ỤC LỤC
1
DANH MỤC BẢNG
2
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CT
Chất thải
CTR
Chất thải rắn
CTYT
Chất thải y tế
CTRYT
Chất thải rắn y tế
CTRYTNH
Chất thải rắn y tế nguy hại
RTYT
Rác thải y tế
WHO
Tổ chức y tế thế giới
4
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.
Tính cấp thiết
Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế có những bước chuyển
biến tích cực góp phần nâng cao đời sống của người dân. Cùng với những
thành tựu khoa học trong và ngoài nước nền y học đã có những bước tiến
mạnh mẽ và trở thành ngành quan trọng của quốc gia, đóng vai trò chữa bệnh,
chăm sóc, bảo vệ nâng cao sức khỏe của con người. Nhưng trong quá trình
hoạt động các cơ sở y tế đã thải ra môi trường những chất thải làm ô nhiễm
nghiêm trọng môi trường đất, nước, không khí và làm lan truyền mầm bệnh
tới các cộng đồng xung quanh khu vực bệnh viện do công tác quản lý chất
thải y tế chưa thực sự đem lại hiệu quả.
Hiện nay, chất thải y tế đang là mối đe dọa lớn với sức khỏe con người
đặc biệt là chất thải rắn. Các bệnh viện không chỉ phát triển về quy mô mà
còn phát triển theo hướng chuyên sâu nên chất thải y tế cũng tăng nhanh về số
lượng, thành phần. Theo tổ chức y tế thế giới, trong chất thải y tế có khoảng
10% là chất nhiễm khuẩn, 5% là chất thải không nhiễm khuẩn nhưng độc hại
như chất phóng xạ, các hóa chất độc hại phát sinh trong quá trình chuẩn đoán
điều trị. Chất thải y tế nếu không được thu gom, phân loại, xử lý đúng sẽ là
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lây lan các
bệnh truyền nhiễm, tạo điều kiện cho vi sinh vật gây bệnh kháng thuốc và ảnh
hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Chính vì vậy mà vấn đề về quản lý và xử lý
chất thải y tế là một trong những thách thức hiện nay.
Huyện Đông Anh – Thành phố Hà Nội cũng không nằm ngoài bối cảnh
trên. Trên địa bàn huyện đã có một hệ thống bệnh viện đa khoa và các cơ sở y
tế đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Trong đó, bệnh viện đa
khoa Đông Anh – Thành phố Hà Nội là một bệnh viện với quy mô lớn phục
vụ chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho người dân. Tuy nhiên do quy
5
mô lớn nên việc quản lý và xử lý chất thải rắn nói chung và rác thải y tế nói
riêng của bệnh viện vẫn còn nhiều bất cập. Để góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý chất thải rắn của các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Hà Nội nói
chung và bệnh viện đa khoa Đông Anh nói riêng. Xuất phát từ thực tiễn trên
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải
rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Đông Anh-Hà Nội’’
1.2.
Mục đích, yêu cầu nghiên cứu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
– Tìm hiểu thực trạng phát sinh, nguồn gốc, thành phần, số lượng chất
thải y tế;
–
Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa
Đông Anh;
–
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn y tế
tại bệnh viện đa khoa Đông Anh để bảo vệ môi trường;
1.2.2. Yêu cầu nghiên cứu
–
Thu thập đầy đủ các tài liệu, số liệu về công tác quản lý chất thải
rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Đông Anh;
–
Điều tra, đánh giá được thực trạng công tác quản lý chất thải rắn tại
bệnh viện đa khoa Đông Anh;
–
Đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất
thải rắn y tế bệnh viện Đa Khoa Đông Anh.
6
PHẦN II: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU
2.1.
Một số khái niệm thuật ngữ có liên quan
Theo điều 3 chương I quyết định số 43/2007/ QĐ – BYT ngày 30 tháng
11 năm 2007 của Bộ y tế về việc ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế:
Chất thải y tế: Là vật chất ở thể rắn, lỏng và khí được thải ra từ các cơ
sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
Chất thải rắn y tế: Là chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động khám
chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên cứu, đào tạo.....
Chất thải y tế nguy hại: Là chất thải y tế chứa yếu tố nguy hại cho sức
khỏe con người và môi trường như dễ lây nhiễm, gây ngộ độc, phóng xạ, dễ
cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác nếu những chất thải
này không được tiêu hủy an toàn.
Quản lý chất thải y tế nguy hại: Quản lý chất thải y tế là hoạt động
quản lý việc phân loại, xử lý ban đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải y tế và kiểm tra, giám sát
việc thực hiện.
Giảm thiểu chất thải y tế: Giảm thiểu chất thải y tế là các hoạt động
làm hạn chế tối đa sự phát thải chất thải y tế, bao gồm: giảm lượng chất thải y
tế tại nguồn, sử dụng các sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng, quản lý tốt,
kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hành và phân loại chất thải chính xác.
Thu gom: Thu gom chất thải tại nơi phát sinh là quá trình phân loại, tập
hợp, đóng gói và lưu giữ tạm thời chất thải ngay tại địa điểm phát sinh chất
thải trong cơ sở y tế.
