Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nghiên cứu thực trạng công tác quản lý rừng ngập mặn xã đồng rui – huyện tiên yên tỉnh quảng ninh và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển rừng”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 75 trang )

MỤC LỤC
Phụ lục 2:..............................................................................................................................65
Quyết định số 368/QĐ-UB ngày 10 tháng 5 năm 2006 của UBND xã Đồng Rui, huyện
Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh....................................................................................................65
Phụ lục 3: Quy chế hoạt động của ban quản lý rừng cộng đồng của thôn Bốn....................67
QUY CHẾ.............................................................................................................................67
HOẠT ĐỘNG CỦA BAN QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG............................................67
THÔN BỐN..........................................................................................................................67

DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Diện tích RNM chuyển đổi mục đích sử dụng khác trong giai đoạn
1988 – 2003......................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Tiến độ bảo vệ RNM Quảng Ninh 2006-2015 (ha).....Error: Reference
source not found
Bảng 4.1: Hiện trạng và kế hoạch sử dụng đất xã Đồng Rui năm 2011........Error:
Reference source not found
Bảng 4.2: Tình hình dân số tại xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên....Error: Reference
source not found
Bảng 4.3: Dân số và dân tộc xã Đồng Rui năm 2011. Error: Reference source not
found
Bảng 4.4: Bảng cơ cấu lao động theo ngành xã Đồng Rui năm 2011...........Error:
Reference source not found
Bảng 4.5: Bảng tổng hợp diện tích RNM huyện Tiên Yên giai đoạn 2005 – 2010
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 4.6: Bảng phân bố rừng ngập mặn xã Đồng Rui năm 2011 Error: Reference
source not found
Bảng 4.7: Bảng giao đất, giao rừng xã Đồng Rui năm 2006........Error: Reference
source not found
Bảng 4.8: Các đợt trồng RNM ở Đồng Rui......Error: Reference source not found

i




DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1: Sơ đồ xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên – Tỉnh Quảng Ninh...........Error:
Reference source not found
Hình 4.2: Biểu đồ thể hiện cơ cấu kinh tế của xã Đồng Rui........Error: Reference
source not found
Hình 4.3: Cây RNM bị chặt phá dể NTTS.......Error: Reference source not found
Hình 4.4: RNM ở nơi NTTS đang đắp dở........Error: Reference source not found
Hình 4.5: Biến động diện tích rừng ngập mặn từ năm 2006 – 2011..............Error:
Reference source not found
Hình 4.6: Hình ảnh xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh qua vệ tinh
..............................................................................Error: Reference source not found
Hình 4.7: Bảng tin truyền thông bảo vệ rừng cạnh đường chính đi vào xã...........Error:
Reference source not found
Hình 4.8: Bảng tin truyền thông bảo vệ rừng ở các thôn. .Error: Reference source
not found
Hình 4.9: Bảng tam giác truyền thông bảo vệ RNM và động vật hoang dã. .Error:
Reference source not found
Hình 4.10: Lưới bẫy chim.................................Error: Reference source not found
Hình 4.11: Rừng trồng đợt 6, năm 2005...........Error: Reference source not found
Hình 4.12: Trồng rừng đợt 8, năm 2007...........Error: Reference source not found
Hình 4.13: Rừng ngập mặn đang dần được phục hồi, năm 2011. Error: Reference
source not found

ii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


RNM
ĐNN
NTTS
THCS
THPT
VSV

Rừng ngập mặn
Đất ngập nước
Nuôi trồng thủy sản
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Vi sinh vật

BQL

Ban quản lý

ĐDSH

Đa dạng sinh học

UBND

Ủy ban nhân dân

ĐVN

Động vật nổi


TVN

Thực vật nổi

TVNM

Thực vật ngập mặn

NGO.

Tổ chức phi chính phủ

iii


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên thiên nhiên luôn gắn với cuộc sống của loài người đã từ rất
lâu. Mỗi loại tài nguyên đều có những giá trị kinh tế, xã hội hay giá trị môi
trường nhất định. Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái đa dạng có nhiều tài
nguyên quí giá và có vai trò quan trọng, đóng góp cho đời sống con người, đặc
biệt là cư dân vùng cửa sông ven biển. Rừng ngập mặn cung cấp gỗ củi, tanin,
các loài cây làm thuốc. Các loài động vật trong rừng ngập mặn cho thịt và nhiều
nguồn lợi thuỷ sản. Rừng ngập mặn có vai trò vận chuyển chất hữu cơ đến chuỗi
thức ăn ven biển, ổn định vật lý đối với bờ biển như chống xói mòn, sạt lở, bảo
vệ các vùng nội địa khỏi sự phá hoại của bão gió và sóng biển và có tác dụng
như những bồn chứa dinh dưỡng và cacbon. Ngoài ra, rừng ngập mặn cũng là tài
nguyên du lịch sinh thái đầy tiềm năng. Tuy nhiên do phương thức quản lý và sử
dụng chưa thật hiệu quả, rừng ngập mặn hiện nay đang chịu nhiều sức ép, đang
bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng.

Rừng ngập mặn ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên (cửa sông Ba Chẽ), tỉnh
Quảng Ninh là một hệ sinh thái đặc thù, nhạy cảm, có tính đa dạng sinh học cao
và đang chịu nhiều áp lực do đói nghèo, do phát triển kinh tế - xã hội. Xã Đồng
Rui có tổng diện tích tự nhiên là 4.974,21 ha, trong đó có 2750,75 ha rừng ngập
mặn và 245,3 ha rừng trồng. Trước năm 2006, diện tích rừng ngập mặn bị suy
giảm do người dân phá rừng để lấy đất nuôi trồng thủy sản, thu nhập từ đánh bắt
hải sản và nuôi trồng thủy sản chiếm trên ½ thu nhập tổng của xã. Tuy nhiên
những năm gần đây, sản lượng đánh bắt cũng như nuôi trồng thuỷ hải sản đã có
những dấu hiệu suy giảm, chất lượng đầm nuôi và nguồn lợi hải sản từ rừng
ngập mặn cũng đang bị suy kiệt. Nguyên nhân là do các hoạt động phát triển
kinh tế-xã hội, đặc biệt là quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phương thức
nuôi trồng đa phần là quảng canh cải tiến.

