Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 119 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





HOÀNG THỊ THU CHANG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012





2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HOÀNG THỊ THU CHANG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản




HÀ NỘI - 2012




4

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan



Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
7
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam
7
1.1.1.
Khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
7
1.1.2.
Ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy trong Luật Hình sự Việt Nam
14
1.2.
Khái quát lịch sử lập pháp hình sự việt nam quy định tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy
18
1.2.1.

Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
18
1.2.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
20
1.2.3.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay
24
1.3.
Nghiên cứu so sánh các quy định về tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy trỏng luật hình sự Việt Nam với luật hình
sự một số nước
27
1.3.1.
Bộ luật hình sự Nhật Bản
27

5
1.3.2.
Bộ luật hình sự Canada
30
1.3.3.
Bộ luật hình sự của Liên bang Nga
31

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI
PHÉP CHẤT MA TÚY THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH

34
2.1.
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy
34
2.1.1.
Khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
34
2.1.2.
Mặt khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
37
2.1.3.
Chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
50
2.1.4.
Mặt chủ quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
50
2.2.
Các trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy cụ thể
52
2.2.1.
Phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không có các
tình tiết là yếu tố định khung hình phạt
52
2.2.2.
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 197 Bộ luật hình sự
53
2.2.3.

Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 197 Bộ luật hình sự
58
2.2.4.
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 197 Bộ luật hình sự
60
2.3.
)hân biệt tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với
một số tội phạm về ma túy khác trong luật hình sự Việt Nam
64
2.3.1.
Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy (Điều 194 Bộ luật hình sự)
66
2.3.2.
Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ
67

6
dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 196 Bộ luật hình sự)
2.3.3.
Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội
chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198 Bộ
luật hình sự)
69
2.3.4.

Phân biệt tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với tội
cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 200 Bộ luật hình sự)
70

Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ, NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
73
3.1.
Thực tiễn xét xử tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ở
nước ta
73
3.1.1.
Đánh giá, phân tích tình hình xét xử tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy trong 6 năm (từ năm 2005 đến năm 2010)
của các Tòa án các cấp
73
3.1.2.
Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn xét xử và những
nguyên nhân cơ bản
78
3.2.
Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy
87
3.2.1.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc hoàn thiện các quy định của
Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy

87
3.2.2.
Những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
90
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
93
3.3.1.
Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành trong tương quan với các văn bản
94

7
pháp luật khác về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
3.3.2.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
95
3.3.3.
Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm
minh tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
97
3.3.4.
Giải pháp nâng cao năng lực, trách nhiệm và tăng cường điều
kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ hỗ trợ cho đội ngũ
cán bộ trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử và cán
bộ làm công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy
98

3.3.5.
Tăng cường, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
công tác tư pháp
100
3.3.6.
Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp
101

KẾT LUẬN
102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107


8



Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
3.1
Tổng số vụ, số bị cáo đưa ra xét xử về tội tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy trên tống số vụ án, số bị cáo đưa ra
xét xử từ năm 2005 - 2010
73

3.2
Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy từ năm 2005 - 2010
74
3.3
Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy trong tương quan với các
tội phạm về ma túy
75
3.4
Về hình phạt và các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình
sự và hình phạt áp dụng đối với bị cáo bị Tòa án xét xử
về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
76
3.5
Phân tích đặc điểm nhân thân của các bị cáo bị Tòa án xét
xử về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
77







9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, cộng đồng quốc tế đang phải

