Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.75 KB, 60 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

YZ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 31(2005 – 2009)

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Đề tài:

TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY

Giáo viên hướng dẫn
TS. Phạm Văn Beo
Bộ môn Tư Pháp

Sinh viên thực hiện
Phan Thị Bích Lộc
MSSV: 5054818
Lớp: Luật Tư Pháp 1- K31

Cần Thơ, 11/2008

GVHD: TS.Phạm Văn Beo


Trang 1

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta trong những năm qua cũng như hiện nay, tình trạng nghiện ma túy và
các tội phạm về ma tuý diễn ra rất phức tạp đã và đang trở thành hiểm họa lớn cho loài
người và toàn xã hội. Không một quốc gia nào, địa phương nào thNm chí không một
gia đình nào không bị đe dọa bởi hiểm hoạ ma tuý. Tệ nạn nghiện ma túy trong nước
mặc dù đã được tích cực kiềm chế nhưng vẫn tiếp tục tăng, trung bình mỗi năm tăng
khoảng 10.000 người. Tính đến cuối năm 2007, toàn quốc có khoảng trên 178.000
người nghiện có hồ sơ kiểm soát và chỉ trong 6 tháng tính đến hết ngày 30 tháng 6 năm
2008, cả nước có khoảng 169.000 người nghiện có hồ sơ quản lý và cả nước đã bắt giữ
5.031 vụ với 7.494 đối tượng ma tuý bị bắt giữ. Tệ nạn nghiện ma túy đã lan rộng ra tất
cả các tỉnh, thành phố, các khu vực dân cư, đến mọi thành phần, lứa tuổi, đặc biệt là
trong thanh, thiếu niên. Đáng chú ý là số người nghiện ma túy có xu hướng đang dần
dần trẻ hóa; tỷ lệ nghiện ma túy tổng hợp và lây nhiễm HIV ngày càng tăng; tệ nạn
nghiện ma túy liên quan đến vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự chiếm tỷ lệ rất cao.
riêng trong tổng số đối tượng hiện có tại các trại giam, cơ sở giáo dục và trường
TrungTính
tâm
Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
giáo dưỡng có gần 24% nghiện ma túy. Số người nghiện ma túy tăng cũng làm số đối
tượng tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tăng nhanh về số người và cả số vụ tổ

chức sử dụng trái phép chất ma túy. Các đối tượng tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy chủ yếu tập trung ở các Thành phố lớn như: Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh.
Tình hình đó đã tác động rất xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, thực sự là hiểm
họa đối với đất nước, dân tộc và giống nòi, và đến sự phát triển bền vững của đất nước
nếu chúng ta không kịp thời triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn.
Ngoài ra, các tội phạm do người nghiện ma túy thực hiện như trộm cắp, cướp
giật, hiếp dâm, giết người, và các tội phạm nguy hiểm khác cũng gia tăng trong những
năm qua.
Do tình hình tăng nhanh của tội phạm ma túy, tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy và tệ nạn ma túy, Đảng và nhà nước trong những năm qua đã có nhiều biện
pháp phòng chống. Cùng với việc bổ sung một chương mới vào Bộ luật hình sự năm
1985 quy định về các tội phạm liên quan đến ma túy và nội dung này đã được sửa đổi
bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999, và đến kỳ hợp thứ VII của Quốc hội khóa X
dự luật về phòng chống ma túy được đưa ra thảo luận và đến kỳ hợp thứ VIII thì dự
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 2

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

luật phòng chống túy ma túy được thông qua ngày 9 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực
ngày 01 tháng 6 năm 2001 đã hình thành nên một hệ thống các quy định tội phạm về
ma tuý. Tuy nhiên trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý gặp nhiều khó khăn do bọn tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi xảo

quyệt, nhiều vụ tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý có tổ chức chặt chẽ, phương tiện
hoạt động hiện đại, tổ chức ở nhiều địa điểm khác nhau. Nếu nắm được các đặc điểm
của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ có tác dụng vận động nhân dân
tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
trong tình hình hiện nay mà còn góp phần chặn đứng và đNy lùi tệ nạn này và giúp cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng xác định đúng và áp dụng đúng các
quy định của pháp luật về loại tội phạm này. Tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy là hiểm họa chung của nhân loại, trong đó có Việt Nam. Nó gây tác hại cho sức
khỏe con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự
an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Qua những vấn đề nêu trên nên em quyết định chọn
đề tài “tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn này nghiên cứu những yếu tố cơ bản của tội tổ chức sử dụng trái phép
ma Học
túy qua
đó thấy
đó học
rút ra tập
những
phápcứu
đúng
Trungchất
tâm
liệu
ĐHđược
Cầnnhững
Thơkhó
@khăn,
Tài và
liệu

vàphương
nghiên
đắn, thiết yếu trong đấu tranh phòng chống tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy. Đồng thời cho ta thấy được tình hình gia tăng của loại tội phạm này và có biện
pháp đúng đắn để ngăn chặn và đi đến đNy lùi tội phạm. Và qua đó thấy được việc đấu
tranh phòng chống tội phạm không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm
của toàn xã hội. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa toàn Đảng, toàn dân nhằm tạo sức
mạnh tổng hợp để đNy lùi tội phạm này góp phần làm ổn định trật tự xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài này nghiên cứu tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định
tại Điều 197 thuộc chương XVIII phần các tội phạm về ma túy của Bộ luật hình sự
Việt nam năm 1999. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài do giới hạn của các yếu tố
khách quan nên phần nghiên cứu này người viết tập trung một số vấn đề sau: những
vấn đề cơ bản về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, cấu thành tội phạm, những
khó khăn trong quá trình đấu tranh phòng chống tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy, nguyên nhân, giải pháp trong qúa trình đấu tranh phòng chống tội phạm tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy.

GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 3

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

Nhằm hoàn thiện bài viết của mình một cách tốt nhất, người viết vận dụng một
vài phương pháp nghiên cứu để làm công cụ phục vụ cho việc nghiên cứu của mình
như:
- Phương pháp phân tích luật viết dùng để tìm hiểu các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam.
- Phương pháp chứng minh, so sánh, đối chiếu, vận dụng các quy định của pháp
luật về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời kế thừa các phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng.
- Phương pháp tổng hợp thống kê và sử dụng các trang web để tìm kiếm tài liệu
đồng thời vận dụng các tài liệu của các Nhà luật học bài báo và ý kiến chủ quan của
người viết. Do trình độ còn hạn chế nên đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót rất mong
được sự đóng góp ý kiến quý báo của quý Thầy, Cô và các bạn để đề tài hoàn thiện
hơn.
5. Cơ cấu của đề tài
Chương 1: Những vấn đề chung về tội phạm ma túy và tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy
2 : Quy
của Thơ
pháp luật
tội nghiên
tổ chức sửcứu
dụng
Trung tâmChương
Học liệu
ĐHđịnh
Cần
@ Việt
Tài Nam
liệuhiện
họchành

tậpvềvà
trái phép chất ma túy.
Chương 3: Thực trạng của tội tổ chức sử dụng trái hép chất ma túy, nguyên
nhân và giải pháp.

GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 4

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM MA TÚY VÀ TỘI TỔ
CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1. Những vấn đề chung về tội phạm ma túy
1.1. Khái niệm ma túy
Ma túy là từ chỉ các chất gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi
đưa vào cơ thể người dưới bất kỳ hình thức nào (uống, hút, hít, tiêm, chích,...) sẽ gây
ức chế hoặc kích thích mạnh hệ thần kinh làm giảm đau, gây ảo giác, dẫn tới thay đổi
một hoặc nhiều chức năng cơ thể về tâm sinh lý, làm cho người sử dụng nó có sự ham
muốn không kiềm chế được, phải gia tăng liều lượng để thỏa mãn các cơn thèm khát
ngày càng gia tăng, từ đó làm cho sức khỏe bản thân ngày một suy kiệt, nhân cách suy
thoái.
Vì ma túy là loại độc dược gây nghiện nguy hiểm nên Nhà nước độc quyền quản
lí, Nhà nước nghiêm cấm việc trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa

chất ma túy; nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển bảo
quản, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, sử dụng trái phép chất ma túy, chứa chấp
việc sử dụng trái phép chất ma túy cũng như các tiền chất ma túy dùng vào việc sản
Trungxuất
tâm
liệu
cácHọc
chất ma
túy.ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
1.2. Các loại ma túy hiện nay
Hiện nay, trên thế giới có hàng trăm loại ma túy khác nhau, được chia làm 5 loại
chính là:
- Các chất ma túy chính danh: (Les narcotiques proprement dita) gồm có thuốc
phiện, những dẫn xuất của thuốc phiện (morphine, héroine, codéine) và các chất tổng
hợp á phiện tổng hợp như mépéridine, méthadone;
- Các chất gây suy nhược: (Les dépressanta) có tính chất an thần nhưng gây ngủ.
Chủ yếu là các chất thuộc nhóm Barbituriques;
- Các chất kích thích: (Les Stémalanta), ví dụ như amphétamine, cocaine,
cafeine, thébaine;
- Các chất gây ảo giác (Les hallucinogènes) thí dụ như: cần sa (marijuana), LSD
(acide lysergique diéthylamide), mescaline, paylocybine.
- Các chất an thần: (Les tranquillesanta) có tính chất an thần nhưng không gây
buồn ngủ, chia ra làm hai loại tùy theo có hay không có tác dụng đối với những rối
loạn tâm thần (paychores): loại có tác dụng gọi là loại "mạnh" (majeure) thí dụ như
chất Phénothiasine ( còn gọi là chlorpromasine hay lagaretil) chất Réserpine ( cũng
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 5

SVTH: Phan Thị Bích Lộc



Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

dùng để chữa bệnh cao huyết áp). Loại không có tác dụng gọi là loại yếu (mineur): Ví
dụ như méprobanate, librium, valium.
Một số dạng chủ yếu của các chất ma túy: Dạng các loại cây tự nhiên như: nhựa
thuốc phiện, thân cây thuốc phiện, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca, cây gai dầu, cây
xương rồng, một số loại nấm; Dạng bột như hêrôin, côcain; Dạng chất lỏng các ống để
tiêm như: dolargan, diazepam, morphin, etorphien; Dạng viên nén, viên con nhộng
như: seduxen, amphetamin, methamphetamin, và các loại ma túy tổng hợp khác.
1.3. Tác hại của ma túy
Nghiên cứu về ảnh hưởng của ma túy đối với sức khỏe của con người, nhiều nhà
nghiên cứu đã khẳng định ma túy là nguyên nhân hủy hoại sức khỏe con người, dẫn
đến các bệnh tật. Khi đã nghiện ma túy, người nghiện ma túy sẽ quằn quại, đau đớn,
vật vã, loạn nhịp tim, huyết áp gia tăng đột ngột,... Ma túy cũng gây ra rối loạn cảm
giác ở người nghiện, làm cho người nghiện sợ nước, sợ gió, ngại tắm,.. gây nên mắc
bệnh ngoài da. Ma túy làm rối loạn các chức năng tâm lý người. Người nghiện ma túy
thường xuyên có cảm giác chán nản, sống trong trạng thái trầm uất, thất vọng, lo âu,
mất niềm tin vào cuộc sống,... và khi lên cơn nghiện thì không làm chủ được mình, gây
ra các hành động bạo lực.
đình,Thơ
giữa @
người
nghiện
người
nghiện luôn
nảy

Trung tâmTrong
Họccuộc
liệusống
ĐHgia
Cần
Tài
liệuvàhọc
tậpkhông
và nghiên
cứu
sinh mâu thuẫn khó có thể điều hòa được, tâm lý nghi kỵ, mất niềm tin,... của các thanh
viên trong gia đình, họ hàng với người nghiện luôn luôn thường trực. Ma túy là nguyên
nhân gây ra sự tha hóa con người, suy đồi về đạo đức, nhân cách ảnh hưởng đến nòi
giống thế hệ sau và của dân tộc. Khi đã nghiện ma túy, người nghiện suy nhược cả về
thể chất và tinh thần, do đó không có đủ khả năng lao động, học tập để trở thành người
có ích cho cuộc sống.
Đối với xã hội, tệ nạn ma túy là một trong những yếu tố tác động dẫn đến sự bất
ổn về trật tự an toàn xã hội (hơn 90% người nghiện ma túy trong các trung tâm cai
nghiện đều có hành vi phạm pháp ngoài xã hội). Do lợi nhuận khổng lồ của ma túy
đem lại nên đã dẫn đến nhiều cuộc tranh giành, thanh toán lẫn nhau của những kẻ buôn
bán ma túy. Khi bị phát hiện, truy nã bọn buôn bán ma túy dùng mọi âm mưu, thủ đoạn
và chống đối quyết liệt, liều chết để trốn chạy,... gây rất nhiều khó khăn cho công tác
phòng, chống ma túy. Tệ nạn ma túy làm gia tăng tội phạm, làm tan vỡ cuộc sống gia
đình của nhiều người và gây tổn thất về kinh tế - xã hội.
Để làm tốt công tác phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả chống tệ
nạn ma túy thì vấn đề quan trọng là phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo hành
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 6


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

lang pháp lý để cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có hiệu quả, phát hiện xử lí nghiêm
khắc tội phạm, đồng thời khuyến khích mọi công dân tham gia phòng chống ma túy.
2. Đặc điểm của các tội phạm về ma túy
Tình hình tội phạm ma túy đã và đang diễn ra khá phức tạp, nghiêm trọng có
chiều hướng tăng nhanh và gây nhiều hậu quả xấu, làm nhất nhói đời sống xã hội. Tội
phạm ma túy phát triển mạnh thông qua số liệu thống kê tội phạm, thì trong nhưng năm
1990 tội phạm ma túy phát triển mạnh với tốc độ nhanh nhất ở nước ta. Năm 1990 phát
hiện 41 vụ và 57 người phạm tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển, tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy và đến năm 1999 thì số người phạm tội này tăng lên rất nhanh cụ thể
là năm 1999 phát hiện 7.503 vụ và 15.056 người mua bán, tàng trữ, vận chuyển, tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy. Qua số liệu thống kê trên ta thấy tình hình tội
phạm ma túy cũng như tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở nước ta hàng năm
điều tăng và tăng rất nhanh về số vụ và số người phạm tội.
Trọng điểm của các tội phạm vê ma túy là các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Thành
Phố Hồ Chí Minh, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Yên Bái, Hà Giang, Quảng Ninh, Hải
Phòng, Bà Rịa Vũng Tàu, Nam Định, nhưng tập trung nhiều nhất là Hà Nội, Thành
Phố Hồ Chí Minh.
diễnliệu
biến phức
củaThơ
tình trạng
nghiện
ma học

túy vàtập
các tội
về macứu
túy ở
Trung tâmDo
Học
ĐH tạp
Cần
@ Tài
liệu
vàphạm
nghiên
nước ta hiện nay. Nên các tội phạm về ma túy đã được quy định trong Bộ luật hình sự
và ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh và phòng chống
tội phạm. Tại kỳ hợp thứ 9 Quốc hội khoá VII đã thông qua Bộ luật hình sự năm 1985.
Đây là Bộ luật đầu tiên quy định các tội phạm về ma tuý và hình phạt đối với các loại
tội phạm này và tại Bộ luật hình sự Việt nam 1999 thì các tội phạm về ma túy được
quy định tại chương XVIII và cụ thể là tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được
quy định tại Điều 197.
Cũng là tội phạm, nên tội phạm về ma túy cũng như các loại tội phạm khác có
các đặc điểm sau đây: Thứ nhất là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thứ hai tính
trái pháp luật hình sự, thứ ba tính có lổi và thứ tư là tính chịu hình phạt. Ngoài những
đặc điểm chung trên thì các tội phạm về ma túy cũng có những đặc điểm riêng sau đây:
- Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về ma túy cao hơn so với các tội
phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự (trừ tội xâm phạm an ninh quốc gia) trong
10 tội thì có 3 tội với mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt là tử hình.
- Các vụ án mua bán, vận chuyển chất ma túy với quy mô lớn, thường được
người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, thNm trí từ
nước ngoài vào Việt Nam, nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức
GVHD: TS.Phạm Văn Beo