1


Để nghiên cứu nguyên nhân suy giảm số lượng và chất lượng rừng ngập
mặn và thực trạng công tác quản lý rừng ngập mặn ở xã Đồng Rui – huyện Tiên
Yên – Tỉnh Quảng Ninh em đã tiến hành đi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thực
trạng công tác quản lý rừng ngập mặn xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên - tỉnh
Quảng Ninh và đề xuất một số giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển rừng”.
I.2. Mục tiêu của đề tài
I.2.1. Mục tiêu
Đánh giá thực trạng công tác quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn xã
Đồng Rui - huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh và đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn.
I.2.2. Yêu cầu
- Xác định hiện trạng phân bố và chất lượng rừng ngập mặn xã Đồng Rui
- huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh
- Tìm hiểu thực trạng công tác quản lý rừng ngập mặn xã Đồng Rui huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh

- Xác định nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực đến rừng ngập mặn xã
Đồng Rui - huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh
- Đề xuất các giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn

2


II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1. Khái niệm đất ngập nước và hiện trạng các vùng đất ngập nước ở Việt Nam
Theo công ước RamSar, (Điều 1.1), các vùng đất ngập nước được định
nghĩa như sau: “Các vùng đầm lầy, đầm lầy đất trũng, vùng đất than bùn hoặc
nước, tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước đứng hay
chảy, nước ngọt, lợ hay mặn, kể cả những vùng nước biển với độ sâu ở mức
triều thấp, không quá 6m”.
Ngoài ra, Công ước (Điều 2.1) còn quy định các vùng đất ngập nước: “
Có thể bao gồm các vùng ven sông và ven biển nằm kề các vùng đất ngập nước,
cũng như các đảo hoặc các thuỷ vực biển sâu hơn 6m khi triều thấp, nằm trong
các vùng đất ngập nước”.
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hěnh và hệ sinh thái,
thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có
tính ĐDSH cao:
- Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị
như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ,
bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác;
xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại
tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động
vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
- Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á.
U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm

lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
- Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính
pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất

3


phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã
sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
- Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển
ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xă rạn san
hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn.
Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú
biển Dugon.
- Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các
đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có
mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển...[4]
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng
sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long:
- ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha.
Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật
vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước.
- ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684
ha. Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn
sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những
vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng
sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở
vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông.
Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của měnh.
Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào

từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.[4]
2.1.2. Khái niệm rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (RNM) là một loại rừng đặc biệt ở vùng cửa sông, ven
biển của các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây ngập mặn sinh trưởng và phát

4


triển tốt trên các bãi bùn lầy ngập nước biển, nước lợ có thủy triều lên xuống
hằng ngày.
Việt Nam có bờ biển dài trên 3.260 km với nhiều cửa sông giàu phù sa
nên RNM sinh trưởng tốt, có khoảng 50 loài cây ngập mặn được nhận dạng
(Phan Nguyên Hồng và ctv., 1995).
Rừng ngập mặn (RNM) không những có tác dụng to lớn cho bảo vệ bờ
biển, hạn chế tác hại của thiên tai mà nguồn lợi trong hệ sinh thái RNM cũng rất
quan trọng;ngoài các lâm sản, phải kể đến tài nguyên thủy sản, được khai thác
trực tiếp không chỉ trong các hệ thống kênh rạch, mà còn cả một vùng ven biển
rộng lớn xung quanh. Tuy nhiên, nhận thức về vai trò của hệ sinh thái RNM vẫn
chưa đầy đủ, tình trạng phá RNM còn diễn ra ở một số nơi. Cho nên, việc quản
lý bền vững hệ sinh thái này là trách nhiệm của chính quyền địa phương, các
ngành nông – lâm – ngư nghiệp và cộng đồng ven biển. [3]
2.1.3. Khái niệm đa dạng sinh học
Theo Công ước Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học"
(biodiversity, biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật
sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các
hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là
một thành phần,...; thuật ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các
loài và giữa các hệ sinh thái.
Đa dạng sinh học nói đến sự phong phú về nguồn gen, loại sinh vật trong
hệ sinh thái trong tự nhiên. Ví dụ trong hệ sinh thái môi trường không những có

các sinh vật sống mà còn có cả động và thực vật khác nhau và nhiều vi sinh vật
khác nhau thì đa dạng sinh học rất phong phú. Ngược lại nếu số lượng cá thể
đông nhưng nguồn gen lại ít, thì đa dạng sinh học nghèo nàn.[5]
2.1.4. Khái niệm về tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên là các dạng vật chất được hình thành trong suốt quá trình hình
thành, phát triển của tự nhiên, cuộc sống sinh vật và con người. Các dạng vật