Vận chuyển: Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở chất thải từ
nơi phát sinh tới nơi xử lý ban đầu, lưu giữ, tiêu hủy.
7
Xử lý ban đầu: Là quá trình khử khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có
nguy cơ lây nhiễm cao ngay gần nơi phát sinh khi vận chuyển tới nơi lưu trữ
hoặc tiêu hủy.
Tiêu hủy: Là quá trình sử dụng công nghiệp nhằm cô lập (bao gồm cả
chôn lấp) chất thải nguy hại làm mất khả năng nguy hại đối với môi trường và
sức khỏe con người.
Tái sử dụng: Tái sử dụng là việc sử dụng một sản phẩm nhiều lần cho
đến hết tuổi thọ sản phẩm hoặc sử dụng sản phẩm theo một chức năng mới,
mục đích mới.
Tái chế: Tái chế việc tái sản xuất các vật liệu thải bỏ thành những sản
phẩm mới.
2.2.
Phân loại, thành phần chất thải rắn y tế
2.2.1. Phân loại chất thải rắn y tế
Theo tổ chức y tế Thế Giới (WHO)
Chất thải thông thường: các chất thải không độc hại, về bản chất thì
tương tự chất thải sinh hoạt.
Chất thải bệnh phẩm: mô, cơ quan, bào thai, rau thai, xác động vật,
máu, dịch thể,...
Chất thải hóa học: có tính độc hại, tính ăn mòn, tính gây cháy, nhiễm
độc gen hay không độc...
Chất thải chứa phóng xạ: chất thải từ các quá trình chiếu, chụp Xquang, phân tích tạo hình cơ quan cho cơ thể, điều trị và khu trú khối u...
Chất thải nhiễm khuẩn: gồm các chất thải có chứa các tác nhân gây
bệnh như vi sinh vật kiểm định, bệnh phẩm bệnh nhân bị cách ly hoặc máu bị
nhiễm khuẩn ...
(Nguồn: Đánh giá nguy cơ của môi trường với sức khỏe 1997 NXB Y
học Hà Nội).
8
Ở Việt Nam
Theo điều 5 và 6 quy chế quản lý chất thải y tế quyết định số
43/2007/QĐ/BYT, chất thải trong các cơ sở y tế tại Việt Nam được phân chia
làm 5 loại như sau:
- Chất thải lây nhiễm: bao gồm 4 nhóm khác nhau:
Nhóm A: Chất thải sắc nhọn: là chất thải có thể gây ra các vết cắt hoặc
chọc thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm: bơm kim tiêm, kim lấy máu, đầu
sắc nhọn của dây truyền, lưỡi dao mổ, đinh mổ, cưa, các ống tiêm, mảnh thủy
tinh vỡ và các vật sắc nhọn khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
Nhóm B: Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn: là chất thải bị thấm
máu, thấm dịch sinh học của cơ thể người bệnh và các chất thải phát sinh từ
buồng bệnh nhân cách ly.
Nhóm C: Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao: là chất thải phát sinh
trong các phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm và dụng cụ đựng bệnh phẩm.
Nhóm D: Chất thải giải phẫu: bao gồm các cơ quan, bộ phận cơ thể
người, rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.
- Chất thải hóa học nguy hại:
Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng
Chất hóa học nguy hại sử dụng trong y tế
Chất gây độc tế bào gồm: vỏ trai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc gây độc tế bào và các chất tiết ra từ người bệnh được điều trị bằng hóa
trị liệu.
Chất thải chứa kim loại nặng: thủy ngân-Hg (từ nhiệt kế, huyết áp
kế thủy ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi-Cd (từ pin,
acquy), chì-Pb (từ tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì sử dụng trong ngăn
tia phóng xạ từ các khoa chẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
9
– Chất thải phóng xạ gồm: các chất phóng xạ rắn, lỏng, khí phát sinh
từ các hoạt động chuẩn đoán, điều trị, nghiên cứu và sản xuất..
Bình chứa áp suất gồm: bình đựng oxy, CO2, bình ga, bình khí dung.
Đa số các bình chứa khí nén này thường rễ nổ, dễ cháy, nguy cơ tai nạn cao
nếu không được tiêu hủy đúng qui cách.
– Chất thải thông thường: Là chất thải không chứa các yếu tố gây
nhiễm, yếu tố hóa học, phóng xạ nguy hại, dễ cháy nổ, gồm:
Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly)
Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế, như các chai
lọ thủy tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gãy
xương kín. Nhưng chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất
hóa học nguy hại.
Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu,
vật liệu đóng gói, thùng cát tông, túi nilon, túi đựng phim.
– Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
(Nguồn: quyết định số 43/2007/ QĐ – BYT về quy chế quản lý chất thải).