Trang 7

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

khác, không có người cầm đầu, chỉ huy hoạt động của các đồng phạm khác, có nhiều
người tham gia vào các hoạt động phạm tội nhưng thường chỉ có người thứ nhất biết
người thứ hai chứ không biết người thứ ba.
- Người phạm tội thường mốc nối với một số cán bộ trong lực lượng phòng
chống ma túy để việc hoạt động tội phạm một cách chot lọt mà không bị phát hiện và
khi bị phát hiện thì chúng huy vọng có sự bao che của các lực lượng này.
- Đối với các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi tập hợp
một số người có nhu cầu sử dụng ma túy, chuNn bị các dụng cụ, địa điểm, phương tiện,
chất ma túy để tiến hành sử dụng trái phép chất ma túy, người phạm tội chủ yếu là con
nghiện rủ nhau, một nhóm người đứng ra tổ chức cho người khác sử dụng trái phép
chất ma túy vì mục đích vụ lợi. Người khác đó là người sử dụng trái phép chất ma tuý
có thể là con nghiện hoặc không phải là con nghiện.
- Đối tượng của tội phạm ma túy là các chất ma túy và quá trình phạm tội đã
đem lại lợi nhuận rất cao.
- Tội phạm về ma túy là một hệ thống các hành vi từ trồng cây có chất ma túy
đến sản xuất, mua bán, tổ chức sử dụng và sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, tội
phạm về ma túy là một hành vi phạm tội xảy ra trước đó và sẽ có hành vi phạm tội tiếp
Trungsau.
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
- Đối tượng phạm tội về ma túy thường động theo tuyến và địa bàn nhất định. Vì

thế trong đấu tranh phòng chốngtội phạm này, việc xác định đúng đắn tuyến và địa bàn
trọng điểm có vị trí hết sức quan trọng trong việc giúp các cơ quan điều tra tập trung
lực lượng, kinh phí và giải quyết dứt điểm có hiệu quả ở trong từng thời điểm trọng.
3. Những vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
3.1. Khái niệm chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
- Khái niệm: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi giúp người
khác sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào.
Hành vi giúp người khác sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi chuNn bị công
cụ phương tiện, và với nhiều hành vi khác nhau nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ
thể người khác với mục đích là vụ lợi.
- Đặc điểm: Tính phổ biến của tội phạm này là đa dạng về thành phần, hình
thành các nhóm tội phạm chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp trong đó nhóm các đối
tượng chuyên nghiệp là nguy hiểm nhất.
Do đặc điểm của tội phạm này là tính đa dạng nên có nhiều thành phần tham gia
có thể là một người chuyên nghiệp, người không chuyên nghiệp, và còn có cả đối
tượng là học sinh cũng tham gia vào quá trình phạm tội ví dụ: như ở Bắc Cạn năm
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 8

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

2004 đã phát hiện 10 học sinh tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với các đối
tượng phạm tội chuyên nghiệp là những đối tượng coi đây là nguồn sống chính chúng
hoạt động có tổ chức chặt chẽ, có nhiều phương tiện hiện đại, thủ đoạn xảo nguyệt.

Dấu hiệu có tổ chức là hành vi tổ chức việc thực hiện hành vi phạm tội của
người khác. Như là các tội: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); Tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý (Điều 197); Tội tổ chức đua xe trái phép (Điều 206); Tội tổ chức
đánh bạc (Điều 249) và Tội tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước
ngoài trái phép (Điều 275). Người phạm các tội phạm này là người có hành vi có tổ
chức cho người khác thực hiện hành vi thuộc tội tảo hôn, tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma tuý, tội đua xe trái phép, tội đánh bạc, tội trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước
ngoài trái phép. Hành vi tổ chức có thể là hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành
vi sắp đặt hoặc tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi
vi phạm pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi do nhiều
người thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn có thể có trường hợp nhiều người cùng cố ý
thực hiện các tội phạm này.Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là tập hợp một số
người có nhu cầu sử dụng ma túy, chuNn bị các công cụ, địa điểm, các phương tiện,
chất ma túy để sử dụng trái phép. Phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
xâmliệu
phạmĐH
chế Cần
độ quản
lý độc
của Nhà
chất ma túy

Trungkhông
tâmchỉ
Học
Thơ
@ quyền
Tài liệu
họcNước
tập tavàvềnghiên

cứu
còn xâm hại trật tự công cộng ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và lan truyền tệ
nạn ma túy
Hành vi tổ chức trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy khác với phạm
tội có tổ chức. Phạm tội có tổ chức là nói đến quy mô nhất thiết phải có từ hai người
trở lên, là sự đồng phạm phải có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng,
còn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có thể chỉ có một người cũng có thể thực
hiện được hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Nguyên nhân của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là do tình hình
người nghiện ma túy ngày càng tăng và nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy của các
con nghiện ngày càng nhiều. Lợi nhuận từ việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
khá cao. Đó là những điều kiện thuận lợi để tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy hoạt động ngày càng mạnh với nhiều hình thức khác nhau. Nguyên nhân nữa là
về các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, chưa thực sự nghiêm khắc, việc quản lý các
tụ điểm giải trí như: quán bar, karaoke, khách sạn,…chưa chặt chẽ và chưa kiên quyết
trong việc đấu tranh xóa các tụ điểm có dấu hiệu tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 9

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

3.2. Khái quát về lịch sử phát triển của tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy.

Pháp luật là công cụ của Nhà Nước để quản lí xã hội. Mỗi nước có một hệ
thống pháp luật riêng gắn liền với đặc điểm của giai cấp thống trị và tình hình kinh tế xã hội cũng như truyền thống văn hoá riêng của quốc gia đó. Thời kì phong kiến tình
trạng trồng cây thuốc phiện và nghiện và nghiện hút thuốc phiện lan tràn rất nhanh vào
năm 1665 Nhà Nước phong kiến đã ban hành đạo luật đầu tiên về “cấm trồng cây
thuốc phiện”. Vào đầu thế kỉ 19 thực dân Pháp xâm chiếm Nước ta và thực hiện chính
sách ngu dân chúng tăng cường trồng cây thuốc phiện và mở các của hàng bán thuốc
phiện làm cho tình trạng nghiện ma túy diễn ra ngày càng phức tạp, sau khi cách mạng
tháng tám thành công chính phủ đã ban hành nghị định 225/TTg ngày 22 tháng 12 năm
1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lí thuốc phiện, nhưng đến
giai đoạn này vẫn chưa có quy định cụ thể về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, trong khi đó hệ thống pháp luật chưa đổi mới
kịp với tình hình của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, để có cộng cụ
pháp lý sắc bén trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và Bộ luật hình sự được ban
hành. Với sự ra đời của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 và các quy định về tội
quanliệu
đến ĐH
ma túy
đượcThơ
quy định
cụ thểliệu
hơn học
là tội tập
tổ chức
chất ma
túy
Trungphạm
tâmliên
Học
Cần
@ Tài