đối phó với nhiều vấn đề nghiêm trọng như nạn khủng bố, nạn buôn bán trẻ
em… trong đó có vấn đề ma túy. Ma túy đã trở thành thảm họa chung của
nhân loại, gây tác hại nhiều mặt, làm gia tăng tội phạm, bạo lực và nhiều tệ
nạn xã hội khác. Ma túy còn kéo theo việc hủy hoại sức khỏe lao động và
những tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát
triển kinh tế - xã hội, đem lại hạnh phúc cho mọi người. Không những thế, ma
túy còn đang làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, tàn phá cuộc sống
yên vui của nhiều gia đình, gây xói mòn đạo lý xã hội, ảnh hưởng xấu đến sự
ổn định của một quốc gia và là tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh
HIV/AIDS phát triển.
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
việc giao lưu buôn bán quốc tế ngày càng phát triển thì tình hình mua bán,
vận chuyển, tàng trữ càng khó kiểm soát hơn, tình hình nghiện hút, tiêm chích
và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy ngày càng diễn biến phức tạp. Đối
tượng phạm tội ma túy quan hệ, móc nối với người nước ngoài, buôn bán, vận
chuyển ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam và một số nước khác.
Trước thực trạng nghiêm trọng nêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã có
nhiều chủ trương, chính sách nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này. Một
trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy là việc xử
lý các hành vi phạm tội về ma túy, nhất là tội phạm tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy. Loại tội phạm này không chỉ tăng về số lượng mà cả về đối
tượng phạm tội. Phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt;
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng lớn hơn. Đây là nguyên
nhân quan trọng làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng và phức tạp hơn,

10
đồng thời còn gây khó khăn thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong chủ
động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và phòng chống tội phạm, bảo đảm
phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi

phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy còn chưa hoàn thiện, nhất là thiếu quy phạm định
nghĩa và một số quy định liên quan các yếu tố định tội và định khung hình
phạt chưa rõ ràng nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất
trong việc nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và định tội danh đối
với tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này còn nhiều nhận định khác nhau giữa
những cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về việc định tội
danh và định khung hình phạt hoặc không phân biệt được sự khác nhau giữa
tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm về ma túy khác
trong Bộ luật hình sự năm 1999.
Từ những lý do nêu trên, việc tác giả quyết định lựa chọn đề tài nghiên
cứu "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy trong Luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu
các tội phạm về ma túy nói chung bắt đầu đã được triển khai sâu rộng và đã
thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự
và cán bộ thực tiễn. Đến nay, ở các mức độ khác nhau, trực tiếp và gián tiếp
đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố, đồng thời được thể hiện ở
một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo
trình như: GS.TSKH Lê Văn Cảm (2004), Sách chuyên khảo Sau đại học:
Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung)", Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội; Tập thể tác giả do TSKH.PGS Lê Văn Cảm (chủ biên)

11
(2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được
nghiên cứu trong một số công trình nghiên cứu của Ths. Đinh Văn Quế, Bình

luận khoa học Bộ luật hình sự, Tập IV: Các tội phạm về ma túy, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, 2006. Bên cạnh đó, còn có các bài viết của các tác giả như
TS. Nguyễn Tuyết Mai, Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của người
phạm tội về ma túy ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số 11/2006; Hoàng Ngọc
Bích, Ma túy - con đường hình thành và phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Tòa
án nhân dân số 6/1999; Phạm Gia Khiêm, Ma túy đã tiếp thêm nhiên liệu cho
một nền kinh tế phi pháp và ảnh hưởng đến an ninh xã hội, Tạp chí Phòng
chống ma túy, số 10/2000. Bên cạnh đó, còn phải kể đến một số luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự và một số báo
pháp lý hình sự có liên quan đến các tội phạm về ma túy.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy một số công trình có phạm vi
nghiên cứu rộng và chung cả nhóm tội, trong đó tội phạm tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác
giả trong các giáo trình, sách bình luận, luận văn, luận án. Việc nghiên cứu
độc lập tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chỉ được đề cập gián tiếp
qua một số tài liệu luật học hay qua một số bài viết đơn lẻ về các điểm mới và
nhận định mới trên các tạp chí. Chưa có công trình nghiên cứu nào phân tích
sâu về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là nghiên cứu độc lập và đánh giá
thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy trong thời gian từ 2005 - 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề chung
về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật hình sự Việt Nam;
phân tích và làm sáng tỏ dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép

12
chất ma túy theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn xét xử. Đề
xuất một số ý kiến hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, đồng thời đưa ra một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, luận văn làm sáng tỏ các dấu
hiệu pháp lý của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, phân biệt tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy với một số tội phạm khác, nghiên cứu lịch
sử hình thành và phát triển về tội phạm này, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội
phạm này ở nước ta trong thời gian từ năm 2005 - 2010, trên cơ sở đó chỉ ra
một số tồn tại, hạn chế trong lý luận và thực tiễn, các nguyên nhân cơ bản,
qua đó tìm giải pháp về mặt thực tiễn để góp phần phòng, chống tội phạm này.
4. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là nhằm làm rõ nội dung pháp lý của tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy, dựa trên những vấn đề lý luận và thực
tiễn xét xử ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra những ý kiến của cá nhân nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối
của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so

