Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

kiểm tra tính kháng nguyên của protein nucleocapsid phục vụ việc tạo kit chẩn đoán hội chứng rồi loạn sinh sản và hô hấp ở lợn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

NGUYỄN THỊ KHÁNH LY

KIỂM TRA TÍNH KHÁNG NGUYÊN CỦA PROTEIN
NUCLEOCAPSID PHỤC VỤ VIỆC TẠO KIT CHẨN ĐOÁN
HỘI CHỨNG RỒI LOẠN SINH SẢN VÀ HÔ HẤP Ở LỢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
-------

-------

NGUYỄN THỊ KHÁNH LY


KIỂM TRA TÍNH KHÁNG NGUYÊN CỦA PROTEIN
NUCLEOCAPSID PHỤC VỤ VIỆC TẠO KIT CHẨN ĐOÁN
HỘI CHỨNG RỒI LOẠN SINH SẢN VÀ HÔ HẤP Ở LỢN

CHUYÊN NGÀNH

: CÔNG NGHỆ SINH HỌC

MÃ SỐ

: 60.42.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ MINH HUYỀN
TS. NGUYỄN HỮU ĐỨC

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu và kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Khánh Ly

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Minh Huyền
Phòng Công nghệ Tế bào động vật, Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa
học và Công nghệ Việt Nam và TS. Nguyễn Hữu Đức Phó trưởng Khoa Công
nghệ sinh học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình chỉ bảo cho tôi trong
suốt quá trình làm luận văn.
Với tình cảm sâu sắc tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Lê Quang Huấn
Trưởng phòng Công nghệ Tế bào động Vật, Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam cùng toàn thể cán bộ nghiên cứu trong phòng đã
tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn các Thầy, Cô trong khoa Công nghệ sinh học, Trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội đã truyền đạt cho tôi kiến thức trong quá trình học tập.
Để thực hiện được nghiên cứu này, tôi xin chân thành cảm ơn sự tài trợ từ đề
tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam hướng Công nghệ sinh học
với mã số đề tài VAST02.02/12-13.
Để hoàn thành luận văn này, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban lãnh
đạo, tập thể cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ, nơi tôi công tác.
Cuối cùng, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đã
luôn quan tâm, cổ vũ cho tôi vững bước trên con đường học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 8 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Khánh Ly

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page ii


MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

v

Danh mục bảng

vi

Danh mục hình

vii

ĐẶT VẤN ĐỀ


1

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

3

1.1

Giới thiệu chung về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn

3

1.1.1

Triệu chứng lâm sàng

3

1.1.2

Bệnh tích và phương thức lây truyền

3

1.1.3

Tình hình nghiên cứu về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
trên thế giới


1.1.4

4

Tình hình nghiên cứu về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
tại Việt Nam

9

1.2

Giới thiệu chung về virus PRRS

17

1.2.1

Hình thái, cấu tạo phân tử virion của PRRSV

18

1.2.2

Cấu trúc genome của PRRSV

18

1.2.3

Sự đa dạng trong các chủng virus PRRS lưu hành trên thế giới


19

1.2.4

Protein Nucleocapsid

21

1.3

Các phương pháp chẩn đoán bệnh

22

1.3.1

Chẩn đoán lâm sàng

22

1.3.2

Phương pháp chẩn đoán dựa trên kháng nguyên- kháng thể

22

1.3.3

Phương pháp RT-PCR


25

2.3.4

Phương pháp chẩn đoán nhanh dưới dạng que thử

25

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii


Chương 2 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

27

2.1

Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu

27

2.1.1

Vật liệu nghiên cứu

27


2.1.2

Địa điểm nghiên cứu

27

2.1.3

Thời gian nghiên cứu

27

2.2

Phương pháp nghiên cứu

27

1.2.1

Phương pháp điện di protein (Laemmli, 1970)