vàdùng
nghiên
cứu
được quy định tại điều 203 Bộ luật hình sự 1985 là hành vi tập hợp những người
nghiện ma túy hoặc tổ chức nhà chứa để tiêu thụ chất ma túy, việc dùng chất ma túy
dươi bất cứ hình thức nào và được tổ chức ở nhiều địa điểm khác nhau. Để đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ma túy, ngày 10 tháng 5 năm 1997 Quốc
hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Bộ luật hình sự 1985. Trong đó có việc sửa đổi bổ sung một số Điều về tội
phạm về ma túy và Điều 203 Bộ luật hình sự năm 1985 tội tổ chức dùng chất ma túy
được sửa đổi thành tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và được quy định tại Điều
185i bao gồm nhiều hành vi khách quan khác nhau để đưa trái phép chất ma túy vào cở
thể người khác. Luật sửa đổi một số Điều của Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ là biện
pháp tình thế cho nên việc sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 là cần thiết cho
qúa trình hôi nhập vào nền kinh tế thế giới và vì vậy Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 ra đời trong đó tội phạm ma túy cũng được sửa đổi và tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy được quy định tại Điều 197 bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
So với Bộ Luật Hình sự năm 1985 (sửa dổi tháng 05 năm 1997) thì các hành vi
coi là tội phạm về ma túy cơ bản vẫn giữ nguyên nhưng gắn hình phạt bổ sung với hình
phạt của từng tội danh; chỉ có hình phạt tù giam, không có hình phạt án treo. Trong các
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 10

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ


tội danh, có nhiều tội danh bao gồm nhiều hành vi phạm tội khác nhau nhưng cùng
nhóm (như Điều 194, 196, 200...) và có 3 tội danh quy định hình phạt đến mức tử hình
đó là các tội danh quy định tại điều 193 (sản xuất trái phép các chất ma túy); điều 194
(tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy) và điều 197
(tổ chức sử dụng trái phép các chất ma túy)
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 185i bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1985 và được quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999. Với mức hình phạt thấp nhất là hai năm tù và hình phạt cao nhất là tử hình.
So với Điều 185i Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 thì Điều 197 Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999 có một số sửa đổi bổ sung như sau:
- Tại điểm e khoản 2 Điều 185i Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 quy định
“Gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác hoặc gây cố tật nặng cho người khác”
thì tại Điểm e khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy định “Gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
- Nếu tại Điểm b khoản 3 Điều 185i Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 quy
định “Gây tổn hại năng cho sức khỏe của nhiều người hoặc gây cố tật nặng cho nhiều
người” thì khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 199 quy định tai Điểm b
sau Học
“Gây liệu
tổn hại
choCần
sức khỏe
tỷ tập
lệ thương
tật từ 31%
đến
Trungnhư
tâm
ĐH

Thơcủa
@người
Tài khác
liệu mà
học
và nghiên
cứu
60%”.
- Còn về mặt khung hình phạt thì tại khoản 1, 2, 3 Điều 185i Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1985 và khoản 1, 2, 3 Bộ luật hình sự Việt Nam 199 không có gì thay
đổi, riêng khoản 4 Điều 185i Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình thì khoản 4 Điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 quy
định hình phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
- Đối với hình phạt bổ sung nếu Điều 185i Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
quy định “Bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến năm trăm triệu đồng hoặc tịch thu
một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm
năm” thì hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 quy định như sau “Có thể phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm triệu
đồng tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm
đến năm năm”
Đối với hình phạt bổ sung thì mức hình phạt tiền được quy định tại điều 185i
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 thấp hơn mức hình phạt tiền được quy định tại
điều 197 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 11

SVTH: Phan Thị Bích Lộc



Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

CHƯƠNG 2
QUY ĐNNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TỘI
TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1. Dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội phạm ma túy là hành vi cố ý sản xuất, điều chế chiết suất, pha chế, chào
hàng, phân phối, mua bán, trao đổi, tàng trữ ma túy, dưới bất kỳ hình thức nào, trồng
hoặc tàng trữ các loại cây, có chất ma túy hướng thần, một cách trái phép, tổ chức chỉ
đạo hoặc điều hành những hành vi tội phạm đó, chuyển đổi hoặc chuyển giao tài sản
thu được từ những hành vi phạm tội.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2000 quy
định các tội phạm về ma túy tại chương XVIII gồm mười tội từ Điều 192 đến Điều
201. Tội phạm ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước ta về chất ma túy và những hoạt động liên
quan trực tiếp đến quá trình quản lý sử dụng chất ma túy, các tiền chất ma túy và trong
chương này thì tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được quy tại Điều 197 Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 với nội dung sau:

Trung tâm1.Học
Cần
Thơtrái
@phép
Tàichất
liệumahọc
tập bất
và kỳnghiên

cứu
Ngườiliệu
nào ĐH
tổ chức
sử dụng
túy dưới
hình thức
nào,
thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên;
d) Đối với phụ nữ mà mình biết là có thai;
đ) Đối với người đang cai nghiện;
e) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60%;
g) Gây bệnh nguy hiểm cho người khác;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm
năm đến hai mươi năm:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
hoặc gây chết người;
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 12

SVTH: Phan Thị Bích Lộc



Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

b) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60%;
c) Gây bệnh nguy hiểm cho người;
d) Đối với trẻ em dưới 13 tuổi.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi
năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Gây chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến năm trăm
triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ
một năm đến năm năm.
Tội phạm là hiện tượng xã hội cụ thể và cấu thành tội phạm là khái niệm pháp lý
mô tả hiện tượng đó. Các dấu hiệu bặt buộc của một tội phạm là: Dấu hiệu năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi (mặt chủ thể của tội phạm), dấu hiệu lổi (mặt chủ quan
của tội phạm), dấu hiệu hành vi khách quan và những dấu hiệu có liên quan (mặt khách
quan của tội phạm), và dấu hiệu quan hệ xã hội bị xâm hại (mặt khách thể của tội
phạm). Đây là dấu hiệu băt buộc của một tội phạm thiếu một trong bốn dấu hiệu trên
sẽ không
tội phạm
ra. Tổ
chức@
sử Tài
dụngliệu
trái phép
túynghiên

là một tộicứu
phạm
Trungthìtâm
Họccóliệu
ĐHsảy
Cần
Thơ
họcchất
tậpmavà
cho nên cần phải có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm sau:
1.1. Mặt chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân con người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi nhất định, và có năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại Điều
12 và Điều 13 Bộ luật hình sự.
Thứ nhất là về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 thì
người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách hình sự về mọi tội phạm và người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự,
và theo quy định tại điều 13 Bộ luật hình sự thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hnàh vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự;
đối với người này phải áp dụng biện pháp chữa bệnh.
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là một tội phạm cho nên cũng giống như
chủ thể của các loại tội phạm khác chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy cũng phải đảm bảo các yếu tố cần và đủ như: Độ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự,
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 13