5


chất này cung cầp nguyên liệu, nhiên liệu, hỗ trợ và phục vụ cho nhu cầu của
con người.[6]
2.2. Vai trò của RNM
2.2.1. Vai trò của RNM đối với hệ sinh thái
Nguồn thức ăn đầu tiên, phong phú và đa dạng cung cấp cho các loài hải
sản là xác hữu cơ thực vật dạng hạt, hoặc còn gọi là mùn bã hữu cơ, đó là sản
phẩm của quá trình phân hủy xác thực vật, bao gồm: lá, cành, chổi, rễ,…của các
cây ngập mặn. Bên cạnh đó những chất thải rắn trong sinh hoạt, y tế, công
nghiệp, nông nghiệp cùng với các hóa chất dư thừa từ nội địa theo sông ra RNM
được giữ lại và nhờ VSV phân hủy, biến chúng thành thức ăn cho hệ sinh vật ở
đây và làm trong sạch nước biển. Người ta đã ví RNM là quả thận khổng lồ lọc
các chất thải cho môi trường vùng ven biển.
RNM không những là nơi cung cấp thức ăn mà còn là nơi cư trú, nuôi
dưỡng con non của nhiều loài thủy sản có giá trị, một số các loài động vật có thể
tìm thấy trong rừng ngập mặn như: các loại cá, chim, cua, sò huyết, ngêu, hàu,
tôm, ốc, chuột, rơi và khỉ.
RNM còn là khu vực kiếm ăn, nơi sinh sản và nuôi dưỡng quan trọng
của nhiều loài cá, động vật có vỏ và tôm. Lá và thân cây ngập mặn , khi bị phân
hủy sẽ cung cấp các vụn chất hữu cơ vốn là nguồn thức ăn quan trọng cho các
loài thủy sinh. Tương tự như vậy các loài động vật phù du sống dưới rễ của các

cây ngập mặn là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều loại cá.
Rừng ngập mặn đặc biệt quan trọng đối với các loài cá đánh bắt thương
mại, vốn đã có rất nhiều loài đã đẻ trứng trong rễ cây rừng ngập mặn nhằm mục
đích bảo vệ con của chúng. Quan trọng hơn, 75% các loài cá đánh bắt thương
mại ở vùng nhiệt đới trải qua một thời gian nào đó trong vòng đời của mình tại
khu rừng ngập mặn
RNM đóng một vai trò trong các hệ thống lưới thức ăn phức tạp. Điều
này có nghĩa là sự phá hủy rừng ngập mặn có thể có tác động rất xấu và rộng

6


đến đời sống thủy sinh và đại dương. Sự suy kiệt của RNM là một nguyên nhân
chính dẫm đến suy kiệt đời sống thủy sinh vì rừng ngập mặn không còn để đóng
vai trò như vườn ươm hay chỗ kiếm ăn cho những sinh vật thủy sinh nhỏ. Kết
quả là trữ lượng thủy sản không thể được tái tạo. Sản lượng cá, tôm, động vật có
vỏ và cua sẽ giảm. Không có các sinh vật thủy sinh nhỏ vào thời điểm này nghĩa
là không có những nguồn cá để đánh bắt trong tương lai.[3]
2.2.2. Vai trò của RNM đối với sinh kế của người dân
2.2.2.1. RNM cung cấp gỗ
Cung cấp gỗ và vật liệu: Gỗ các loài cây đước, vẹt, cóc, dà rất cứng, mịn,
bền dùng làm cột nhà, ván, xà, đồ dùng trong gia đình, cầu, cọc chài lưới... Gỗ
các loài cây tạp như mắm, bần, giá dùng làm ván ép. Lá cây dừa nước dùng để
làm nhà, làm vách, mui thuyền và một số dụng cụ gia đình khác.
Cung cấp Tanin: Tanin chiết từ vỏ của cây đước, vẹt, dà có chất lượng tốt,
tỉ lệ cao, dùng nhuộm vải, lưới, thuộc da. Trụ mầm của các cây trong họ đước
cũng chứa nhiều tanin, nhân dân ven biển Thái Bình trước đây đã khai thác để
làm thuốc chữa bệnh tiêu chảy và nhuộm lưới.
Cung cấp chất đốt: Các cây ngập mặn là nguồn chất đốt chủ yếu của nhân
dân vùng ven biển. Nếu như biết khai thác hợp lý và phát triển rừng trồng trên

các bãi bồi thì có thể sử dụng lâu dài. Than đước, vẹt có nhiệt lượng cao, lâu tàn
được nhân dân các thành phố và thị trường thế giới ưa chuộng.
Cung cấp thức ăn, đồ uống: Hầu hết lá các loài cây ngập mặn là thức ăn
giàu đạm cho gia súc. Quả mắm nhiều đạm, có thể muối dưa, luộc ăn khi thiếu
gạo. Một số loài cá như cá dứa rất thích quả mắm. Nhựa cây dừa nước lấy từ
cuống quả là loại nước uống bổ, ngon, có thể khai thác để sản xuất đường, nước
ngọt, cồn.
Thuốc chữa bệnh: Nhiều loài cây ngập mặn là những cây thuốc dân gian
có giá trị. Trong thời kỳ chiến tranh, nhân dân và cán bộ vùng chiến khu đã dùng

7


các loài cây thuốc nam đó chữa được nhiều bệnh. Hiện nay đã điều tra được 15
loài cây ngập mặn nước ta có thể dùng làm thuốc. [3]
2.2.2.2 Vai trò của rừng ngập mặn trong nuôi trồng thủy sản
RNM là nơi nuôi dưỡng, cư ngụ và cung cấp thức ăn cho nhiều loài động
vật dưới nước và trên cạn có giá trị ở vùng ven biển. Từ bao đời nay những
người dân ven biển đã biết nuôi tôm, cá, ngao sò ở các bãi triều hoặc kênh rạch
trong vùng RNM, gần đây là nuôi tôm xuất khẩu. Nhưng mãi tới năm 1970, các
nhà khoa học mới tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa RNM và nguồn lợi hải sản.
Những loài hải sản nuôi có giá trị kinh tế cao như tôm, cua,...đều có thời gian từ
hậu ấu trùng đến khi trưởng thánh sống trong kênh rạch RNM (tôm) hoặc đào
hang dưới gốc cây (cua) sau đó mới ra biển để đẻ, ấu trùng theo dòng triểu trở
vào sinh sống trong RNM
Nếu không có RNM và các thảm thực vật khác ở vùng cửa sông ven biển
thì không thể có tôm bố mẹ (để cho sinh sản nhân tạo). Điều này hình như nhiều
người nuôi hải sản không biết nên vẫn tìm mọi cách để phá RNM. RNM cũng là
môi trường sống của nhiều loài hải sản khác như cá vược, cá măng, cá đối và
một số loài thân mềm có giá trị kinh tế cao.[3]