2.2.2. Thành phần, nguồn gốc chất thải rắn y tế
• Thành phần chất thải rắn y tế ở bệnh viện:
Chất thải rắn y tế phát sịnh trong bệnh viện chủ yếu là do các hoạt động
chuyên môn và phụ thuộc vào số giường bệnh, số bệnh nhân nằm điều trị (tỷ
lệ sử dụng giường bệnh) và còn một lượng chất thải sinh hoạt từ nhân viên y
tế trong bệnh viện. Đối với các bệnh viện ở Việt Nam, do đặc điểm có mặt
một số lượng đáng kể người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi, một vài dịch vụ
khác như nhà hàng ăn uống, sách báo vv... mà số lượng người vãng lai này
khá lớn nhiều khi tương đương với số bệnh nhân nằm viện. Chính hiện trạng
này làm cho khối lượng phát sinh chất thải rắn trong bệnh viện tăng lên, đặc
điểm thành phần chất thải bệnh viện cũng thay đổi theo (có thể tăng tỉ lệ khối
10
lượng chất thải rắn thông thường). Kết quả này dẫn đến sự quá tải hệ thống
thu gom và xử lý chất thải vốn được thiết kế theo số giường bệnh. Sự quá tải
này cũng là nguyên nhân dẫn đến quản lý, thu gom; phân loại; xử lý thiếu
nghiêm ngặt và không tuân thủ các quy định bắt buộc, do đó đẫn đến tình
trạng là một tỷ lệ chất thải rắn y tế nguy hại có thể bị lẫn vào chất thải rắn
chung và phát tán ra môi trường bên ngoài, trở thành nguồn gây ô nhiễm và
khả năng gây ra các rủi ro về môi trường và sức khỏe. (Nguồn: Đánh giá
nguy cơ của môi trường với sức khỏe 1997 NXB Y học à Nội).
• Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn y tế:
Nguồn phát sinh chất thải y tế chủ yếu là: bệnh viện, các cơ sở y tế khác
như: trung tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản phụ khoa, nhà hộ sinh,
phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu, trung tâm xét nghiệm và nghiên cứu y
sinh học, ngân hàng máu, .... hầu hết chất thải rắn y tế đều có tính chất độc hại và
tính độc thù khác với các loại chất thải rắn khác. Các nguồn xả chất lây lan độc
hại chủ yếu là ở các khu vực xét nghiệm, khu phẫu thuật.
Các loại CTR đặc thù phát sinh từ hoạt động y tế như:
Chất thải thông thường: Các chất thải ra từ nhà bếp, các khu nhà hành
chính, các loại bao gói . . .
Chất thải chứa các vi trùng gây bệnh: Các phế thải từ phẫu thuật, các
cơ quan nội tạng của người sau khi mổ xẻ và của các động vật sau quá trình
xét nghiệm, các gạc bông lẫn máu, dịch của bệnh nhân....
Chất thải bị nhiễm bẩn: Các thành phần thải ra sau khi dùng cho bệnh
nhân, các chất thải từ quá trình lau cọ sàn nhà .....
Chất thải đặc biệt: Các loại chất thải độc hại hơn các loại trên, các chất
phóng xạ, hóa chất dược..... từ các khoa khám như khoa lâm sàng (nội, ngoại,
sinh,khám bệnh) khoa cận lâm sàng (dược, X-quang, xét nghiệm,...) chữa
bệnh, hoạt động thực nghiệm, khoa dược....
(Nguồn: Thanh Hằng (2008) tình hình phát sinh chất thải rắn y tế).
11
2.3.
Hiện trạng phát sinh chất thải rắn y tế
2.3.1. Tình hình phát sinh chất thải rắn y tế trên Thế Giới
Theo báo cáo của Uỷ ban nghiên cứu và bảo vệ môi trường Liên hợp
quốc, ngày nay lượng chất thải ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất
độc hại, đặc biệt tại các khu vực nông thôn ngày càng gia tăng về số lượng và
tính chất độc hại, đặc biệt, tại các khu vực đông đúc dân cư, rác thải không
được thu gom và đây là một trong các ổ dịch gây bệnh nghiêm trọng.
(Nguồn: Thanh Hằng (2008) tình hình phát sinh chất thải rắn y tế).
Bảng 2.1 : Lượng phát sinh ở trên thế Giới
Vùng
Chất thải phát sinh hàng ngày (kg/giường)
Bắc Mỹ
11,4 – 17
Tây Âu
5,2 – 7,3
Việt Nam
1,2 – 2,5
Đông Á
3 – 4,8
Đông Âu
1,8 – 4,2
Kuwait
3,87 – 7,44
Sawdi Kbabia
1,7 – 2,4
Iran
6,4 – 11,3
Turkey
3,42 – 4,2
Nhật Bản
2,3 – 3,9
Ấn Độ
1,2 – 2,7
Thái Lan
0,89 – 1,26
Bangldesd
1,6 – 2,3
Pháp
3,8 – 4,6
(Nguồn: Thanh Hằng (2008) tình hình phát sinh chất thải rắn y tế).
Qua bảng 2.1 cho chúng ta thấy ở những vùng có nền kinh tế phát triển,
thì sự quan tâm của người dân trong vấn đề sức khỏe càng lớn nên nhu cầu
khám chữa bệnh của người dân tăng cao, từ đó lượng phát sinh CTRYT cũng
không ngừng tăng. Như ở Bắc Mỹ chiếm số lượng cao nhất 11,4 – 17 kg/
giường sau đó tới Iran 6,4 – 11,3 kg/ giường. Thấp nhất là Thái Lan chiếm
12
0,89 – 1,26 kg/giường do nhu cầu khám và chữa bệnh của người dân ở nơi
đây là chưa cao.