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12 và 13 Bộ luật hình sự. Như vây,
chủ thể của tội phạm tổ chức sử sụng trái phép chất ma túy là người đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi trở lên. Tuy nhiên người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, 3, 4 điều này mà không chịu trách nhiệm
theo Khoản 1 Điều 197 vì đây là tội phạm nghiêm trọng và theo quy định tại điều 12
Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
1.2. Mặt khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, trực
tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp thống trị được nhà
nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật.
Khách thể của tội phạm là cơ sở đánh giá đúng đắn tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội.
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xâm phạm đến chế độ quản lí Nhà
nước về sử dụng chất ma túy vào các mục đích chữa bệnh vì vậy mà quan hệ xã hội bị
xâm hại còn bao gồm cả tính mạng, sức khoẻ con người, làm lan tràn tệ nạn nghiện hút
ma túy, xâm hại đến trật tự an toàn xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm này chính
ngườiHọc
sử dụng
túy, Cần
nếu không
dụnghọc
ma tuý

hẳn không
Trunglà tâm
liệumaĐH
Thơcó@người
Tàisửliệu
tậpthìvàchắc
nghiên
cứucó
người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, trong một số trường hợp nếu thoả
mản các dấu hiệu của tội sử dụng trái phép chất ma túy thì họ còn là người phạm tội sử
dụng trái phép chất ma túy và bị truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều
199 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
1.3. Mặt khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Mặt khách quan của tội phạm là những gì tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc
vào ý thức, ý trí của con người. Pháp luật hình sự nói riêng và pháp luật nói chung chỉ
điều chỉnh đối với những hành vi cụ thể của con người được thể hiện ra ngoài thế giới
khách quan, không điều chỉnh những gì thuộc ý nghĩ, tư tương của con người.
Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện nhiều hành vi
khách quan khác nhau, nhưng trong trường hợp này người phạm tội có hành vi tổ chức
cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy.”Tổ chức” ở đây cần phân biệt với tình
tiết” phạm tội có tổ chức” trong đồng phạm.
Hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng tương tự như một số hành
vi tổ chức phạm tội tổ chức đánh bạc. Phạm tội có tổ chức nhất thiết có từ hai người trở
lên và giữa những người này có cấu kết chặt chẽ với nhau, và có sự phân cộng nhiệm
vụ cụ thể của từng thành viên trong nhóm, còn hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 14

SVTH: Phan Thị Bích Lộc



Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

ma túy một người cũng có thể thực hiện được. Người tổ chức trong đồng phạm là chủ
mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực hiện tội phạm, và phân công nhiệm vụ của từng thành
viên trong một vụ đồng phạm còn hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không
nhất thiết phải là người cầm đầu. Theo thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BCA (ngày 5 tháng 8 năm 1998) thì bị coi là hành vi tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ
thể người khác. Trong trường hợp này thì người thực hiện hành vi phạm tội của mình
như người tổ chức trong vụ án có tổ chức, nhưng việc phân công điều hành các hoạt
động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác, người khác trong trường hợp
này là người có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy. Việc chuNn bị các hoạt động
đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác được chuNn bị tương đối chặt chẽ, có
người gác cổng, người dẫn dắt con nghiện đến địa điểm sử dụng trái phép chất ma túy,
và người trực tiếp đưa chất ma túy vào cơ thể người khác. Người phạm tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy không chỉ chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa
trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác mà còn cung cấp chất ma túy, phương tiện
dụng cụ cho đồng bọn để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác. Do đó khi
xét Học
trách nhiệm
hình Cần
sự củaThơ
người@
phạm
cần chú
hành vicứu

phạm
Trungxem
tâm
liệu ĐH
Tàitộiliệu
họcý xem
tập xét
vàcác
nghiên
tội khác như: hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy hoặc phương tiện
dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.
- Thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của
mình hoặc do mình đang quản lý, cũng như tìm điạ điểm để làm nơi đưa trái phép chất
ma túy vào cơ thể người khác. Để sử dụng trái phép chất ma túy phải có địa điểm và
địa điểm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy rất đa dạng có thể là nhà ở, trường học,
khách sạn, quán bar, nhà hàng quán nước cũng có thể trên các phương tiện giao thông.
Nếu thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm thuộc quyền chiếm hữu
của mình hoặc do mình đang quản lí, cũng như tìm địa điểm để đưa trái phép chất ma
túy vào cơ thể người khác hoặc cho người đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể họ thì
đây là hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy còn nếu dùng những địa điểm nói
trên để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể mình thì không phải là hành vi tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy nếu thỏa mãn các dấu hiệu về tội sử dụng trái phép
chất ma túy thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự của họ về tội sử dụng trái phép chất
ma túy.
Hành vi thuê địa điểm làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác
là dùng tiền hoặc tài sản để trả cho người có địa điểm để họ đồng ý cho người phạm tội
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 15


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

dùng địa điểm đó để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác. Trường hợp thuê
địa điểm để kinh doanh nhưng sau đó thì dùng địa điểm đã thuê để đưa trái phép chất
ma túy vào cơ thể người khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy. Ví dụ: Nguyễn Văn A ban đầu thuê địa để kinh doanh băng
đĩa nhưng sau thời gian dài kinh doanh băng đĩa lợi nhuận không cao và sau đó tiến
hành tổ chức cho các con nghiện sử dụng trái phép chất ma túy thì hành vi của A cũng
thuộc trường hợp thuê địa điểm để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người
khác. Và hành vi của A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy.
Mượn địa điểm làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác ví dụ
trong trường hợp Nguyễn Trường T mượn xe để vận chuyển hàng hóa nhưng sau đó rủ
thêm Phạm Văn C và Trần L cùng lên xe để tiêm chích ma túy cho nhau, trong đó T đã
tiêm chích ma túy cho C và L.
Trường hợp cho thuê địa điểm, cho mượn hoặc sử dụng địa điểm thuộc quyền
chiếm hữu của mình cho người khác tự đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể mình thì
hành vi đó là hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Sử dụng địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc do mình quản lý để
nơi Học
đưa trái
phépĐH
chấtCần
ma túyThơ
vào cơ

người
khác
là người
phạm
tội dùngcứu
nhà ở
Trunglàm
tâm
liệu
@thểTài
liệu
học
tập và
nghiên
của mình hoặc các địa điểm do mình quản lí tổ chức đưa trái phép chất ma túy vào cơ
thể người khác. Địa điểm đó có thể là nhà ở của người tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy hoặc là trụ sở cơ quan
Hành vi tìm địa điểm để đưa trái phép chất ma túy vào cở thể người khác là tìm
một địa điểm thuận lợi để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể ngươi khác. Ví
dụ: Nguyễn Văn N, Lê Văn L và Trần Văn M là những con nghiện thường xuyên tâp
trung để sử dụng trái phép chất ma túy. Một hôm Lê văn L mua được chất ma túy và rủ
Trần Văn N và Trần Văn M về nhà M để sử dụng trái phép chất ma túy nhưng M
không chịu sợ bị anh chị của M phát hiện nên M nói là sẽ tìm địa điểm khác khi nào có
địa điểm sẽ thông báo cho N và L để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy. Sau đó
M tìm được địa điểm và M đã chở N và L đến chổ kín đáo để sử dụng trái phép chất
ma túy khi đang sử dụng thì bị bắt quả tang. Nếu hành vi thuê địa điểm, mượn địa
điểm, sử dụng địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc do mình quản lí cũng
như tìm địa điểm nhằm mục đích là đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác là
hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, còn nếu không nhằm mục đích đưa trái
phép chất ma túy vào cơ thể người khác mà để tự đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể

GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 16

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

mình thì đây không phải là hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà hành vi
đó là hành vi phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy.
- Cung cấp trái phép chất ma tuý cho người khác để họ sử dụng trái phép chất
ma túy (trừ hành vi bán trái phép chất ma túy). Người phạm tội có chất ma túy dưới bất
kỳ hình thức nào như mua, xin, được cho, nhặt được và đem chất ma túy đó cung cấp
cho người khác để họ sử dụng trái phép. Trong trường hợp này nếu người có chất ma
túy bán cho người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy. Trong trường các con nghiện góp tiền cho một con nghiện đi
mua chất ma túy về sử dụng chung trong trường hợp này thì chỉ xem là hành vi sử
dụng trái phép chất ma túy, nếu có đủ dấu hiệu thì truy cứu trách nhiệm hình sự họ về
tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại điều 199 Bộ luật hình sự. Trường
hợp này chính người được cung cấp chất ma túy tự đưa chất ma túy vào cơ thể mình.
Nếu hành vi cung cấp cho người khác và tạo điều kiện cho người đó sử dụng
trái phép ma túy và chính người sử dụng ma túy có ý tự nguyện, thNm chí họ còn tìm
đến chổ chứa để chích ma túy thì đây là hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Nhưng nếu cung cấp chất ma túy cho người khác và tạo điều kiện cho những người đó
sử dụng trái phép chất ma túy khi người sử dụng không mong muốn mà bị cưỡng ép,
bị Học
lôi kéoliệu

thì người
ép, lôi@
kéoTài
sẽ phạm
tội tập
cưỡng
lôi kéo cứu
người
Trunghoặc
tâm
ĐH cưỡng
Cần Thơ
liệuvào
học
vàbức,
nghiên
khác sử dụng trái phép chất ma túy.
Việc xác định người phạm tội có cung cấp chất ma túy cho người hay không
phải dựa vào quá trình thực hiện tội phạm ví dụ: M, N, L là những con nghiện bàn bạc
nhau sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không có tiền nên M đã đem chiếc xe honda
của mình đi cầm để có tiền và đưa cho N đi mua chất ma túy sau khi có chất ma túy thì
M, N, L cùng nhau đi tìm địa điểm để sử dụng trái phép chất ma túy trong khi đang sử
dụng thì ba đối tượng này bị bắt quả tang. Trong trường hợp này thì N là người cung
cấp chất ma túy chứ không phải là M vì M chỉ đưa tiền cho N là người đi mua chất ma
túy về và cùng với M và L sử dụng. Trong trường hợp này thì dù M có tiền nhưng N
không đi mua chất ma túy thì M, N, L sẽ không có chất ma túy để sử dụng vậy trong
trường hợp này thì hành vi của N là hành vi cung cấp chất ma túy.
- Hành vi chuNn bị chất ma túy dưới bất cứ hình thức nào nhằm đưa trái phép
chất ma túy vào cơ thể người khác. Trong trường hợp này người phạm tội có chất ma
túy dưới bất cứ hình thức nào như mua, xin, được cho, rồi đưa trái phép chất ma túy

vào cơ thể người khác. Nếu cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác thì không
cần xác định mục đích của người cung cấp có nhằm đưa chất ma túy vào cơ thể người
khác không, còn người chuNn bị chất ma túy thì bắt buộc phải xác định mục đích của
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 17

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

họ. Trường hợp này người phạm tội không cung cấp chất ma túy cho người khác để họ
sử dụng mà nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác.
Người chuNn bị chất ma túy có thể tự đưa chất ma túy vào cơ thể người khác,
nhưng cũng có thể không trực tiếp đưa chất ma túy vào cơ thể người khác mà có thể
chính người sử dụng trái phép chất ma túy hoặc người khác thực hiện hành vi đưa trái
phép chất ma túy vào cơ thể mà người chuNn bị chất ma túy mà mình mong muốn.
- Tìm người sử dụng trái phép chất ma túy cho người tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể họ. Đây là trường hợp đã có
người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng vì những mục đích khác nhau nên
người phạm tội đã tìm kiếm, rủ rê người có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy cho
người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể
họ. Nếu một người biết người kia tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà còn lôi
kéo, ru rê, người chưa biết sử dụng trái phép chất ma túy nhằm đưa trái phép chất ma
túy vào cơ thể họ thì người này vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy.
Nếu biết người khác tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà còn tìm kiếm, rủ

rê, mua chuộc người chưa sử dụng chất ma túy bao giờ để người này đồng ý sử dụng
phépHọc
chất liệu
ma túy
và Cần
giới thiệu
với@
người
chứchọc
sử dụng
chất ma
túy
Trungtráitâm
ĐH
Thơ
Tàitổliệu
tậptrái
vàphép
nghiên
cứu
nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người này thì vẫn là hành vi tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy. Ví dụ: A là một con nghiện và được B thường xuyên cung
cấp chất ma túy cho A sử dụng. Và mổi lần B cung cấp chất ma túy cho A sử dụng và
kêu A tìm người sử dụng chất ma túy cho B thì B sẽ thường xuyên cung cấp chất ma
túy cho A. và A nói với E là khi sử dụng ma túy thì sẽ thông minh và học giỏi hơn do
đó E đã đồng ý sử dụng trái phép chất ma túy và A đã giới thiệu E cho B để B cung cấp
chất ma túy cho E sử dụng.
- ChuNn bị phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy
dưới bất kỳ hình thức nào nhằm dùng chúng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể
người khác. Phạm tội trong trường hợp này người tổ chức sử dụng trái phép chất ma

túy không chuNn bị chất ma túy mà chuNn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử
dụng trái phép chất ma túy và dùng các phương tiện, dụng cụ này để đưa trái phép chất
ma túy vào cơ thể người khác. Nếu người phạm tội không có mục đích dùng phương
tiện, dụng cụ đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác, mà biết phương tiện,
dụng cụ đó dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy những vẫn xin, mua thì đây
không thuộc trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà thuộc
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 18

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

trường hợp phạm tội tại Điều 196 tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Do đó chỉ cần xác định người phạm tội có mục đích dùng phương tiện, dụng cụ
để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
- Các hành vi khác giúp người khác sử dụng trái phép chất ma túy nếu người
thực hiện một trong các hành vi đã:
+ Bị kết án về về một trong các tội phạm ma túy được quy định trong Bộ luật
hình sự nhưng chưa được xóa án.
+ Bị xử lý vi phạm hành chính về một trong các hành vi vi phạm về ma túy
được quy định trong Bộ luật hình sự và được cụ thể hóa trong thông tư liên tịch số
01/1998 và thông tư này, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm
hành chính.

+ Được cơ quan nhà nước có thNm quyền và những người có trách nhiệm liên
quan giáo dục, nhưng chưa quá thời hạn một năm kể từ ngày giáo dục. Các hành vi này
không trực tiếp giúp người khác sử dụng trái phép chất ma túy nên phải kèm theo
những điều kiện nhất định thì các hành vi này mới bị coi là hành vi phạm tội.
tổ chức
sử Cần
dụng trái
phép
maliệu
túy để
lại những
hậunghiên
quả đáng kể
cho
Trung tâmHành
Họcviliệu
ĐH
Thơ
@chất
Tài
học
tập và
cứu
xã hội, trong đó gây ra những thiệt hại về trật tự an toàn xã hội, tính mạng sức khoẻ của
chính người sử dụng trái phép chất ma túy. Hậu quả không là dấu hiệu bắt buộc của
cấu thành tội phạm. Nếu thiệt hại về tính mạng sức khoẻ đối với người sử dụng trái
phép chất ma túy thì những thiệt hại đó là yếu tố định khung hình phạt.
Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có thể là người nghiện
hoặc không phải là người nghiện ma túy. Vì vậy phải xác định rõ có đúng bản chất của
hành vi tổ chức hay chỉ là hành vi những người nghiện tụ tập với nhau sử dụng trái

phép chất ma túy thì không phải là tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Nếu sau khi bán ma túy cho người nghiện, người bán còn cho người sử dụng địa
điểm của mình, cung cấp các dụng cụ tiêm chích cho người nghiện dù là lần đầu thì
cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Ngoài ra, người nào ngoài hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, còn
thực hiện hành vi hành vi phạm tội khác về ma túy quy định tại những Điều tương ứng
được quy định trong Bộ luật hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm về tội phạm tuơng ứng
với hành vi phạm tội. Địa điểm tổ chức là bất cứ nơi nào và tội phạm được coi là hoàn
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 19