2.2.2.3. Tiềm năng du lịch
Du lịch sinh thái có thể cung cấp công việc trực tiếp tới các cư dân địa
phương, hoặc có thể tài trợ các hoạt động từ khu du lịch sinh thái. Các lợi ích
này có thể thu từ các nguồn như: phí vào cửa, cho thuê đất trong khu du lịch
sinh thái,...và cũng từ du khách chi tiêu ở bên ngoài khu du lịch sinh thái như
việc lưu trú, thức ăn và đồ thủ công mỹ nghệ,...
Các dịch vụ tại địa phương được cải thiện, có thêm nhiều nguồn thu nhập
mới từ bên trong và bên ngoài khu du lịch sinh thái. Từ những lợi ích đó, địa
phương có thể cải thiện nhiều dịch vụ an sinh xã hội phục vụ đời sống nhân dân
như giáo dục, y tế, mở rộng thêm nhiều vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng. Ngoài

8


ra còn hạn chế nhiều tệ nạn, xã hội do an ninh được cải thiện và trình độ dân trí
của người dân không ngừng nâng cao.
RNM Tiên Yên được đánh giá là khu HST RNM điển hình của khu vực
phía Bắc. Khu HST ĐNN ở đây bao gồm HST bãi triều, cửa sông và RNM với
thành phần loài đa dạng sẽ là điểm đến hấp dẫn đối với những ai muốn khám
phá và nghiên cứu khoa học.
Mặt khác, Đồng Rui là một xã đảo nằm trên quốc lộ 18A đi Móng Cái, và
nằm ngay cửa sông Ba Chẽ, nơi tiếp giáp với biển Đông. Trung tâm xã cách
huyện lỵ 23 km về phía Nam, phía tây giáp huyện Ba Chẽ, phía đông giáp huyện
Vân Đồn và phía bắc giáp xã Hải Lạng, thị trấn Tiên Yên. Chính điều kiện về vị
trí địa lý này đã tạo cho Đồng Rui một vị thế thuận lợi trong phát triển du lịch.
Về phía cộng đồng dân cư ở Đồng Rui, có tới 34 người trên tổng số 53
người được hỏi về phương hướng giải quyết công ăn việc làm cho lao động dư
thừa của xã nhà đều bày tỏ ý kiến muốn phát triển du lịch từ RNM.
Ngoài những thuận lợi trên, Đồng Rui còn có được thuận lợi từ mục tiêu
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Du lịch - dịch vụ là một trong các

chỉ tiêu phát triển chủ yếu của tỉnh và mục tiêu cụ thể là tăng trưởng 13% mỗi
năm trong giai đoạn 2000-2010.[3]
2.2.2.4. Nuôi ong
Nghề nuôi ong đã được phát triển từ khá lâu. Sản phẩm thu được từ nuôi
ong như mật ong, sữa ong..vv là những thực phẩm có giá trị cao. Để phát triển
đàn ong cần phải có những khu rừng, cách đồng hoa cung cấp đủ thức ăn cho
ong. Ý tưởng phát triển nghề nuôi ong trong rừng ngập mặn sẽ tận dụng nguồn
thức ăn là các loài hoa của cây ngập mặn. Đây sẽ là hướng đi mang lại hiệu quả
trong phát triển kinh tế bền vững. Góp phần bảo vệ và phục hồi diện tích rừng
ngập mặn. Việc phát triển nghề nuôi ong trong rừng ngập mặn sẽ cho được hiệu
quả cao vừa tận dụng được nguồn tài nguyên sẵn có, vừa thân thiện với môi
trường.[3]

9


2.2.3. Vai trò của rừng ngập mặn trong phòng chống thiên tai
2.2.3.1. Vai trò của RNM trong việc bảo vệ đất bồi, chống xói lở, hạn chế xâm
nhập mặn
Rễ cây ngập mặn chằng chịt, đặc biệt là những quần thể thực vật tiên
phong mọc dày đặc có tác dụng làm giảm vận tốc dòng chảy tạo điều kiện cho
trầm tích bồi tụ nhanh hơn ở các vùng cửa sông ven biển. Chúng vừa ngăn chặn
có hiệu quả hoạt động công phá bờ biển của sóng, đồng thời là vật cản làm cho
trầm tích lắng đọng. Ví dụ như, hàng năm vùng cửa sông Hồng tại Ba Lạt tiến ra
biển 60÷70m, một số xã ở tỉnh Tiền giang, Bến tre đất bồi ra biển 25÷30m, Trà
vinh, Sóc trăng 15÷30m, Bạc liêu, Cà mau 30÷40m (Phân viện Điều tra Quy
hoạch rừng Nam Bộ, 2006).
Ở vùng cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, phù sa
thường ngưng đọng trên lòng sông và ngoài cửa sông tạo nên những hòn đảo
nổi. Nếu điều kiện thuận lợi thì chỉ sau một thời gian, các loài cây ngập mặn tiên