2.3.2. Tình hình phát sinh chất thải rắn y tế ở Việt Nam
Hiện nay, nước ta có 13.640 cơ sở khám chữa bệnh các loại gồm: 1.263
cơ sở khám chữa bệnh thuộc tuyến trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành
và bệnh viện trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành và bệnh viện tư nhiên;
1.016 cơ sở y tế dự phòng từ trung ương, 77 cơ sở đào tạo y dược cổ truyền
trung ương – tỉnh; 180 cơ sở sản xuất thuốc và 11.104 trạm y tế xã; với tổng
số hơn 219.800 giường bệnh. Tuy số lượng cơ sở khám chữa bệnh và lượng
giường bệnh là khá lớn nhưng tính bình quân, số lượng giường bệnh trên một
vạn dân, đã giảm đi theo thời gian. Nếu năm 1995, tỷ lệ này là 26,7 giường/1
vạn dân, giảm xuống còn 25,6 giường/1 vạn dân (năm 1999) và năm 2008, tỷ
lệ này chỉ còn là 25,5 giường/1 vạn dân. Điều này cho thấy tốc độ tăng trưởng
và đầu tư của ngành y tế không theo kịp sự phát triển chung của xã hội.
(Nguồn: Chương 6 – quản lý chất thải rắn 2010 hiện trạng môi trường
quốc gia).
Với số lượng bệnh viện và số giường bệnh khá lớn, thống kê đã cho thấy,
tổng lượng CTR phát sinh từ các cơ sở y tế năm 2005 vào khoảng 300 tấn/ ngày,
trong đó có 40 – 50 tấn/ ngày là CTR y tế nguy hại. Đến năm 2008, tổng lượng
CTR y tế phát sinh là hơn 490 tấn/ ngày, trong đó có khoảng 60 – 70 tấn/ ngày là
CTR y tế nguy hại phải xử lý. Tỷ lệ này khác nhau giữa các bệnh viện, tùy thuộc
số giường bệnh, BV chuyên khoa hay đa khoa, các thủ thuật chuyên môn được
thực hiện tại BV, số lượng vật tư tiêu hao được sử dụng ...
(Nguồn: Chương 6 – quản lý chất thải rắn 2010 hiện trạng môi trường quốc gia).
Bảng 2.2 : Lượng chất thải phát sinh tại các khoa trong bệnh viện
13
Tổng lượng chất thải phát
Tổng lượng chất thải y tế
sinh (kg/giường.ngày)
nguy hại (kg/giường. ngày)
BV trung
Khoa
ương
(TW)
BV
BV
tỉnh
huyện
BV
trung
ương
BV
tỉnh
BV huyện
Hồi sức cấp cứu
1,08
1,27
1,00
0,30
0,31
0,18
Nội
0,64
0,47
0,45
0,04
0,03
0,02
Nhi
0,50
0,41
0,45
0,04
0,05
0,02
Ngoại
1,01
0,87
0,73
0,26
0,21
0,17
Sản
0,82
0,95
0,74
0,21
0,22
0,17
Mắt, tai, mũi, họng
0,66
0,68
0,34
0,12
0,10
0,08
Cận lâm sang
0,11
0,10
0,08
0,03
0,03
0,03
(Nguồn: Bộ y tế, 2010)
Trong số hơn 13.640 cơ sở khám chữa bệnh có 41 cơ sở khám chữa
bệnh (bao gồm 36 bệnh viện, 2 phòng khám đa khoa khu vực, 1 bệnh viện
điều dưỡng và 2 cơ sở khác) thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ y tế với 15.340
giường bệnh. Các cơ sở khám chữa bệnh này phần lớn đã được đầu tư, áp
dụng công nghệ thiêu đốt chất thải tập trung hoặc lò đốt, …
Nếu chỉ riêng 19 bệnh viện tuyến trung ương, khối lượng chất thải y tế
phát sinh vào khoảng 19,8 tấn/ ngày; trong đó, khoảng 80,7% là CTR y tế
thông thường, 19,3% còn lại là chất thải y tế nguy hại (chất thải lây nhiễm,
chất thải hóa học và chất thải phóng xạ)
(Nguồn: Bộ y tế 2009, xây dựng kế hoạch cho quản lý và xử lý chất thải y tế).
