điểm của cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập
khẩu theo BDV
Xuất phát từ nội dung trên, cơ chế các định giá tính thuế theo BDV có
những ưu, nhược điểm sau:
- Ưu điểm


20
+ Ưu điểm lớn nhất của BDV là có được một định nghĩa chung về trị
giá tính thuế đối với hàng nhập khẩu. Sự diễn đạt mạch lạc của văn bản Định
nghĩa cho phép giải quyết được nhiều vấn đề. Hơn nữa ở đây luôn luôn tồn tại
một trị giá tính thuế ngay cả khi không có giá nhập khẩu khai báo.
+ BDV đáp ứng được điều trăn trở về sự công minh mà điều này là một
nguyên tắc cơ bản cho tất cả mọi dịch vụ công cộng. Bằng sự khách quan của
mình BDV đã đặt tất cả các nhà nhập khẩu trên cùng một sự công bằng, tất cả
những người phải nộp thuế đều bình đẳng trước các khoản thuế. Nó bảo hộ
nhà nhập khẩu nghiêm chỉnh chống lại việc cạnh tranh hỗn độn và vì vậy
tránh được những lắt léo trong buôn bán, có hại cho nền kinh tế của đất nước.
+ BDV không đòi hỏi việc tìm kiếm sâu sắc đối với những vụ việc cụ
thể trong một giao dịch, nó chỉ cần biết đến giá cạnh tranh lành mạnh của các
hàng hoá. Nếu cơ quan Hải quan cho rằng giá đã thanh toán không tương ứng
với giá cạnh tranh lành mạnh thì cơ quan Hải quan có thể từ chối giá này. Vì
vậy, cơ quan Hải quan luôn đứng trên thế mạnh.
- Nhược điểm
+ BDV đưa ra một định nghĩa còn đơn giản và trao một quyền lực rất
lớn tuỳ ý quyết định cho cơ quan Hải quan. Các điều chỉnh phụ thuộc vào
việc đánh giá của công chức Hải quan. Kết quả là đã tạo ra một số đánh giá
mang tính chủ quan, thiếu bình đẳng, chính xác,... và là nhân tố không chắc

chắn, không thuận tiện cho giao lưu thương mại thế giới.
+ BDV thiếu tính đồng bộ trong việc áp dụng. Thiếu sót này rất nhạy
cảm trong các trường hợp mà không thể chấp nhận được trị giá giao dịch,
nhất là đối với các giao dịch giữa các hãng có mối quan hệ đặc biệt và giao
dịch giữa các hãng này ngày càng tăng lên trong giai đoạn hiện nay.
+ BDV được đưa ra từ những năm 1950, thời kỳ mà đa số các giao
dịch thương mại đều tôn trọng các điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Ngày
nay, người ta nhận thấy rằng ngày càng có nhiều các giao dịch giữa các hãng
có liên quan, có mối quan hệ đặc biệt với nhau. Do vậy, quy định của BDV


21
trở thành cá biệt, lỗi thời, không thể chấp nhận được trong thế giới hiện đại
ngày nay.
+ BDV không bao giờ đạt được sự nhất trí bền vững trên phạm vi thế
giới. Các đối tác thương mại quan trọng như: Mỹ, Canada, New Zealand, Úc
đã không tham gia vào áp dụng Định nghĩa này.
+ Sau cùng hệ thống này do đơn thuần mang tính lý thuyết nên có nguy
cơ sẽ mất cả các mối liên hệ với các thực tế thương mại và ngày càng tăng
thêm các nguy cơ bị cô lập.
Thứ hai, cơ chế xác định giá tính thuế hàng nhập khẩu theo Hiệp định
trị giá GATT/WTO ACV (Agreement Customs Value)
ACV liên quan đến việc thực hiện Điều 7 của GATT được thông qua và
có hiệu lực thực hiện từ ngày 01/01/1981. Mục đích và nguyên tắc cơ bản của
ACV là xây dựng được các phương pháp xác định trị giá hải quan, thiết lập
được một hệ thống xác định trị giá Hải quan tích cực, thống nhất, công minh
và trung hoà đối với hàng hoá đồng thời tuân thủ điều kiện thực tế về quan hệ
thương mại quốc tế nhằm loại bỏ việc xác định trị giá hải quan một cách tuỳ
tiện hoặc giả tạo.
• Về cơ chế xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo ACV

Nội dung chính của cơ chế xác định giá theo Hiệp định trị giá
GATT/WTO là làm sao xác định trị giá hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu
một cách chính xác đối với bản thân hàng hoá đó nhằm ngăn chặn xu hướng
xử lý hàng hoá nhập khẩu một cách không công bằng và bảo vệ nền công
nghiệp trong nước nhưng đã biến trị giá hải quan thành hàng rào phi thuế
quan trong quan hệ thương mại quốc tế.
Xác định trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu theo ACV phải tuân thủ
03 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, trị giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu phải căn cứ vào trị giá thực
của hàng hoá nhập khẩu, đó là trị giá dùng làm căn cứ tính thuế nhập khẩu.
Trị giá này không được căn cứ vào giá trị của hàng hoá được sản xuất tại
nước nhập khẩu hoặc trị giá hư cấu, áp đặt.