phong sẽ đến cư trú tạo môi trường cho những loài cây đến sau và đất bồi được
nâng dần lên, như Cồn Ngạn, Cồn Lu ở Giao Thủy, Nam Định, Cồn Vành ở
Thái Bình, Cồn Ngoài và Cồn Trong ở Tây Nam mũi Cà Mau.
Những nơi trồng và bảo vệ tốt RNM thì bờ biển và đê không bị xói lở,
thiệt hai do thiên tai ở mức rất thấp. Ví dụ như: đoạn bờ Bằng La, Đại Hợp (Hải
Phòng) trước đây không có RNM thì bị xói lở rất mạnh. Từ khi có các dải RNM
phòng hộ do Hội chữ thập đỏ Nhật Bản hỗ trợ (1997 – 2005) thì không những không
bị xói lở mà trong các cơn bão lớn năm 2005 đã bảo vệ toàn vẹn đê quốc gia.
Ngoài ra, RNM còn có tác dụng hạn chế xâm nhập mặn. Nhờ có RNM mà
quá trình xâm nhập mặn diễn ra chậm và trên phạm vi hẹp, vì khi triều cao, nước
đã đã lan toả vào trong những khu RNM rộng lớn; hệ thống rễ dày đặc cùng với
thân cây đã làm giảm tốc độ dòng triều, tán cây hạn chế tốc độ gió.[11]

10


2.2.3.2. Tích tụ cacbon và giảm tác hại của thiên tai.
Theo Blasco (1975) nghiên cứu khí hậu và vi khí hậu rừng, đã có nhận
xét: các quần xã RNM là một tác nhân làm cho khí hậu dịu mát hơn, giảm nhiệt
độ tối đa và biên độ nhiệt.
Hệ sinh thái RNM giúp cân bằng O 2 và CO2 trong khí quyển, điều hòa khí
hậu địa phương (nhiệt độ, lượng mưa) và giảm thiểu khí nhà kính. Nhờ có các
tán lá cây hút CO2 mạnh nên hàm lượng CO2 nơi có rừng giảm mạnh, qua đó
làm cho pH của nước phù hợp với điều kiện sống của thủy sinh vật.
RNM có chức năng chống lại sự tàn phá của sóng thần nhờ hai phương
thức khác nhau. Thứ nhất, khi năng lượng sóng thần ở mức trung bình, những
cây ngập mặn vẫn có thể đứng vững, bảo vệ hệ sinh thái của chính mình và bảo
vệ cộng đồng dân cư sinh sống đằng sau chúng. Có được như vậy là vì các cây
ngập mặn mọc đan xen lẫn nhau, rễ cây phát triển cả trên và dưới mặt đất cộng
với thân và tán lá cây cùng kết hợp để phân tán sức mạnh của sóng thần. Thứ hai,

khi năng lượng sóng thần đủ lớn để có thể cuốn trôi những cánh RNM thì chúng
vẫn có thể hấp thụ nguồn năng lượng khổng lồ của sóng thần bằng cách hy sinh
chính mình để bảo vệ cuộc sống con người. Rễ cây ngập mặn có khả năng phát
triển mạnh mẽ cả về mức độ rậm rạp và sự dàn trải. Khi cây ngập mặn bị đổ xuống
thì rễ cây dưới mặt đất tạo ra một hệ thống dày đặc ngăn cản dòng nước.
Tổ chức “Friend of the Earth” cho rằng, bảo vệ những cánh RNM là cách
giải quyết duy nhất để bảo vệ dân cư vùng ven biển chống lại sóng và các đe doạ
khác trong tương lai (Scheer 2005). Theo khảo sát của IUCN (2005) tại những
vùng bị tác động của sóng thần cho thấy: những vùng ven biển có RNM rậm, có các
vành đai cây phòng hộ như phi lao, dừa, cọ thì thiệt hại về người và tài sản ít hơn rất
nhiều so với những nơi mà các hệ sinh thái ven biển bị suy thoái, hoặc chuyển đổi đất
sang mục đích sử dụng khác như nuôi tôm hay xây dựng khu du lịch.
Ngoài ra, cũng như các rừng nội địa, RNM còn có tác dụng to lớn trong
việc điều hoà khí hậu. Về mùa hè, các cây thoát hơi nước nhiều, làm tăng độ ẩm

11


không khí. Do đó cũng làm tăng lượng mưa ở địa phương. RNM thu nhận một
khối lượng khí cácboníc thải ra trong sinh hoạt, trong công nghiệp và thải ra một
lượng lớn ôxy trong quá trình quang hợp làm cho không khí trong lành, vì vậy
nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ví RNM ở Cần Giờ như “lá phổi” của
thành phố.[11]
2.2.3.3. Vai trò của RNM trong điều hòa khí hậu
RNM góp phần điều hòa khí hậu trong vùng, các quần xã cây ngập mặn là
một tác nhân làm cho khí hậu dịu mát hơn. Cũng giống như các loài thực vật
khác, cây ngập mặn và tảo, rêu trong nước góp phần hấp thu CO 2 và thải O2 qua
quá trình quang hợp. Chẳng hạn như RNM Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh được xem
như lá phổi xanh của thành phố.
Các chất độc hại và ô nhiễm từ các khu công nghiệp, đô thị thải vào sông

suối, hòa tan trong nước hoặc lắng xuống đáy được nước sông mang ra các vùng
cửa sông ven biển. RNM hấp thụ các chất này và tạo ra các hợp chất ít độc hại
hơn đối với con người.
Ở một số nơi sau khi thảm thực vật ngập mặn bị tàn phá thì cường độ bốc
hơi nước tăng, làm cho độ mặn của nước và đất tăng theo.
Ngoài ra, RNM là nơi thu hút nhiều loài chim nước và chim di cư, tạo
thành các sân chim lớn với hàng vạn con và dơi quạ. RNM Việt Nam có nhiều
loài chim quí hiếm của thế giới như các loài cò mỏ thìa, già dẫy, hạc cổ trắng...
(Võ Quý, 1984).
Trong RNM còn có những loài cây quí hiếm như cây cóc hồng. Đặc biệt,
các chủng vi sinh vật RNM còn mang các thông tin di truyền tồn tại cho đến
ngày nay qua đấu tranh sinh tồn hàng triệu năm. Đó là nguồn gen quí cho việc
cải thiện các giống vật nuôi và cây trồng, thuốc chữa bệnh trong tương lai.[11]