13
sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn;
nghiên cứu, điều tra án điển hình… để phân tích và luận chứng các vấn đề
khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài
luận văn, tác giả tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình

khoa học đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và
các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong
luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy trong khoa học luật hình sự Việt Nam.
Góp phần làm rõ các vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy trong luật hình sự Việt Nam; khái quát lịch sử hình thành và phát triển về
tội phạm này từ Các mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; phân biệt tội phạm
này với một số tội phạm khác thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội
phạm này; phân tích số liệu thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm
2005 - 2010 và nghiên cứu một số bản án hình sự của Tòa án để đánh giá, qua
đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành, các sai sót
trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra các nguyên nhân để
tìm giải pháp khắc phục, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, nghiên cứu,
học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn góp phần cung cấp những
luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp
dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội tổ chức sử dụng trái phép

14
chất ma túy, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
theo Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn xét xử, những giải pháp tiếp tục hoàn thiện các
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy và nâng cao hiệu quả áp dụng.


15
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI TỔ CHỨC SỬ
DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Luật hình sự là công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống tội
phạm nói chung cũng như tội phạm có dấu hiệu "có tổ chức" nói riêng. Trong
khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, tội phạm có dấu hiệu "có tổ chức"
được quy định gồm hai loại: Loại tội có dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu định
tội thuộc mặt khách quan của tội phạm và loại tội phạm có dấu hiệu có tổ
chức là dấu hiệu tăng nặng định khung hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, tội phạm có dấu hiệu có tổ chức được quy định là dấu hiệu
định tội thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm có hai nhóm: nhóm thứ nhất
bao gồm một số tội xâm phạm an ninh quốc gia, điển hình là tội bạo loạn
(Điều 82 Bộ luật hình sự), tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân chủ
nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự); nhóm thứ hai gồm có các tội: Tội tổ chức
tảo hôn (Điều 148), tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), tội

tổ chức đua xe trái phép (Điều 206), tội tổ chức đánh bạc (Điều 249) và tội tổ
chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275).
Đối với các tội phạm ở nhóm thứ hai (gồm các điều 148, 197, 206, 249, 275)
thì dấu hiệu có tổ chức được quy định là hành vi tổ chức việc thực hiện hành
vi phạm tội (hoặc vi phạm pháp luật) của người khác. Người phạm các tội phạm
này là người có hành vi có tổ chức cho người khác thực hiện hành vi thuộc tội
tảo hôn, tội sử dụng trái phép chất ma túy, tội đua xe trái phép, v.v… Hành vi
tổ chức có thể là hành vi lôi kéo, rủ rê, kích động hoặc là hành vi sắp đặt hoặc
tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi

16
phạm pháp luật. Điều luật không đòi hỏi hành vi tổ chức phải là hành vi do
nhiều người thực hiện. Nhưng trên thực tế vẫn có thể có trường hợp nhiều
người cùng cố ý thực hiện các tội phạm này.
Thứ hai, dấu hiệu phạm tội có tổ chức hay đồng phạm có tổ chức là
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (ở 78 điều luật trong Phần các tội
phạm cụ thể của Bộ luật hình sự) hay là tình tiết tăng nặng định khung hình
phạt (điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự). Dấu hiệu có tổ chức hay đồng
phạm có tổ chức nói ở đây là dấu hiệu phản ánh phương thức thực hiện hành
vi phạm tội (hành vi phạm tội có thể được thực hiện bằng phương thức này
hoặc không phải bằng phương thức này), còn dấu hiệu có tổ chức là dấu hiệu
định tội là dấu hiệu phản ánh chính đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội.
Trong thực tế, nhóm tội thứ hai trong hai nhóm tội thuộc loại tội có
dấu hiệu định tội là dấu hiệu tổ chức có thể được thực hiện bằng phương thức
có tổ chức. Dấu hiệu có tổ chức của trường hợp này thể hiện ở cả đặc điểm bắt
buộc của hành vi phạm tội và ở cả phương thức thực hiện hành vi phạm tội.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009-
sau đây được gọi là Bộ luật hình sự hiện hành), hành vi tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy được quy định là tội phạm có dấu hiệu "có tổ chức", đây là
đặc điểm bắt buộc của hành vi phạm tội và ở cả phương thức thực hiện hành