22
Hai là, trị giá này phải là giá cả được pháp luật của nước nhập khẩu xác
định tại một thời điểm nhất định đối với hàng hoá đó hoặc hàng hoá giống hệt
hoặc hàng hoá tương tự bán trong quá trình kinh doanh bình thường với các
điều kiện cạnh tranh không hạn chế.
Ba là, nếu trị giá không xác định được theo nguyên tắc trên thì trị giá
tính thuế sẽ được tính trên cơ sở trị giá tương đương gần nhất với trị giá mặt
hàng mà người ta có thể xác định được.
Theo ACV, trị giá thực được hiểu là trị giá ghi trong hoá đơn thương
mại (Commercial invoice) cộng thêm các khoản chi phí hợp lý chưa được tính
vào trị giá, những khoản chi phí này là các bộ phận cấu thành của trị giá thực.
ACV đưa ra 06 phương pháp khác nhau theo thứ tự cho việc xác định trị
giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu và qui định trị giá tính thuế của hàng hoá
nhập khẩu phải được xác định ở mức độ nhiều nhất có thể dựa trên trị giá giao
dịch tức là giá đã hay sẽ phải thanh toán cộng thêm một số điều chỉnh. Khi
không thể sử dụng được trị giá giao dịch do không có trị giá giao dịch hoặc

mức giá giao dịch đã bị ảnh hưởng bởi một số điều kiện hay hạn chế nhất
định, khi đó ACV cung cấp thêm 5 phương pháp khác áp dụng theo một trật
tự nhất định. Như vậy tổng thể có 6 phương pháp đó là: [23, tr.305-306].
1. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu (The
Transaction Value).
Đây là phương pháp chính yếu xác định trị giá tính thuế, chiếm 90% các
lô hàng nhập khẩu cần xác định trị giá. ACV định nghĩa Trị giá giao dịch của
hàng hoá nhập khẩu là giá đã hay sẽ phải thanh toán của hàng hoá khi bán để
xuất khẩu đến nước nhập khẩu sau khi đã điều chỉnh một số chi phí qui định
tại Điều 8 của Hiệp định. Các chi phí đó bao gồm: Các khoản hoa hồng, chi
phí Container, chi phí đóng gói, tiền bản quyền và phí giấy phép. Các khoản
điều chỉnh này sẽ không bao gồm chi phí hoa hồng mua hàng, song chấp nhận
các khoản chiết khấu hợp lý cho các đại lý duy nhất hay các nhà phân phối
độc quyền duy nhất.


23
Điều 1 ACV cũng qui định rằng nếu bên mua và bên bán có quan hệ nào
đó trong kinh doanh thì cũng không đủ cơ sở để bác bỏ trị giá giao dịch chừng
nào mối quan hệ đó không làm ảnh hưởng đến giá bán hàng.
2. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu giống hệt (The
Transaction value of Identical Goods).
Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá giống hệt là phương pháp
xác định trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu theo trị giá giao dịch của hàng
hoá giống hệt được bán để xuất khẩu đến cùng một nước nhập khẩu, tại cùng
thời điểm hay cùng kỳ, trong một giao dịch bán hàng ở cùng cấp độ thương
mại với cùng một số lượng hàng hoá như hàng hoá nhập khẩu đang cần xác
định trị giá.
3. Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự (The
Transaction value of Similar Goods)

Phương pháp trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu tương tự là
phương pháp xác định trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu theo trị giá
giao dịch của hàng hoá tương tự được bán để xuất khẩu đến cùng một nước
nhập khẩu, tại cùng một thời điểm hay cùng kỳ với cùng các điều kiện như
đối với hàng hoá giống hệt nhưng có các chuẩn định nghĩa khác.
4. Phương pháp trị giá khấu trừ (The Deductive value Method)
Theo phương pháp này, trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu được
xác định dựa trên giá bán hàng hoá tại nước nhập khẩu của một số lượng gộp
lớn nhất (in aggregate) của hàng hoá nhập khẩu, hàng hoá giống hệt hoặc
hàng hoá tương tự trong một quan hệ với bên mua không có quan hệ đặc biệt
trừ đi lợi nhuận, các loại thuế và chi phí phát sinh sau nhập khẩu.
5. Phương pháp trị giá tính toán (The Computed value Methode)
Theo phương pháp này, trị giá tính thuế của hàng nhập khẩu dựa trên trị
giá tính toán tổng giá thành hoặc trị giá của nguyên vật liệu, chi phí của quá
trình sản xuất, lợi nhuận và các chi phí chung phát sinh trong các giao dịch
bán hàng cùng phẩm cấp của các nhà sản xuất ở nước xuất khẩu để xuất khẩu
đến nước nhập khẩu.