12


2.3. Hiện trạng RNM và công tác quản lý RNM ở Việt Nam và tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Hiện trạng RNM và công tác quản lý RNM ở Việt Nam
a) Diện tích
Theo kết quả kiểm kê rừng toàn quốc, diện tích RNM Việt Nam tính đến
ngày 21/12/1999 là 155.290 ha. Trong đó diện tích RNM tự nhiên là 59.732ha
chiếm 38,1% và diện tích RNM trồng là 96.876 ha chiếm 61,95%.(Viện Điều tra
Quy hoạch Rừng, 2009).[11]
b) Phân bố
Dựa vào các yếu tố địa lý, khảo sát thực địa và một phần kết quả ảnh viễn
thám, Phan Nguyên Hồng (1991) đã chia RNM Việt Nam ra làm 4 khu vực khác
nhau. Cụ thể như sau:
−Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn;
−Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến mũi Lạch Trường;

−Khu vực III: Ven biển Trung bộ, từ mũi Lạch Trường đến Vũng Tàu;
−Khu vực IV: Ven biển Nam bộ, từ Vũng Tàu đến mũi Nải, Hà Tiên.[3]
c) Các chính sách bảo vệ rừng của Việt Nam.
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng là một chương trình kinh tế - xã hội –
sinh thái trọng điểm của Nhà nước Việt Nam, theo đó sẽ trồng mới 5 triệu ha
rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có trong thời kỳ từ năm 1998 – 2010 nhằm
nâng cao độ che phủ của rừng Việt Nam lên mức 43% vào năm 2010. Dự án
được Quốc hội Việt Nam phê duyệt bằng nghị quyết số 08/1997/QH10 và được
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam chỉ đạo thực hiện bằng nghị quyết số 661/QĐ –
TT ngày 29/07/1998. Dự án trồng 5 triệu ha rừng tuy có nhiều tồn tại, khuyết
điểm nhưng được đánh giá là các thành tích đáng ghi nhận. Theo báo cáo tổng
kết giai đoạn 1 (1998 – 2005) sau 8 năm thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng, cả nước đã trồng được 1.424.135 ha rừng, tuy chỉ đạt 28,5% so với mục
tiêu để ra nhưng dự án đã góp phần nâng độ che phủ của rừng ở Việt Nam lên
36,7% (tăng 3,5% so với năm 1999). Việt Nam cũng được đánh giá là rất cố

13


gắng trong công tác trồng rừng và là một trong 10 nước có diện tích rừng trồng
lớn nhất thế giới.
Việt Nam có 4 vùng được công nhận là khu Ramsar của Việt Nam:
- Xuân Thủy được công nhận là khu Ramsar đầu tiên của Việt Nam vào
ngày 20/09/1988.
- Bàu Sấu nằm trong Vườn Quốc gia Cát Tiên được công nhận là khu
Ramsar thứ 2 của Việt Nam vào ngày 04/08/2005.
- Ba Bể được công nhận là khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam vào ngày
02/02/2011.
- Vườn quốc gia Tràm Chim dự kiến sẽ được công nhận là khu Ramsar
thứ 4 của Việt Nam vào ngày 21 – 22.5.2012.[3]

c) Các tồn tại và thách thức trong công tác quản lý và bảo vệ RNM ở
Việt Nam
Để triển khai việc phục hồi RNM cho bảo vệ môi trường và phòng chống
thiên tai có hiệu quả trên thực tế đòi hỏi chúng ta phải vượt qua một số thách
thức và giải quyết những tồn tại chính sau đây:
Ở hầu hết các địa phương ven biển từ Quảng Ninh tới Thừa Thiên Huế,
nguy cơ thiên tai cao, mặc dù người dân đã có nhận thức vai trò lớn của RNM
trong phòng chống thiên tai nhưng chưa tạo được được quỹ đất cụ thể cho từng
vùng để phục hồi RNM đã bị suy thoái cũng như để trồng mới RNM. Các tỉnh
ven biển Nam Trung bộ, đồng bằng sông Cửu Long cũng không còn quĩ đất để
phục hồi mặc dù biết rằng mất RNM kéo theo suy giảm nguồn lợi thủy hải sản
và thiệt hại sẽ vô cùng to lớn khi thiên tai xảy ra. Hơn nữa, việc bảo vệ và phát
triển RNM vẫn gặp nhiều khó khăn do nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người
dân vẫn chưa được đáp ứng.
Trong thời gian qua chúng ta đã nỗ lực trồng RNM mới nhưng phần lớn
chỉ trồng có một loài cây (cây Trang ở miền Bắc, cây Đước đôi ở miền Nam)
nên hiệu quả kinh tế và môi trường phòng chống thiên tai không cao. Đó là chưa