vi phạm tội. Người phạm tội có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện
hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc đưa trái phép chất ma túy vào cơ
thể người khác. Đây thực sự là loại tội phạm nguy hiểm, hành vi tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho ma
túy lan tràn vào đời sống xã hội một cách nhanh chóng, gây nguy hiểm cho
tính mạng, sức khỏe của con người. Hoạt động tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy thường diễn ra ở các địa điểm phức tạp, ngóc ngách, ẩn khuất, v.v để
tránh sự theo dõi của các cơ quan chức năng, như: bến xe, nhà ga, vũ trường
và nhằm vào các đối tượng thanh thiếu niên đua đòi trong các gia đình khá

17
giả. Bởi vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy hiện nay còn gặp nhiều khó khăn.
Theo Từ điển Tiếng Việt do Trung tâm từ điển học phát hành, khái
niệm "tổ chức" với chức năng từ loại là danh từ, được hiểu là tập hợp người
được tổ chức lại, hoạt động vì quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung
(như tổ chức phi chính phủ, tổ chức thương mại thế giới, v.v ). Với chức
năng động từ thì "tổ chức" được hiểu là quá trình xác định công việc cần phải
làm và những người làm các công việc đó, có quy định rõ chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn của mỗi bộ phận cá nhân cũng như mối liên hệ giữa các bộ
phận cá nhân này trong khi tiến hành công việc, nhằm thiết lập một môi
trường thuận lợi cho các hoạt động và đạt đến mục tiêu chung của tổ chức
(như tổ chức bộ máy hành chính, tổ chức đời sống, tổ chức mít tinh, v.v ).
Còn "sử dụng" là động từ có nghĩa là lấy làm phương tiện để phục vụ nhu
cầu, mục đích nào đó (như sử dụng vật liệu để làm nhà, sử dụng quyền hạn,
v.v.). Như vậy, "tổ chức sử dụng" được nêu trong Điều 197 Bộ luật hình sự
hiện hành được hiểu với ý nghĩa từ loại là động từ.
"Trái phép" là tính từ, có nghĩa là trái với pháp luật hoặc với điều
được cấp có thẩm quyền cho phép.
Cụm từ "ma túy" xuất hiện khá muộn ở nước ta và chính thức được sử

dụng lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam tại Bộ luật hình sự năm 1985 với
việc quy định tội danh: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" (Điều 203).
Hiện nay, cụm từ "ma túy" đã xuất hiện ngay trong tên gọi của các văn bản
luật như Luật Phòng, chống ma túy. Theo khoản 1 Điều 2 của Luật Phòng,
chống ma túy thì: "Chất ma túy bao gồm chất gây nghiện và chất hướng thần
được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành" [42]. Để làm rõ
hơn khái niệm này, Luật Phòng, chống ma túy cung cấp thêm định nghĩa "chất
gây nghiện" và "chất hướng thần". Theo đó, "chất gây nghiện là chất kích
thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng", và
"chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử

18
dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng" [42].
Như vậy, trong pháp luật Việt Nam, cụm từ "chất ma túy" được định nghĩa và
giải thích một cách gián tiếp qua các khái niệm "chất gây nghiện" và "chất
hướng thần".
Hiện nay, danh mục các chất ma túy và tiền chất được Chính phủ quy
định tại Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 1/10/2001, Nghị định số
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 sửa tên, bổ sung, chuyển, loại bỏ một số
chất thuộc danh mục các chất ma túy và tiền chất, ban hành kèm theo Nghị
định số 67/2001/NĐ-CP và mới nhất là Nghị định số 17/2011/NĐ-CP của
Chính phủ về việc bổ sung, sửa tên chất, tên khoa học, đối với một số chất
thuộc Danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định
163/2007/NĐ-CP ngày 12/11/2007 và Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày
01/10/2011. Ở Việt Nam, hiện tại quy định có 233 chất ma túy chia thành 03
danh mục theo mức độ độc hại và yêu cầu kiểm soát việc sử dụng các chất
này và 40 hóa chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất, điều chế ma túy.
Theo Công ước quốc tế về thống nhất các chất ma túy năm 1961, 1971, 1988
thì ma túy là bất kỳ chất liệu nào được liệt kê trong bảng I, II, III, IV của
Công ước, dù dưới dạng tự nhiên hay tổng hợp (Việt Nam đã tham gia ba

công ước này năm 1997).
Các chất ma túy có thể phân loại ra thành các nhóm như sau:
- Theo đặc tính và mức độ tác động của chất gây nghiện, ma túy được
chia thành ba nhóm: Ma túy mạnh, ma túy trung bình, ma túy nhẹ.
- Theo nguồn gốc, cách thức tạo ra chất ma túy, ma túy được chia
thành ba nhóm:
+ Ma túy tự nhiên: Các loại ma túy có nguồn gốc tự nhiên, thu được
bằng cách hái hoặc nuôi trồng như thuốc phiện (quả); lá, hoa, quả cây cần sa…;
+ Ma túy bán tổng hợp: Các chất ma túy được điều chế từ sản phẩm tự
nhiên bằng cách cho tác dụng với một số hóa chất để thu được chất ma túy có

19
tác dụng mạnh hơn chất ma túy ban đầu (Ví dụ: Hêrôin là chất ma túy bán
tổng hợp từ morphine bằng cách axetyl hóa morphine…);
+ Ma túy tổng hợp: Là các chất ma túy được điều chế bằng phương
pháp tổng hợp hóa học toàn phần từ các chất (gọi là tiền chất). Các chất ma
túy tổng hợp có tác dụng mạnh và nhanh hơn ma túy bán tổng hợp
(methadone, dolargan, methamphetamine…).
- Theo tác dụng sinh lý trên cơ thể con người, ma túy được chia thành
tám nhóm: Các chất gây êm dịu, đam mê (các chất ma túy chính gốc) gồm
thuốc phiện và các chế phẩm của thuốc phiện như morphine, hêrôin, methadone,
dolargan, v.v.; Cần sa và các sản phẩm của cần sa; Côca và các sản phẩm của
coca; Thuốc ngủ: Có tác dụng ức chế thần kinh (barbiturate, methaqualone,
mecloqualone…); Các chất an thần: Các chất thuộc dẫn xuất của
benzodiazepine, meprobamate, hydroxyzin; Các chất kích thích: Amphetamin và
các dẫn xuất của nó; Các chất gây ảo giác: LSD, mescalin, các dẫn xuất của
tryptamin, v.v.; dung môi hữu cơ và các thuốc xông.
- Theo nguồn gốc và tác động dược lý, ma túy được chia thành năm
loại: Ma túy là các chất từ cây thuốc phiện (opiates); ma túy là các chất từ cây
cần sa (cannabis); Ma túy là các chất kích thích (stimulants); ma túy là các

chất ức chế (depressants); Ma túy là các chất gây ảo giác (hallucinorens).
Việc phân chia các chất ma túy không chỉ có ý nghĩa trong công tác
nghiên cứu lý luận mà còn phục vụ đắc lực cho thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm về ma túy. Khi biết được ma túy có nguồn gốc ở đâu, đặc tính
như thế nào thì có thể truy tìm đến tận gốc nguồn, giải quyết triệt để tội phạm
và tệ nạn ma túy.
Tóm lại, để coi một chất nào đó là ma túy thì chất đó phải có các đặc
điểm là: Được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành, có nguồn
gốc tự nhiên hoặc tổng hợp; là chất độc gây nghiện; khi thâm nhập vào cơ thể
con người thì làm biến đổi một số chức năng thần kinh, làm cho người nghiện