Bảng 2.3 : Thành phần trong CTR từ các bệnh viện đa khoa
Thành phần chất thải
% trọng lượng
14
Thành phần phân loại
26,8 – 40
Chất thải thông thường (vỏ bánh, lá cây, đồ ăn thừa,…)
Giấy, bao gói các loại
3,0 – 9,84
Kim tiêm, các vật sắc nhọn …
1,3 – 2,29
Bông băng dính máu mủ
4,58 – 18,1
Bệnh phẩm
1,31 – 13,8
Các đồ vật bằng nhựa
2,63 – 3,2
Các đồ vật bằng kim loại
0,64 – 1,4
Thủy tinh vỡ, chai lọ …
1,8 – 2,63
Thuốc hết hạn sử dụng
0,1 – 1,6
Các chất khác
12,5 – 26
Thành phần phân tích
Tỷ trọng chất thải nguy hại (tấn/m3)
0,12 – 0,16
Độ ẩm của chất thải nguy hại (%)
38,2 – 40,5
Độ tro của chất thải nguy hại (%)
12,5 – 15,6
Nhiệt trị (Kcal/kg)
2.400 – 3.200
(Nguồn: Nguyễn Thị Kim Thái, 2007)
Qua bảng 2.3 ta thấy các chất thải y tế được sản sinh ra từ: các bệnh
viện, các phòng khám đa khoa, các phòng xét nghiệm và thí nghiệm, các khu
điều dưỡng, ngân hàng máu, nhà xác, trung tâm khám nghiệm tử thi, các cơ
sở sản xuất dược phẩm,…
Các chất thải bệnh viện gồm: chất thải nhiễm khuẩn, những phần cơ thể
bị cắt bỏ và xác chết động vật, các vật sắc nhọn, hóa chất, dược phẩm hết hạn,
không dùng đến và bị nhiễm bẩn, vật liệu có hoạt tính phóng xạ, kim loại
nặng,…
2.4. Ảnh hưởng của chất thải y tế đến sức khỏe con người và môi trường
2.4.1. Tác hại của chất thải y tế lên sức khỏe cộng đồng
Chất thải rắn y tế có thể tạo nên những mối nguy cơ tiềm tàng cho sức
khỏe con người. Việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc
tổn thương. Khả năng gây rủi ro từ chất thải y tế có thể do một hay nhiều đặc
trưng cơ bản sau đây: chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là tác
nhân nguy hại trong rác thải y tế; các hóa chất dược phẩm có thành phần độc,
15
tế bào nguy hiểm; các chất chứa đồng vị phóng xạ. Các vật sắc nhọn có thể
gây tổn thương và một số chất thải có yếu tố ảnh hưởng tâm lý xã hội.
Những đối tượng chính có nguy cơ cao đối với tác hại của chất thải y tế:
– Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên văn thư lưu trữ, văn thư đóng dấu,
trực điện thoại, tạp vụ của bệnh viện, những người thực hiện các thủ thuật
xâm lấn, tiêm, thay băng,vv...
– Những người thực hiện nhiệm vụ phân loại, thu gom và vận chuyển
chất thải y tế từ ngay tại nguồn về nơi tập kết của bệnh viện.
– Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc bệnh nhân ngoại trú.
– Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi.
– Những công nhân làm việc trong các lĩnh vực hỗ trợ bệnh viện phục
vụ cho các cơ sở khám chữa bệnh và điều trị, chẳng hạn như giặt là, lao công,
vận chuyển bệnh nhân, vệ sinh tẩy rửa, vệ sinh môi trường.
– Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại bãi đổ rác
thải, các lò đốt rác) và những người bới rác, thu rác.
– Cộng đồng dân cư xung quanh.
Bệnh viện là nơi tập trung rất lớn các tác nhân gây bệnh do các vật sắc
nhọn bị nhiễm các vi sinh vật gây bệnh là một ví dụ. Các vật sắc nhọn có thể
không chỉ là nguyên nhân gây ra những vết cắt, vết đâm thủng mà còn gây
nhiễm trùng các vết thương nếu nó bị nhiễm các tác nhân gây bệnh. Như vậy,
những vật sắc nhọn được coi là một loại chất thải y tế rất nguy hiểm bởi nó
gây những tổn thương kép: vừa gây tổn thương lại vừa lây truyền các bệnh
truyền nhiễm. (Nguồn: Đinh hữu Dung 2003, thực trạng tình hình quản lý và
ảnh hưởng của CTRYT)
2.4.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới môi trường
Theo quy định của pháp luật, các chất thải y tế phải được kiểm soát
nghiêm ngặt và xử lý đạt yêu cầu của tiêu chuẩn môi trường quy định, nhưng
16
thực tế hiện nay lại khác. Chất thải y tế đặc biệt là chất thải y tế nguy hại phần
lớn chưa được xử lý hay xử lý không đạt tiêu chuẩn quy định đã và đang là
vấn đề đáng lo ngại cho môi trường:
Chất thải y tế bao gồm cả chất thải thông thường và chất thải y tế nguy
hại. Hai dạng chất thải này đều có tác động đến môi trường nước ở các mức
độ khác nhau. Chúng có thể chứa các vi sinh vật gây bệnh, chứa kim loại
nặng, phần lớn là thủy phân từ nhiệt kế và bạc từ quá trình tráng rửa phim X
quang. Một số dược phẩm nhất định, nếu xả thải mà không xử lý có thể gây
niễm độc nguồn nước cấp.