14


nói đến sự cố khi có dịch bệnh, sâu hại và thiên tai rất dễ bị tàn phá vì rừng chủ
yếu chỉ có một loài cây. Chúng ta đang thiếu các giải pháp kỹ thuật thích hợp và
áp dụng cho từng vùng trong việc phục hồi RNM, cải thiện chất lượng rừng hiện
có và trồng mới RNM đáp ứng nhu cầu phòng chống thiên tai và bảo vệ môi
trường ở từng địa phương cụ thể.
Có thể nói rằng chúng ta đang lãng phí rất lớn khi chưa phối hợp, lồng
ghép những hoạt động cụ thể của những đề án mới với các chương trình hiện có
của quốc gia, quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm phục hồi, bảo vệ và sử
dụng bền vững RNM. Mặt khác, chúng ta đang thiếu sự phối hợp liên ngành,

chưa tạo ra được cơ chế tài chính bền vững nhằm huy động các nguồn thu cho
công tác phục hồi, quản lý các khu bảo vệ, đề xuất thành lập các khu bảo tồn
RNM có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế.
Một số mô hình phục hồi và bảo tồn hiệu quả RNM có sự tham gia của
cộng đồng như ở Ninh Hòa (Nha Trang), Rú Trá (Huế), Thạch Hà (Hà Tĩnh),
Sóc Trăng… chưa được nhân rộng, chưa có cơ chế huy động cộng đồng tham
gia, công tác xã hội hóa việc phục hồi RNM cho phòng chống thiên tai chưa
được coi trọng nhất là trên các phương tiện truyền thông đại chúng.
Thực tế RNM vẫn tiếp tục bị suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Đổ chất phế thải trong khai thác than đã vùi lấp các dải RNM
Ở Quảng Ninh có nhiều mỏ than lộ thiên sát ven biển hoặc sông nước
mặn như: Hà Tu, Cẩm Phả, Mông Dương.... Khi khai thác than các xí nghiệp đổ
vật phế thải xuống sông, biển lấp các bãi lầy có cây ngập mặn sinh sống. Việc
xây dựng một số cảng than như cảng Uông Bí, Cửa Ông đã phá hủy nhiều đám
RNM và hủy hoại các thảm cỏ biển và rạn san hô rất giàu động vật và hải sản ở
vùng ven bờ và biển nông.
Việc khai thác than với tốc độ cao như hiện nay đang là mối đe dọa lớn đối
với HST RNM ở một số địa phương trên vì lượng chất thải rất lớn vẫn tiếp tục đổ ra

15


sông, biển hoặc do mưa làm xói mòn đất, than từ mỏ xuống các sông vùi lấp các
những RNM ven sông và phá huỷ môi trường sống của các động vật hoang dã ở đó.
Phá RNM để phát triển đô thị, cảng biển
Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá đất nước, nhiều vùng RNM ở ven
biển, cửa sông đã và đang bị lấp đất để xây dựng đô thị, khu công nghiệp, cảng
biển như Nghi Sơn (Thanh Hoá), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Tuần Lễ (Khánh Hoà),
thị xã Hà Tiên... Hiện nay diện tích RNM đã bị thu hẹp mạnh, nếu không có
biện pháp bảo vệ những dải RNM còn lại ở một số địa phương thì không những

làm mất đi nguồn tài nguyên quí giá mà còn mất cảnh quan đặc thù của vùng
nhiệt đới. Hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển khó tránh khỏi, kinh phí để chống
xói lở có thể gấp hàng trăm lần tiền trồng và bảo vệ RNM.
Buông lỏng quản lý, chạy theo nguồn lợi trước mắt
Các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương chưa đánh giá đúng vai
trò to lớn của HST RNM; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên vùng
ven biển có RNM; không kiên quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa
phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là cho đấu thầu đất bãi lầy có RNM ở
ven biển, cửa sông để nuôi tôm xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do
thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng.
Nước biển dâng
Hiện tượng này được tạo ra bởi tổ hợp của nhiều yếu tố, đặc biệt do sự
tăng khí thải công nghiệp, nông nghiệp như CO 2, CH4 và mất RNM. Những dự
báo cho biết trong thế kỷ này, Trái đất sẽ ấm lên, mức nước biển sẽ dâng cao
hơn mức hiện nay có thể từ 60-100cm. Trong điều kiện đó nhiều vùng đất thấp
ven biển, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị chìm ngập trong nước
biển, các rừng cây ngập mặn, các đầm tôm cũng không còn nữa.[11]

16


2.3.2. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Quảng Ninh
a) Sự suy giảm RNM
Tổng số RNM đã bị hao hụt từ năm 1988 đến năm 2003 là 2509 ha chiếm
gần 11 % số diện tích RNM toàn tỉnh (Bảng 2.1).
b) Nhiệm vụ quy hoạch RNM tỉnh Quảng Ninh năm 2006 -2015
Nhiệm vụ quy hoạch RNM tỉnh Quảng Ninh năm 2006 -2015 bao gồm:
−Bảo vệ rừng hiện có:

17.682,55 ha


−Khoanh nuôi có trồng bổ xung:

3.720,45 ha

−Trồng rừng mới:

3.000,00 ha

−Sản xuất lâm ngư kết hợp:

2.000,00 ha

Mục tiêu tiến độ bảo vệ RNM ở Quảng Ninh thể hiện trong Bảng 2.2.
Bảng 2.1: Diện tích RNM chuyển đổi mục đích sử dụng khác trong giai
đoạn 1988 – 2003
Tổng diện

Nuôi

Tên huyện

tích chuyển

thuỷ sản

1
2

Móng Cái

Đầm Hà

đổi (ha)
1040
30

(ha)
1040
30

3

Hải Hà

159

159

4

Tiên Yên

402

402

5

Hạ Long


295

161

6

Hoành Bồ

212

212

7

Yên Hưng

236

236

8

Cẩm Phả

133

133

9


Vân Đồn
Tổng

2
2509

2
2375

TT

Mục đích
khác (ha)