20
phụ thuộc cả về thể xác lẫn tinh thần. Nói một cách khác, có thể quan niệm
ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ
thể con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của
người đó. Nếu lạm dụng ma túy, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn
thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng.
Tuy nhiên, việc đưa ra một định nghĩa về ma túy hay chất ma túy chỉ
có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học về chất ma túy chứ không có ý
nghĩa đối với việc xác định chất ma túy. Khi cần xác định một chất có phải là
ma túy hay không phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng
lượng chất ma túy, tiền chất và căn cứ vào Danh mục các chất ma túy quy
định tại Nghị định số 67/NĐ-CP của Chính phủ và Nghị định số 163/NĐ-CP
của Chính phủ.
Hiện nay ở Việt Nam thường gặp một số chất ma túy là:
- Thuốc phiện: Thuốc phiện là nhựa từ cây thuốc phiện, có mùi đặc
trưng hơi hăng hắc, màu nâu đen hoặc cánh gián, dẻo hoặc nhão. Thuốc phiện
đã nấu chín có màu đen, rắn chắc hơn (3kg thuốc phiện sống sẽ cho khoảng
1kg thuốc phiện chín). Trong thành phần thuốc phiện có khoảng 40 ancaloit
và 5 chất cơ bản là morphine, codeine, thebaine, papaverine và natotin. Thuốc

phiện gây nghiện nhanh và mạnh.
- Morphine: Là chất ma túy dạng bột màu trắng. Từ nhựa thuốc phiện
người ta chế xuất morphine (cứ khoảng 10kg thuốc phiện thì thu được khoảng
1kg morphine bazơ, từ đó có thể thu được 1kg morphine). Morphine có tác
dụng gây nghiện cao.
- Hêrôin: Là loại ma túy độc hại phổ biến nhất ở nước ta hiện nay.
Hêrôin là chế phẩm được bán tổng hợp từ morphine, cứ khoảng 1kg morphine
thì điều chế được 800 đến 950g hêrôin. Hêrôin có khả năng gây nghiện rất
nhanh, người nghiện bị suy sụp nhanh chóng cả về thể xác lẫn tinh thần. Một
liều khoảng 0,06g có thể gây chết người ngay sau khi tiêm.

21
- Nhựa cần sa: Từ các bộ phận lá, hoa, quả cây cần sa người ta chiết
xuất ra nhựa cần sa. Các hoạt chất của cây cần sa gây cho người sử dụng cảm
giác hưng phấn, sảng khoái, song tác dụng nguy hiểm nhất của cần sa là gây
ảo giác làm sai lệch tinh thần.
- Côcain: Từ lá cây côca người ta điều chế được cao côca và côcain.
Côcain có khả năng gây tê, độc và gây nghiện.
- Amphetamine: Là chất ma túy gây kích thích mạnh hệ thần kinh
trung ương, làm tăng sự co bóp của tim, co mạch máu ngoại biên, tăng huyết
áp. Với liều vừa phải, amphetamine có tác dụng làm tăng khả năng lao động
trí óc, giảm buồn ngủ, tăng sức lực. Với liều cao, amphetamine gây nghiện
nguy hiểm.
- Methamphetamine: Gây kích mạnh hệ thần kinh trung ương, là chất
có độc tính và khả năng gây nghiện mạnh, gây chứng hoang tưởng.
- Methadone: Là chất ma túy giảm đau mạnh gấp năm lần morphine,
thường thấy dạng viên con nhộng 5mg hoặc ống 5mg hoặc 10mg.
- Methoqualone: Là chất ma túy an thần gây ngủ, màu trắng dạng viên
nén 200mg.
- LSD: Là chất gây nghiện tạo ảo giác mạnh, làm cho người dùng mất

cảm giác sợ hãi, làm những việc mà lúc bình thường không dám làm (như
nhảy từ trên cao xuống, chạy trên mặt tường cao…).
- MDMA (estasy): Là một dạng ma túy tổng hợp có tác dụng kích
thích thần kinh. Estasy tăng hưng phấn của hoạt động thần kinh, vì vậy tăng
cường độ vận động cơ thể. Người sử dụng estasy cảm thấy cơ thể sung mãn, sẵn
sàng làm mọi việc nặng nhọc, nguy hiểm, vận động suốt đêm mà không mệt.
Việc nêu khái niệm chất ma túy có ý nghĩa quan trọng và phù hợp với
yêu cầu đấu tranh với tệ nạn ma túy của đất nước. Ở nước ta, mọi cá nhân, gia
đình, tổ chức được yêu cầu tham gia vào phòng, chống ma túy. Để đông đảo