Trong chất thải thông thường, rác hữu cơ khi vào môi trường nước sẽ bị
phân hủy dưới tác dụng của nhiều yếu tố. Phần chât nổi lên sẽ thông qua quá
trình khoáng hóa chất hữu cơ để tạo ra các sản phẩm trung gian cuối cùng là
chất khoáng và nước. Phần chìm trong nước sẽ bị quá trình phân hủy yếm khí
tạo thành các chất trung gian và tạo các khí CH 4, H2S, H2O,… có nguy cơ gây
nhiễm bẩn môi trường nước, làm cho nước có mùi khó chịu và tăng độc tính
trong nước. Ngoài ra trong rác sinh hoạt còn chứa một lượng các vi sinh vật
gây ô nhiễm nguồn nước và làm giảm chất lượng nguồn nước.
Nghiêm trọng hơn là chất thải y tế nguy hại với đặc tính chứa nhiều
mầm bệnh và các chất độc hại khi không được quản lý chặt chẽ sẽ lan truyền
rất nhanh đến các nguồn nước và ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm một
cách nghiêm trọng. Điều này sẽ gây tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng khi
sử dụng nguồn nước này.
Môi trường đất bị ô nhiễm do chất thải y tế chứa nhiều các mầm bệnh,
kí sinh trùng, hóa chất độc hại, tiêu hủy không an toàn chất thải nguy hại như
tro lò đốt hay bùn của hệ thống xử lý nước thải đi vào trong đất. Các nhân tố
gây ô nhiễm này có thể đi vào đất qua con đường nước ngầm từ nguồn chảy
tràn, thấm từ nước mặt hoặc các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh. Các yếu tố
17
này sẽ góp phần đáng kể vào quá trình suy thoái đất, không dùng làm đất canh
tác được. Con người cũng có thể bị ảnh hưởng do sử dụng các loại thực phẩm
trồng trên các vùng đất bị ô nhiễm.
Nguy cơ ô nhiễm không khí tăng lên khi phần lớn chất thải nguy hại
được thiêu đốt trong điều kiện không đảm bảo tiêu chuẩn. Việc thiêu đốt
không đủ nhiệt độ trong khi rác thải đưa vào quá nhiều sẽ gây ra nhiều khói
đen. Việc đốt chất thải y tế đựng trong túi nilon PVC cùng với các loại dược
phẩm nhất định có thể tạo ra khí chứa axit, thường là HCl và SO 2. Trong quá
trình đốt các dẫn xuất halogen (F, Cl, Br, I,…) ở nhiệt độ thấp thường tạo ra
axit như HCl, điều đó dẫn đến nguy cơ tạo thành dioxin, một loại hóa chất vô
cùng độc hại ngay cả ở nồng độ thấp. Các kim loại nặng như thủy ngân có
thể phát thải theo khí lò đốt gây mùi hôi khó chịu và sản sinh ra nhiều chất
độc hại.
Các mầm bệnh kí sinh trùng, vi trùng và vi khuẩn trong chất thải y tế có
thể phát tán vào không khí làm nhiễm bẩn môi trường không khí gây ra một
số loại bệnh như bệnh cảm cúm. Sự lan truyền của những bệnh này sẽ gây ra
những hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế - xã hội.
18
2.5.
Hiện trạng quản lý, xử lý chất thải rắn y tế
2.5.1. Hiện trạng quản lý, xử lý chất thải rắn y tế trên thế giới
Ở Pháp: các chất thải nguy hại chỉ được thiêu hủy khoảng 40%, số còn
lại chưa được xử lý hợp vệ sinh. Hiện nay hàng năm có khoảng 20 triệu tấn
chất thải không được xử lý đã chất đống ở những nơi hoang vu và không
người khai thác. Ngoài ra do phí lưu giữ chất thải ở Pháp khá rẻ nên các nước
láng giềng đã không do dự mang chất thải của quốc gia mình sang đổ ở các
bãi chất thải tại Pháp.
Ở Hà Lan: việc xử lý chất thải của Hà Lan được sự tham gia tổng lực
của chính quyền, xã hội cũng như các cơ quan chuyên ngành. Chất thải nguy
hại được xử lý bằng nhiều cách khác nhau, trong đó phần lớn được thiêu hủy,
một phần được tái chế. Trước đây, Hà Lan tiến hành thiêu hủy chất thải nguy
hại ở ngoài biển. Hằng năm, Hà Lan có tới hơn 20 triệu tấn chất thải, 60%
trong số này được đổ ở các bãi chứa, phần còn lại được đưa vào các lò thiêu
hủy hoặc tái chế. Để bảo vệ môi trường, chính phủ Hà Lan đã đề ra mục tiêu
giảm chất thải hàng năm để giảm chi phí xử lý. Công nghệ xử lý chất thải
nguy hại chủ yếu được áp dụng là thiêu hủy, nhiệt năng do các lò thiêu hủy
sinh ra sẽ được hòa nhập vào mạng lưới năng lượng chung của đất nước. Việc
thiêu hủy chất thải nguy hại được tiến hành ở những lò đốt hiện đại với kĩ
thuật mới nhất, hoặc việc tổ chức sản xuất được ứng dụng những quy trình
đặc biệt nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu mới, thuận lợi cho công việc chế biến.