27

2.2.2

Phương pháp ELISA

28


2.2.3

Phương pháp Dot - Blot

30

2.2.4

Gây miễn dịch trên chuột thuần chủng BALB/c

31

2.2.5

Phương pháp Western blot

31

2.2.6

Phương pháp tạo kit chẩn đoán dạng que thử

32

Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

34

3.1


Kết quả kiểm tra tính kháng nguyên của protein nucleocapsid

34

3.1.1

Kết quả tinh sạch của protein N tái tổ hợp

34

3.1.2

Kết quả kiểm tra hoạt tính của kháng nguyên protein N tái tổ hợp

37

3.1.3

Kết quả kiểm tra hoạt tính của protein N bằng cách gây miễn dịch trên
chuột nhắt trắng dòng BALB/c

40

3.2

Kết quả thử nghiệm tạo que chẩn đoán bệnh

46

3.3


Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn bằng que thử

48

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

54

1

Kết luận

54

2

Kiến nghị

54

TÀI LIỆU THAM KHẢO

55

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iv



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ARN

Ribonucleic Acid

ATP

Adenosine triphosphate

BSA

Bovine Serum Albumin

bp

Base pair (cặp base nitơ)

dNTP

Deoxyribonucleotide

DBB

Denaturing binding buffer

DNA

Deoxyribo – Nucleic Acid

DWB


Denaturing wash buffer

ELISA

Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay

EDTA

Ethylendiamin Tetraacetic Acid

EtBr

Ethidium Bromide

HRP

Horse Radish Peroxidase

IPMA

Immunoperoxidase Monolayer Assay

IPTG

Isopropyl β- D- 1- Thiogalactopyranoside

kDa

Kilo Dalton


LB

Luria Broth

MVL

Modified live virus

MBP

Maltose Binding Protein

OD

Optical Density

ORF

Open Reading Frame

PCR

Polymerase Chain Reaction

PRRS

Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome

PVDF


Polyvinylidene fluoride

TBS

Tris-buffered saline

TAE

Tris acetic acid- EDTA

TE

Tris EDTA

TRX

Thioredoxin

TMB

3,3’,5,5’- Tetramethylbenzidine

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page v


DANH MỤC BẢNG


STT

Tên bảng

Trang

2.1

Thành phần gel phân tách:

28

2.2

Thành phần gel cô

28

3.1

Kết quả kiểm tra hoạt tính kháng nguyên protein N bằng phương
pháp ELISA

3.2

38

Giá trị OD của mẫu huyết thanh chuột ở các nồng độ pha loãng
khác nhau


3.3

Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn bằng phương pháp
ELISA và que thử

3.4

42
52

So sánh kết quả kiểm tra các mẫu huyết thanh lợn bằng phương

pháp ELISA và que thử

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

52

Page vi


DANH MỤC HÌNH

STT

Tên hình

Trang

1.1


Cấu tạo phân tử virion của PRRSV

18

1.2

Sơ đồ hệ gen của virus PRRS

19

1.3.

Cấu trúc que chẩn đoán

26

2.1

Sơ đồ phản ứng ELISA

29

2.3

Bố trí các thành phần trên que thử

32

3.1


Kết quả tinh sạch protein N tái tổ hợp

35

3.2

Kết quả cắt protein MBP-protein N bằng enzyme Thrombin

37

3.3

Kết quả kiểm tra hoạt tính kháng nguyên protein N bằng phương pháp
ELISA

3.4

38

Kết quả kiểm tra hoạt tính của kháng nguyên bằng phương pháp
Dotblot

39

3.5

Chuột nhắt trắng dòng BALB/c sau khi gây miễn dịch

41


3.6

Kiểm tra hiệu giá kháng thể ở các nồng độ pha loãng khác nhau

43

3.7

Hoạt độ kháng thể kháng protein N của kháng huyết thanh thu từ
chuột được gây miễn dịch