24
6. Phương pháp trị giá suy luận (The Fallback Method).
Theo phương pháp này, nếu không thể xác định trị giá tính thuế hàng
hoá nhập khẩu bằng bất kỳ một phương pháp nào theo 5 phương pháp nêu
trên thì phải xác định bằng cách sử dụng “các phương pháp phù hợp tuân thủ
các nguyên tắc của ACV”, tức là phải áp dụng 5 phương pháp trên một cách
linh hoạt.
Phương pháp này qui định, không được xác định các trị giá dưới đây để
xác định trị giá tính thuế.
+ Giá bán hàng hoá được sản xuất ở nước nhập khẩu;
+ Sử dụng trị giá cao hơn trong 2 trị giá có thể tìm được để thay thế để

làm trị giá tính thuế;
+ Giá bán của hàng hoá trên thị trường nội địa nước xuất khẩu;
+ Chi phí sán xuất khác trừ chi phí sản xuất đã được đưa vào trị giá
tính toán;
+ Giá bán của hàng hoá được xuất khẩu đến một nước khác;
+ Giá tính thuế tối thiểu;
+ Các loại giá áp đặt hay giả định.
Như vậy khi xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu, cơ quan Hải
quan phải áp dụng tuần tự từ phương pháp 1 đến phương pháp 6 và dừng ngay
tại phương pháp xác định được trị giá tính thuế. Nguyên tắc này chỉ ngoại lệ
đối với phương pháp thứ 4 (Phương pháp khấu trừ) và phương pháp thứ 5
(Phương pháp tính toán) và chỉ hai phương pháp này mới có thể đảo lộn thứ
tự cho nhau.
ACV bao gồm cả các điều khoản liên quan đến xử lý chi phí vận tải và
bảo hiểm, qui đổi tiền tệ, quyền khiếu nại, công bố văn bản luật pháp và qui
định liên quan đến xác định trị giá hải quan cũng như các thủ tục thông quan
hàng hoá nhanh, thuận tiện. ACV cũng qui định doanh nghiệp có quyền được
giải thích và chứng minh bằng văn bản về cách thức cũng như tính trung thực
của xác định trị giá hải quan, đồng thời cũng chỉ rõ không một nội dung nào
trong Hiệp định biểu hiện là hạn chế quyền của cơ quan hải quan trong việc


25
kiểm tra tính trung thực và chính xác của bất kỳ báo cáo, chứng từ hay số liệu
khai báo nào được doanh nghiệp nhập khẩu nộp hay xuất trình để phục vụ cho
công việc xác định trị giá tính thuế. Ngoài ra ACV còn qui định về sự quản
trị, tham vấn, giải quyết khiếu nại và thành lập 2 Uỷ ban giám sát quá trình
thực hiện ACV là Uỷ ban về định giá hải quan của WTO và Uỷ ban kỹ thuật
về Định giá hải quan dưới sự bảo trợ của WCO (World Customs Office).
• Đánh giá ưu, nhược điểm của cơ chế xác định giá tính hàng nhập

khẩu theo ACV
+ Ưu điểm của ACV
Việc áp dụng xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo ACV là
một thay đổi to lớn trong công tác tính thuế nói chung và công tác xác định trị
giá tính thuế nói riêng. Đây là hệ thống xác định trị giá hiện đại dựa trên
nguyên tắc trung lập, khách quan, đơn giản và nhất quán với thông lệ thương
mại quốc tế, không phân biệt đối xử với tất cả các thành phần kinh tế và loại
hình doanh nghiệp, luôn mang lại lợi ích và sự thuận tiện cho doanh nghiệp,
đồng thời cũng không hạn chế quyền kiểm tra tính trung thực về trị giá khai
báo của cơ quan hải quan. Hiệp định ACV đã đạt được mục tiêu là tạo thuận
lợi cho đầu tư, thương mại và dịch vụ phát triển. Hệ thống xác định trị giá
mới này cũng thoả mãn các yêu cầu chung đối với các nước đang phát triển
như đảm bảo số thu cho ngân sách quốc gia, phản ánh chính xác giá mua bán
thực tế.
Tóm lại, xác định trị giá tính thuế theo ACV có những ưu điểm chính sau:
* ACV là phương pháp xác định trị giá tính thuế hiện đại mang lại lợi
ích cho doanh nghiệp, đó là:
- Trước hết trị giá tính thuế được xác định theo trị giá giao dịch của
hàng nhập khẩu trong chừng mực lớn nhất hoặc được xác định theo trị giá gần
gũi nhất với trị giá thực tế mua bán của hàng hoá. Hầu hết các vướng mắc về
trị giá giao dịch sẽ được kiểm tra lại sau khi hàng hoá đã được thông quan.
Doanh nghiệp chỉ phải nộp một khoản thuế đúng với trị giá thực thanh toán


×