Ở Hồng Kông: cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung được xây dựng
từ năm 1987 đến năm 1993. Với hệ thống thu gom vận chuyển và thiết bị xử
lý hiện đại, công nghệ chủ yếu là xử lý nhiệt và xử lý hóa/ lý, đã xử lý được
hầu hết lượng chất thải nguy hại tại Hồng Kông. Tại đây người ta cũng đã tiến
hành nghiên cứu và đề xuất quy chế chung về sự tiêu hủy chất thải, đặc biệt là
chất thải hóa học. Nhờ hệ thống nghiền nhỏ để chôn lấp, hệ thống kiểm soát
19
việc chôn lấp, kiểm soát nơi thu gom, vận chuyển xử lý và tiêu hủy chất thải,
nhất là chất thải rắn nguy hại đã góp phần nâng cao chất lượng quản lý ở
Hông Kông.
(Nguồn: Thanh Hằng 2008 biện pháp quản lý và xử lý lượng chất thải
rắn y tế)
2.5.2. Hiện trạng quản lý, xử lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam
2.5.2.1. Tình hình quản lý chất thải rắn y tế
Đới với các cơ sở khám chữa bệnh ở địa phương do các cơ sở y tế quản
lý, công tác thu gom, lưu giữ và vận chuyển chất thải rắn chưa được chú
trọng, đặc biệt là công tác phân loại và lưu giữ tại nguồn (chất thải y tế thông
thường và chất thải y tế nguy hại ....).
20
Chất thải rắn bệnh viện
( nơi phát sinh )
CT thông
thường
( túi màu
xanh )
CT lây
nhiễm (
túi màu
vàng )
CT sắc
nhọn
Nhóm A
CT lây
nhiễm không
sắc nhọn
Nhóm B
CT hóa
học ngây
hại ( túi
màu đen )
CT có nguy
cơ lây
nhiễm cao
Nhóm C
Thiêu
đốt
CT phóng
xạ ( túi
màu đen )
CT giải
phẫu
Nhóm D
CT tái
chế ( túi
màu
trắng )
Khử
trùng
Chôn lấp
theo quy
định
Bình chứa
áp suất (túi
màu xanh)
Trả lại nơi
sản xuất
ban đầu
Tái chế,
tái sử
dụng
Hình 2.1: Quản lý và xử lý chất thải rắn của bệnh viện
21
Xử lý theo
pháp lệnh an
toàn bức xạ
Kết quả điều tra năm 2002 của bộ y tế tại 294 bệnh viện trong cả nước
cho thấy 94,2% bệnh viện phân loại CTYT tại nguồn phát sinh, chỉ có 5,8%
bệnh viện chưa thực hiện. Các bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh, bệnh
viện tư nhân thực hiện phân loại CTYT ngay tại nguồn tốt hơn các bệnh viện
tuyến huyện và bệnh viện ngành. Có 93,9% bệnh viện thực hiện tách riêng vật
sắc nhọn ra khỏi CTYT, hầu hết các bệnh viện sử dụng chai nhựa, lọ truyền
đã dùng để đựng kim tiêm. Nhưng qua kiểm tra thực tế, việc phân loại CTYT
ở một số bệnh viện chưa chính xác , làm giảm hiệu quả của việc phân loại
chất thải. 85% bệnh viện sử dụng mã màu trong việc phân loại, thu gom và
vận chuyển chất thải.
Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa tỉnh của Đinh Hữu Dung
(2003) cho thấy: cả 6 bệnh viện đều phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn
phát sinh nhưng chưa có bệnh viện nào phân loại rác đúng theo Quy chế của
bộ y tế và việc phân loại phụ thuộc vào hình thức xử lý hiện có của bệnh viện.
Kết quả thanh tra, kiểm tra Bộ Y tế (2004) về RTYT ở 175 bệnh viện
tại 14 tỉnh, thành phố, cho thấy số bệnh viện có thùng chứa chất thải chiếm
76%, có bể chứa rác chiếm 9,6%, có nắp đậy thùng rác hoặc mái che bể chứa
rác chiếm 43%, rác được để riêng biệt chiếm 19,3% trong tổng số bệnh viện,
nơi chứa rác thải đảm bảo vệ sinh chiếm 35,5%; 29% bệnh viện chôn CTR
trong bệnh viện; có 3,2% bệnh viện vừa chôn, vừa đốt trong khuôn viên bệnh
viện. Hầu hết các CTR trong bệnh viện đều không được xử lý trước khi đem
đốt hoặc chôn. Một số ít bệnh viện có lò đốt RTYT nhưng lại quá cũ kỹ và
gây ô nhiễm môi trường.
Kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2007) tại 4 bệnh viện Hà Nội, bệnh viện
lao và bệnh viện phổi trung ương được đánh giá là bệnh viện quản lý rác thải
tốt nhất trong 4 bệnh viện được kiểm tra nhưng đoàn kiểm tra đã phát hiện
trong buồng bệnh chỉ có thùng đựng rác sinh hoạt thiếu thùng chứa đờm của
22
bệnh nhân. Ở bệnh viện Việt đức tất cả rác thải đều chứa chung trong một loại
túi đựng rác màu vàng.