22
nhân dân tích cực tham gia vào công việc này, họ cần có những khái niệm cơ
bản về chất ma túy và tác hại của nó. Bởi vậy, khái niệm chung về "chất ma
túy" tỏ ra có hiệu quả và phù hợp hơn trong bối cảnh nước ta. Pháp luật Việt
Nam đã thành công ở khía cạnh đơn giản hóa danh mục các chất bị kiểm soát,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng trên thực tế.
Nghiên cứu cho thấy, luật hình sự của Việt Nam không quy định về
khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Trong khoa học luật hình
sự của Việt Nam hiện nay, mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về định
nghĩa khái niệm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, song tựu trung lại
các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra nội dung và bản chất pháp
lý của tội phạm này.
Có quan điểm cho rằng: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành
vi chủ động tụ tập và tạo những điều kiện cần thiết để có thể tiến hành được
việc sử dụng chất ma túy (đưa chất ma túy vào cơ thể người khác)" [24, tr. 505].
Quan điểm này có điểm hợp lý là phù hợp với các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam, nhưng dưới góc độ khoa học trong khái niệm đã nêu vẫn chưa
đưa ra được dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Quan điểm khác lại cho rằng: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
là hành vi giúp người khác sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình

thức nào" [37, tr. 187]. Quan điểm này mới chỉ nêu một cách khái quát chung về
hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy chứ chưa làm rõ khái niệm tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy. Hơn nữa, hành vi phạm tội khác tội phạm.
Có quan điểm nêu được tương đối đầy đủ các biểu hiện của hành vi tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy và tính chất lỗi, song vẫn chưa nêu được
dấu hiệu chủ thể của tội phạm này, theo đó:
Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi của người
luôn luôn cố ý, chủ động trong việc thực hiện lập các ổ nhóm sử
dụng trái phép chất ma túy cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho

23
việc sử dụng trái phép ma túy mà không phải là các hành vi lôi kéo,
cưỡng bức hay chứa chấp thuộc Điều 185m và Điều 185k Bộ luật
hình sự năm 1985 [11, tr. 4].
Tuy nhiên hiện nay, các nhà khoa học hình sự đã đưa ra định nghĩa
khoa học đầy đủ nhất về tội phạm, là cơ sở để đưa ra khái niệm của từng loại
tội phạm cụ thể khác nhau như sau: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, trái pháp luật hình sự (tức là hành vi bị luật hình sự cấm), do người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách có lỗi (cố ý hoặc vô ý)" [9, tr. 297]. Bởi vậy, khái niệm tội tổ chức
sử dụng trái phép chất ma túy không chỉ đáp ứng bốn tiêu chí (chặt chẽ, chính
xác, ngắn gọn, đầy đủ) mà còn phải thể hiện được đầy đủ cả ba bình diện
(bình diện khách quan, bình diện pháp lý, bình diện chủ quan) tương ứng với
năm đặc điểm cơ bản trên của tội phạm.
Tại Thông tư số 17/2007/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA ban
hành ngày 24/12/2007 tại khoản 6, mục II đã quy định: Tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây: Chỉ huy, phân công, điều
hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; Chỉ huy,
phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương
tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng

trái phép chất ma túy .
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm khác nhau trên đây
và căn cứ vào các quy định về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong
pháp luật hình sự Việt Nam, có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm
tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy như sau: Tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy là hành vi cố ý của một hoặc nhiều người trở lên, có năng lực
trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, bao gồm:
chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào
cơ thể người khác hoặc chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung

24
cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái
phép chất ma túy, tìm người sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép
chất ma túy vào cơ thể người khác một cách thuận lợi.
Từ khái niệm nêu trên, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy như sau:
Một là, tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nằm trong nhóm tội
phạm về ma túy, do đó, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy xâm
phạm đến chế độ độc quyền quản lý và sử dụng các chất ma túy của Nhà nước
ở tất cả các khâu của quá trình quản lý. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm
hại đến các quan hệ xã hội khác như: ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe
cộng đồng và lan tràn tệ nạn nghiện hút ma túy, ảnh hưởng đến trật tự an toàn
xã hội.
Hai là, hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi chỉ
huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể
người khác hoặc chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất
ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ, dùng vào việc sử dụng trái phép chất
ma túy, tìm người sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy
vào cơ thể người khác một cách thuận lợi.
Ba là, tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy do người có đủ năng

lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bằng lỗi
cố ý trực tiếp.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy trong Luật Hình sự Việt Nam
Việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong luật
hình sự của Việt Nam có ý nghĩa quan trọng dưới các góc độ chính sau đây:
Thứ nhất, dưới góc độ chính trị - xã hội, đã góp phần cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp về việc bảo vệ chế độ độc quyền quản lý, sử dụng các chất

25
ma túy của Nhà nước, bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, an ninh trật tự an
toàn xã hội vào Bộ luật hình sự. Điều 61 Hiến pháp 1992 quy định: "… Nghiêm
cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện
và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa bệnh xã hội nguy hiểm " [40]. Như vậy, việc bảo vệ chế độ độc quyền
quản lý và sử dụng ma túy của Nhà nước đã được Hiến pháp xác lập, ghi nhận
và được pháp luật hình sự bảo vệ. Những quy định trong Chương XVIII -
"Các tội phạm về ma túy" của Bộ luật hình sự nói chung, Điều 197 về "Tội tổ
chức sử dụng trái phép chất ma túy" nói riêng đã thể hiện thái độ kiên quyết
đấu tranh chống các tội phạm về ma túy và tội phạm tổ chức sử dụng trái phép
chất ma túy của Đảng và Nhà nước ta. Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2009) là văn bản pháp lý hiện hành và có vị trí đặc biệt quan
trọng trong hệ thống pháp luật, là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu
của Nhà nước ta để bảo vệ sự nghiệp cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như bảo đảm hiệu lực quản lý
của Nhà nước đối với xã hội, tiến tới mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
Thứ hai, về mặt lý luận, là cơ sở pháp lý hình sự đầy đủ và thống nhất
để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có căn cứ để tiến
hành điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma

túy đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Thứ ba, việc quy định tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với
các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt tương ứng với các mức độ phạm
tội khác nhau không những chỉ trừng trị và giáo dục chính bản thân người
phạm tội không phạm tội mới mà còn có mục đích răn đe, giáo dục đối với
các thành viên khác trong xã hội nhất là đối với những công dân không vững
vàng, dễ bị lôi kéo; qua đó bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức tuân
thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội phạm tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy.

26
Hiện nay, do tính chất siêu lợi nhuận nên các tội phạm sản xuất, vận
chuyển, tàng trữ, mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đang ngày
càng gia tăng và được thực hiện một cách tinh vi, quyết liệt hơn, số người
nghiện hút có xu hướng tăng lên, tỷ lệ tái nghiện ngày càng cao. Bởi vậy,
trước tình hình trên, việc quy định tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma
túy trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH
TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 cho đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình khai sinh
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Nhà
nước non trẻ của chúng ta đã phải đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc",
vừa phải đối phó với giặc đói, giặc dốt, vừa phải tập trung sức người, sức của
cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời Đảng và
Chính phủ cũng rất quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật nhằm ổn định
tình hình chính trị đất nước. Đặc biệt là việc ngăn chặn thuốc phiện, giải quyết

hậu quả nặng nề do chính sách cai trị của thực dân Pháp gây ra với chủ trương
xóa bỏ triệt để việc sử dụng thuốc phiện. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp Chính
phủ bàn về "Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện.
Tiếp sau đó, ngày 5/3/1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ
quản lý thuốc phiện. Điều 1, 2, 3, 4 của Nghị định quy định khoanh vùng
trồng cây thuốc phiện. Người trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế
bằng hiện vật là một phần ba số thuốc phiện nhựa, phần còn lại phải bán toàn

×