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

thành khi thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như đã phân tích ở
trên.
Hậu quả của hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là gây thiệt hại cho
xã hội trong đó trực tiếp là gây thiệt hại về trật tự an toàn xã hội, tính mạng sức khỏe
của người sử dụng trái phép chất ma túy. Hậu quả không là dấu hiệu băt buộc đối với
tội phạm này. Nếu có hậu quả xảy ra trong các trường hợp phạm tội thì hậu quả của
việc thực hiện hành vi phạm là yếu tố định khung hình phạt. Ví dụ: Nếu tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy mà gây hậu quả chết người thì người phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự, còn nếu người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội mà gây thiệt hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương

tật từ 31% đến 60% thì bị truy cứu trách nhiệm theo Điểm e khoản 2 Điều 197 Bộ luật
hình sự.
1.4. Mặt chủ quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội phạm là sự thông nhất giữa hai mặt chủ quan và khách quan. Vì vậy, luật
hình sự Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách
nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không
kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lí của hành vi nguy hiểm cho xã hội ra
Trungsao.
tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Người phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thực hiện hành vi phạm
tội của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức được hành vi của
mình là bị pháp luật cấm, thấy được tác hại của hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy nhưng vẫn thực hiện. Do đó mục đích là dấu hiệu bắt buộc, người phạm tội thực
hiện hành vi với mục đích đưa chất ma túy vào cơ thể người khác với nhiều động cơ
khác nhau nhưng chủ yếu là vì vụ lợi, vì vậy nếu không chứng minh được mục đích
của người phạm tội là mong muốn đưa chất ma túy vào cơ thể người khác thì không
phải là phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tùy trường hợp cụ thể mà có
thể truy cứu trách nhiệm hình sự các tội danh khác nhau theo chương XVIII Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội phạm ma túy.
2. Các trường hợp phạm tội cụ thể
Hình phạt của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được chia thành bốn
khung.
2.1. Khung một
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không có các tình tiết định khung tại
khoản 2, 3, 4 điều này, là cấu thành cơ bản của tội phạm, được quy định tại khoản 1
Điều 197 Bộ Luạt hình sự 1999 người phạm tội có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 20


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

năm là tội phạm nghiêm trọng. Trong trường hợp này nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ
quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng tại Điều 48
Bộ luật hình sự, thì toà án có thể áp dụng đến mức thấp nhất trong khung hình phạt
nhưng không được dưới ba tháng tù.
So với khoản 1 Điều 185i Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này,
thì khoản 1 Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1999 thì cũng không nhẹ hơn và không nặng
hơn.
2.2. Khung hai
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau,
người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến 15 năm tù;
- Phạm tội nhiều lần đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện các hành vi
tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên và mỗi lần đều
có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nhưng đều chưa bị xét xử. Nếu có hai lần tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy trong đó có một lần chưa tới mức bị truy cứu trách
nhiệm hình sự thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần. Và trong trường
hợp có hai lần phạm tội nhưng có một lần bị kết án hoặc được miễn trách nhiệm hình
sự hoặc bị phạt hành chính thì không coi là phạm tội nhiều lần. Trong trường hợp có 4,
lần tổ Học
chức sử
dụng
phép Thơ
chất ma
mộttập

lần truy
cứu trách cứu
nhiệm
Trung5 tâm
liệu
ĐHtráiCần
@túy
Tàinhưng
liệucóhọc
và nghiên
hình sự về hành vi phạm tội này và một lần được miễn hình phạt hoặc bị xử phạt hành
chính thì vẫn bị coi là phạm tội nhiều lần vì ít nhất cũng còn lại hai lần bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội này.
- Đối với nhiều người trong trường hợp này người phạm tội đã thực hiện hành vi
tổ chức cho từ hai người trở lên sử dụng trái phép chat ma túy. Nếu người phạm tội
nhiều lần mà mỗi lần tổ chức cho hai người trở lên sử dụng trái phép chất ma túy, thì
vừa thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần vừa phạm tội đối với nhiều người. Ví dụ
Nguyễn Văn N tổ chức cho Nguyễn Văn M và Nguyễn Văn S sử dụng trái phép chất
ma túy 3, 4 lần thì trường hợp này Nguyễn Văn N vừa phạm tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy nhiều lần và đối với nhiều người.
- Đối với người chưa thành niên từ đủ 13 tuổi trở lên đây là yếu tố khách quan
nên chỉ cần xác định tuổi của người bị hại trên thực tế là từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi
thì có thể áp dụng tình tiết này bất kể người thực hiện hành vi phạm tội có biết hay
không. Đây không phải là tình tiết thuộc mặt chủ quan nên dù người phạm tội có nói
rằng họ không biết người sử dụng trái phép chất ma túy là người chưa thành niên thì
cũng không vì thế mà cho rằng họ không thuộc trường hợp phạm tội này.
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 21


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

Khi áp dụng tình tiết này cần phân biệt khái niệm người chưa thành niên với
khái niệm trẻ em. Trẻ em là người chưa thành niên, nhưng là người dưới 16 tuổi, còn
người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.
Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, do đó người chưa thành niên từ đủ
13 tuổi trở lên là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi. Căn cứ xác định tuổi của người
sử dụng trái phép chất ma túy là giấy khai sinh và các tài liệu về hộ khNu, hộ tịch. Nếu
khi xác minh mà vẫn không xác định được tuổi của người phạm tội thì áp dụng nguyên
tắc có lợi cho người phạm tội.
- Đối với phụ nữ mà mình biết là đang có thai đây là tình tiết mang tính chủ
quan của người phạm tội. Nếu phụ nữ có thai là người sử dụng trái phép chất ma túy có
căn cứ xác định người phạm tội không biết thì cũng không thuộc trường hợp phạm tội
đối với phụ nữ là người đang có thai và không thể áp dụng tình tiết này.
Trong trường hợp người sử dụng trái phép chất ma túy không có thai nhưng
người phạm tội tin lầm người sử dụng trái phép chất ma túy là có thai nên tổ chức cho
họ sử dụng trái phép chất ma túy thì cũng thuộc trường hợp phạm tội này. Ví dụ
Nguyễn Thị E là con nghiện và E nói dối với Nguyễn Văn N là mình có thai, và nghe
đồn sử dụng chất ma túy để phá thai nên N đã tổ chức cho E sử dụng trái phép chất ma
và đang
dụng ĐH
thì E Cần
bị bắt. Thơ
Trong @
trường

nàyhọc
E không
thainghiên
nhưng Ncứu
lại tin
Trungtúytâm
Họcsử liệu
Tàihợp
liệu
tậpcóvà
rằng E có thai mới cung cấp chất ma túy cho E phá thai nhưng thực tế là E nói dối
trong trường hợp này thì N vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội
trong trường hợp này là đối với phụ nữ mà mình biết là đang có thai.
- Đối với người đang cai nghiện đây là trường hợp người phạm tội tổ chức cho
người đang cai nghiện sử dụng trái phép chất ma túy. Người đang cai nghiện là người
đã nghiện ma túy đang đựơc cai nghiện tại trung tâm cai nghiện hoặc cai nghiện tại nơi
ở theo chỉ dẫn của cơ quan chuyên môn mà chưa kết thúc thời gian cai nghiện. Trường
hợp người nghiện ma túy đã có quyết định của cơ quan có thNm quyền đưa vào trung
tâm cai nghiện nhưng vì những lí do gì đó mà chưa đi vào trung tâm cai nghiện mà tổ
chức cho người này sử dụng trái phép chất ma túy thì không thuộc trường hợp phạm tội
đối với người đang nghiện ma túy.
Nếu người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không biết người mà mình đưa
trái phép chất ma túy là người đang cai nghiện thì cũng không thuộc trường hợp phạm
tội này. Vì thế, để áp dụng tình tiết này chúng ta cần chứng minh người phạm tội biết
được hoặc bất chấp người sử dụng trái phép chất ma túy là người đang cai nghiện. Ví
dụ Nguyễn Văn D đang cai nghiện tại trung tâm cai nghiện M sau đó D trốn khỏi trung
tâm cai nghiện và đến nhà Trần Văn F để tiêm chích ma túy. F không biết D đang cai
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 22


SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

nghiện tại trung tâm cai nghiện nên đã lấy chất ma túy cho D sử dụng, trong trường
hợp này hành vi F không thuộc trường hợp phạm tội này. Trường hợp người tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy không cần biết người mà mình đưa trái phép chất ma túy
vào cơ thể của họ là người đang cai nghiện hay không mà vẫn tổ chức cho họ sử dụng
trái phép chất ma túy, nhưng sau khi đã giúp họ sử dụng trái phép chất ma túy mới biết
họ đang cai nghiện. Đây là hành vi bất chấp của người tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy dù người này có đang cai nghiện hay không họ không quan tâm và nếu biết thì
họ thực hiện hành vi phạm tội của mình là cho người đang cai nghiện sử dụng trái phép
chất ma túy.
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
hành vi sử dụng trái phép chất ma túy dù ít hay nhiều điều gây tổn hại đến sức khỏe
của người sử dụng, nhưng tổn hại đó khó xác định là mất bao nhiêu phần trăm. Phạm
tội trong trường hợp này là do tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nên làm người sử
dụng bị sốc thuốc, bị tai biến phải đưa đi cấp cứu dẫn đến tổn hại cho sức khỏe của
người sử dụng. Nếu hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không phải là
nguyên nhân gây trực tiếp gây tổn hại cho sức khỏe cho người sử dụng thì không thuộc
trường hợp phạm tội này ví dụ Lê Văn A là một con nghiện đến nhà Nguyễn Thị B
chích
ma túy
khi Cần
tiêm chích
túyTài

xongliệu
do quá
liềutập
nên và
A cảm
thấy khó
chịu
Trungtiêm
tâm
Học
liệusauĐH
Thơma@
học
nghiên
cứu
và chóng mặt B có bảo với A là ở lại khi nào khỏe rồi về nhưng A không chịu và lái xe
đi về, đi được một đoạn thì A gây tai nạn giao thông và tỉ lệ thương tật là 50% trong
trường này hành vi sử dụng chất ma túy không là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tai nạn
giao thông.
Nếu hành vi do người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà không gây tổn hại cho sức khỏe của người sử dụng trái phép
chất ma túy thì người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội này.
- Gây bệnh nguy hiểm cho người khác, đây là trường hợp do người sử dụng trái
phép chất ma tuý mà người sử dụng mắc một trong các bệnh nguy hiểm đến tính mạng.
Bệnh nguy hiểm là những bệnh không có khả năng cứu chữa dễ dẫn đến tử vong hoặc
tuy không dẫn đến tử vong nhưng cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe suốt
đời. Nếu người tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý biết mình bị HIV mà cố ý lây
truyền bệnh cho người khác bằng cách tiêm chích ma túy thì thuộc trường hợp quy
định tại điều 117 Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 ví dụ Nguyễn Văn H biết mình bị

nhiễm HIV nhưng đã cố ý dùng kim tiêm của mình để chích ma túy cho Trần Văn H
làm cho H bị lây bệnh HIV. Trường hợp người tổ chức cho người khác sử dụng trái
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 23

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

phép chất ma túy với mong muốn hoặc để mặc cho người khác mắc bệnh thì có thể bị
truy cứu thêm tội cố ý gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999. Gây bệnh nguy hiểm cho người khác nếu chưa gây bệnh
thì không bị coi là phạm tội trong trường hợp này.
- Tái phạm nguy hiểm là người bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trong do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy thuộc trường hợp quy định khoản 2, 3, 4 của Điều 197 hoặc đã tái phạm, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự
thì người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến 15 năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
2.3. Khung ba
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau,
người phạm tội có thể bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên
hoặc gây chết người. Gây hậu quả chết người cũng tương tự như trường hợp gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nhưng chỉ khác là hậu quả của hành vi tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy gây hậu quả chết người chứ không phải chỉ gây thương tích.

dụ: Trần
N ĐH
và LêCần
Văn L
là những
con liệu
nghiện,
N rủ
L về
mình đểcứu
tiêm
TrungVítâm
HọcVăn
liệu
Thơ
@ Tài
học
tập
vànhà
nghiên
chích ma túy về tới nhà N lấy hêroin pha sẳn tiêm cho L vừa rút kim ra khỏi tay thì N
thấy L mắt trợn ngược N đưa L đi cấp cứu nhưng L đã chết trên đường đi cấp cứu. Đối
với trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cái chết của nạn nhân là
ngoài sự mong muốn của người phạm tội, nếu người phạm tội mong muốn cho người
sử dụng trái phép chất ma túy chết thì hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
chỉ là thủ đoạn giết người và người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội giết người theo Điều 93 BLHS.
- Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60%. Trong trường hợp này phải có hai người trở lên bị tổn hại và mỗi người đều phải
có tỷ lệ thương tật là từ 31% đến 60%. Nếu có hai người bị tổn hại sức khỏe nhưng chỉ

có một người do hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy gây nên thì không thuộc
trường hợp phạm tội này mà tùy trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm e khoản 2 của điều này và truy cứu thêm tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS.
Trường hợp có hai người bị tổn hại đến sức khỏe, trong đó chỉ có một người có tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%, còn một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên thì người
phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 197. Nếu
GVHD: TS.Phạm Văn Beo

Trang 24

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


Luận văn tốt nghiệp

Khoa luật - Đại học Cần Thơ

có nhiều người, nhưng chỉ có một người có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, những
người khác có tỷ lệ thương tật chưa đủ 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của họ đạt
31% đến 60% cũng có thể áp dụng tình tiết này. Hậu quả gây tổn hại cho sức khỏe của
nhiều người ở đây đều không phải là sự cố ý của người phạm tội nhưng phải có mối
quan hệ nhân quả với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
- Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người khác với trường hợp gây tổn hại đến sức
khoẻ, nhiều người bị gây bệnh nguy hiểm là có từ hai người trở lên và tất cả điều bị
gây bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên nếu có từ ba người trở lên bị gây bệnh, thì chỉ cần có
hai người bị gây bệnh nguy hiểm là người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo điểm c Khoản 3 của điều luật mà không nhất thiết phải tất cả đều bị gây bệnh
nguy hiểm. Còn trong trường hợp có ba người bị gây bệnh nhưng có một người bị gây
bênh nguy hiểm thì không áp dụng tình tiết này mà đây là trường hợp gây bệnh cho

nhiều người.
- Đối với trẻ em dưới 13 tuổi đây là tình tiết thuộc yếu tố khách quan. Vì thế, chỉ
cần xác định được người sử dụng trái phép chất ma túy là trẻ em dưới 13 tuổi thì có
thể áp dụng tình tiết này. Việc xác định tuổi của người sử dụng trái phép chất ma túy
căn cứ vào tuổi của người sử dụng trái phép chất ma túy là giấy khai sinh và các tài
về hộ
khNu,liệu
hộ tịch.
Trungliệu
tâm
Học
ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Phạm tội trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự thì
người phạm tội bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
2.4. Khung bốn
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau,
người phạm tội bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
- Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên. Cũng như trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 của điều luật này hai người trở
lên bị tổn hại đến sức khỏe có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên và do hành vi tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy gây ra thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo điểm a khoản 4 của điều luật. Nếu có từ ba người trở lên bị gây tổn hại đến sức
khỏe, trong đó có một người có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên còn những người còn lại
tuy tỷ lệ thương tật của mỗi người chưa đến 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của hai
người còn lại cộng lại từ 61% trở lên thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điểm a khoản 4 Điều luật này.
- Gây chết nhiều người hoặc gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
Gây chết nhiều người là trường hợp do tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà gây
GVHD: TS.Phạm Văn Beo


Trang 25

SVTH: Phan Thị Bích Lộc


×