Còn nhiều bệnh viện (45%) chưa tách riêng các vật sắc nhọn ra khỏi
chất thải rắn y tế làm tăng nguy cơ rủi ro cho những người trực tiếp vận
chuyển và tiêu hủy chất thải. Trong số các bệnh viện đã thực hiện hành tách
riêng vật sắc nhọn, có tới 11,4 % bệnh viện tuy có tách vật sắc nhọn nhưng
chưa thu gom vào các hộp đựng vật sắc nhọn theo đúng tiêu chuẩn quy định,
đa số các bệnh viện (88,6%) thường đựng các vật sắc nhọn vào vỏ chai truyền
dịch, chai nhựa đựng nước hay vật dụng tự tạo.
Về công tác vận chuyển, thực tế ở nhiều bệnh viện vẫn còn tình trạng
xe chở rác quá cũ kỹ, không có nắp đậy lại không được vệ sinh thường xuyên.
Do đó trong quá trình vận chuyển còn làm vương vãi rác, lúc lưu trữ thì phát
tán mùi hôi gây ảnh hưởng đến môi trường bệnh viện, cộng đồng dân cư xung
quanh và sức khỏe bệnh nhân (chỉ có 53% số bệnh viện sử dụng xe có nắp
đậy để vận chuyển chất thải y tế nguy hại; 53,4% bệnh viện có mái che đẻ lưu
giữ RTYT) trong đó 45,3% đạt yêu cầu theo quy chế. Đây là những yếu tố để
đảm bảo an toàn cho người bệnh và môi trường.
Việc vận chuyển chất thải rắn y tế ra ngoài do các bệnh viện kí hợp
đồng với cơ sở có tư cách pháp nhân trong việc vận chuyển và tuy hủy chất
thải. Trường hợp ở địa phương chưa có cơ sở đủ tư cách pháp nhân trên thì cơ
sở y tế phải báo cáo với chính quyền địa phương để giải quyết. Chất thải rắn y
tế nguy hại phải được vận chuyển bằng phương tiện chuyên dụng đảm bảo vệ
sinh, đáp ứng yêu cầu tại thông tư số 12/2011/TT – BTNMT của bộ tài
nguyên và môi trường về hướng dẫn các điều kiện hành nghề và thủ tục lập
hồ sơ đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại. Chất
thải rắn nguy hại trước khi vận chuyển tới nơi tiêu hủy phải được đóng gói
trong các thùng để tránh bị bục, vỡ trên dường vận chuyển. Đối với chất thải
23
giải phẫu phải đựng trong hai lượt túi màu vàng, đóng gói riêng trong thùng
hoặc hộp, dán kín nắp và ghi nhãn “ Chất Thải Giải Phẫu “ trước khi vận
chuyển đi tiêu hủy.
Tuy nhiên, việc vận chuyển chất thải ra khỏi bệnh viện phải có hồ sơ
theo dõi. Mỗi bệnh viện phải có hệ thống số theo dõi lượng chất thải phát sinh
hàng ngày, có chứng từ chất thải nguy hại và chất thải thông thường được vận
chuyển đi tiêu hủy theo mẫu quy định tại thông tư số 12/2011/TT – BTNMT
của bộ tài nguyên và môi trường về hướng dẫn các điều kiện hành nghề và thủ
tục lập hồ sơ đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại.
(Nguồn: Đinh Hữu Dung 2003 thực trạng tình hình quản lý và ảnh
hưởng của CTYT tới môi trường)
2.5.2.2.Một số biện pháp xử lý chất thải rắn y tế hiện nay
• Về xử lý chất thải ban đầu
Theo quy định, chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao phải được xử lý an
toàn gần nơi chất thải phát sinh. Phương pháp xử lý ban đầu chất thải có nguy
cơ lây nhiễm cao có thể áp dụng một trong các phương pháp sau:
– Khử khuẩn bằng hóa chất: ngâm chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao
trong dung dịch Cloramin B 1-2% trong thời gian tối thiểu 30 phút hoặc các
hóa chất khử khuẩn khác theo hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất và quy
định của Bộ y tế.
– Khử khuẩn bằng hơi nóng: cho chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao
vào trong máy khử khuẩn bằng hơi nóng và vận hành theo đúng hướng dẫn
của nhà sản xuất.
– Đun sôi liên tục trong thời gian tối thiểu 15 phút.
Dưới đây là hình 2.2 các phương pháp xử lý chất thải rắn bệnh viện
được áp dựng hiện nay ở nước ta:
24
CT
nhiễm
khuẩn
Bệnh
phẩm
CT
sắc
nhọn
CT
dược
Thanh trùng bằng
hóa chất
CT gây
độc tế
bào
CT hóa
chất
CT
phóng
xạ mức
thấp
XL bằng vi
sóng
Hấp trong
autoclave
Trơ hóa
Trả lại nơi
cung cấp
Đốt trong lò 2
buồng
Đổ vào cống
Đốt trong lò 1
buồng
Tự phân rã
trong kho
Đốt trong lò xây
đơn giản
Chôn trong bệnh viện
Chôn lấp hợp vệ
sinh
Hình 2.2 : Các phương pháp xử lý chất thải y tế
25