Địa điểm chuyển đổi
Hải Hoà
Tân Bình
Quảng Thắng, Quảng Phong, Quảng

134

Quảng Minh, Đường Hoa
Đồng Rui
Bãi Cháy, Cao Xanh, Hà Khẩu, Đại
Yên, Giếng Đáy, Thống Nhất
Lê Lợi
Hoàng Tân, Hà An,
Minh Thành
Cẩm Hải, Cửa Ông,
Mông Dương


134

(Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNT Quảng Ninh, 2004)
Bảng 2.2: Tiến độ bảo vệ RNM Quảng Ninh 2006-2015 (ha)

17


Giai đoạn

Giai đoạn

193.800,05

2006-2010
88.412,75

2011-2015
105.387,15

Bảo vệ rừng hiện có

167.697,8

88.412,75

79.285,05

Bảo vệ rừng khoanh nuôi có trồng bổ xung


18.602,25

18.602,25

5.000

5.000

Hạng mục

Tổng

Tổng

Bảo vệ rừng trồng mới

Bảo vệ rừng trồng lâm ngư kết hợp
2.500
2.500
(Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNT Quảng Ninh, 2004)

18


III. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
III.1.1.

Đối tượng nghiên cứu


- Rừng ngập mặn tại xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên – Tỉnh Quảng Ninh.
III.1.2.

Phạm vi nghiên cứu

- Theo không gian: Tập trung nghiên cứu về RNM và công tác quản lý
RNM ở xã Đồng Rui.
- Theo thời gian: Số liệu sử dụng trong luận văn từ năm 1996 đến nay
3.2. Nội dung nghiên cứu
3.2.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên
– tỉnh Quảng Ninh có liên quan đến phát triển RNM
3.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý,
- Địa hình,
- Khí hậu,
- Thủy văn,
- Hải văn,
- Tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng.
3.2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Đặc điểm xã hội: dân số, lao động, dân tộc
- Cơ sở hạ tầng và hệ thống giao thông.
3.2.2. Thực trạng công tác quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn xã Đồng Rui
- Hiện trạng RNM xã Đồng Rui: diện tích, phân bố, số lượng, mức độ suy
thoái, đa dạng loài, đa dạng sinh học,…
- Đánh giá công tác quản lý hệ sinh thái rừng ngập mặn
+ Các chính sách bảo vệ rừng ngập mặn ở Đồng Rui
+ Công tác trồng RNM

19



+ Vai trò các tổ chức xã hội trong quản lý và bảo vệ RNM
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý RNM xã Đồng Rui:
+ Thành công và hạn chế trong công tác quản lý RNM xã Đồng Rui
+ Nguyên nhân dẫn đến những mặt hạn chế trong công tác quản lý và bảo
vệ rừng
3.2.3. Giải pháp nhằm quản lý và bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn xã Đồng
Rui
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội xã Đồng Rui; diện tích, phân bố rừng
ngập mặn trong xã Đồng Rui; các quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng ngập mặn
xã Đồng Rui;…được thu thập tử UBND xã Đồng Rui; thu thập từ mạng Internet,
tài liệu tiếng anh,…
Phương pháp kế thừa
Các tư liệu, thông tin hiện có trong nước và quốc tế liên quan đến quản lý
và xây dựng mô hình sinh kế bền vững, phục hồi rừng ngập mặn được kế thừa từ
các đề tài nghiên cứu trước đó.
Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
Các thông tin liên quan được thu thập trong quá trình xây dựng và thực
hiện nhiệm vụ sẽ được tổng hợp, phân tích phục vụ cho việc triển khai và hoàn
thành nhiệm vụ.
Phương pháp phân tích, tổng hợp hệ thống
Các ý kiến góp ý của địa phương, các chuyên gia tham gia dự án được thu
thập, phân tích, đánh giá, tổng hợp. Đồng thời, các số liệu sau khi được thông
kê, xử lý sơ bộ sẽ được phân tích và tổng hợp phục vụ cho quá trình thực hiện
nhiệm vụ.

20



Phương pháp điều tra khảo sát
Được tiến hành tại xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên nhằm đánh giá tình hình
phát triển kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên trên địa bàn nghiên cứu cũng như
đánh giá sơ bộ về hiện trạng RNM và công tác quản lý RNM tại Đồng Rui.
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này được thực hiện thông qua các hình thức trao đổi, tham vấn ý
kiến góp ý của các các cơ quan, các nhà khoa học, quản lý hoạt động trong lĩnh vực sử
dụng, khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên, rừng ngập mặn.

21


IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên –
tỉnh Quảng Ninh
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Đồng Rui là xã đảo thuộc huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Trung tâm
xã cách huyện lỵ 23 km về phía Nam, phía tây giáp huyện Ba Chẽ, phía đông
giáp huyện Vân Đồn và phía bắc giáp xã Hải Lạng, thị trấn Tiên Yên. Tổng diện
tích đất tự nhiên của xã là 4.955,17 ha. Xã nằm trong toạ độ địa lý từ 21 011’
đến 21033’ vĩ độ Bắc và từ 107013’ đến 107032’ kinh độ Đông.

Hình 4.1: Sơ đồ xã Đồng Rui – huyện Tiên Yên – Tỉnh Quảng Ninh
4.1.1.2. Địa hình
Đồng Rui là một xã đảo nằm kẹp giữa hai con sông là Sông Voi lớn và
sông Ba Chẽ, địa hình tương đối bằng phẳng. Vị trí của Đồng Rui là vùng bồi tụ
ven biển bị ngăn cách bởi đồi núi chạy sát biển, có địa hình thấp thoải dần ra


22


×