43

3.8

Hình ảnh điện di protein trước khi làm Western blot

44

3.9

Kết quả western blot với mẫu huyết thanh chuột được gây miễn dịch

3.10

bằng kháng nguyên N

45


Que thử chẩn đoán bệnh PRRS

46

3.11(a) Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn

48

3.11 (b) Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn

49

3.11 (c ) Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn

49

3.11(d) Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn

50

3.11 (e) Kết quả kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn

50

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page vii


ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh tai xanh hay còn gọi là hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
(PRRS) là một bệnh truyền nhiễm, lây lan nhanh, làm ốm và chết nhiều lợn bệnh.
Trong những năm qua ngành chăn nuôi nước ta cũng như các nước khác trên thế
giới vẫn sống chung với loại bệnh này. Tuy nhiên, gần đây tại Trung Quốc xuất
hiện dịch lớn gây chết hàng loạt trên lợn nuôi. Từ Trung Quốc, tác nhân này lây lan
sang nhiều nước trong đó có Việt Nam và cũng đã gây thiệt hại rất lớn trên diện
rộng. Bệnh do một loại virus có tên Porcine Reproductive and Respiratory
Syndrome (PRRS) gây ra. Loại virus này làm giảm chức năng miễn dịch, tạo điều
kiện cho các loại mầm bệnh khác xâm nhập gây bệnh kế phát ở hệ hô hấp, trong đó
có chứng liên cầu- một bệnh nguy hiểm có thể lây cho người và dễ dẫn đến tử vong.
Do đó, vấn đề là phải tìm ra một phương pháp chẩn đoán nhanh chóng, chính xác
các tác nhân gây bệnh để kịp thời phòng ngừa. Chẩn đoán chính xác sự lây nhiễm
và tiêm vaccine phòng dịch bệnh có ý nghĩa to lớn trong việc kiểm soát tới thanh
toán được dịch bệnh nguy hiểm này.
Trong ba loại protein cấu trúc chính của virus PRRS thì protein
nucleocapside (protein N) quy định bởi ORF7 hiện diện với số lượng lớn nhất trong
phân tử virion của PRRS và huyết thanh lợn bị nhiễm PRRSV phản ứng mạnh với
protein N. Ngoài ra các kit ELISA thương mại cũng sử dụng để phát hiện kháng thể
kháng protein N. Chính vì thế sản xuất protein N tái tổ hợp có hoạt tính kháng
nguyên tương tự như protein N của virus mang tính ứng dụng cao dùng làm vật liệu
trong các kit chẩn đoán.
Hiện nay, việc chẩn đoán sớm hội chứng PRRS thường sử dụng Kit ELISA
HerdChek 2XR (IDEXX) của Mỹ, đây được coi là tiêu chuẩn vàng để phát hiện
kháng thể kháng virus PRRS do có độ nhạy cao và đặc hiệu. Phương pháp này có
thể phát hiện được kháng thể kháng virus PRRS trên lợn sau 9 ngày nhiễm, tuy
nhiên Kit ELISA này có giá thành khá đắt, tốn nhiều thời gian thực hiện. Gần đây,
phương pháp chẩn đoán nhanh dạng que thử trên nguyên lý của phương pháp sắc
ký miễn dịch được quan tâm, do đây là một phương pháp chẩn đoán nhanh, nhạy,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 1


có tính đặc hiệu cao và có thể chẩn đoán ngay ở bất kỳ điều kiện nào. Ở nước ta,
hiện chưa có các nghiên cứu sản xuất que thử chẩn đoán nhanh cho bệnh PRRS
tương tự. Vì vậy với mong muốn tạo được que chẩn đoán nhanh với giá thành phù
hợp ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành đề tài:
“Kiểm tra tính kháng nguyên của protein nucleocapsid phục vụ việc tạo kit
chẩn đoán hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn”
Mục tiêu
- Đánh giá được hoạt tính sinh học của kháng nguyên.
Nội dung
- Kiểm tra tính kháng nguyên của protein nucleocapsid.
- Thử nghiệm tạo kit chẩn đoán bệnh bằng que thử.
- Kiểm tra một số mẫu huyết thanh lợn bằng que thử.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu chung về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn
1.1.1. Triệu chứng lâm sàng
Căn cứ vào các biểu hiện của lợn bị bệnh, người ta có thể chia thành hai loại
triệu chứng: các triệu chứng rối loạn sinh sản ở lợn nái và các triệu chứng hô hấp.
Các triệu chứng rối loạn sinh sản ở lợn nái bao gồm: lợn nái bị sốt 39 – 40oC, bỏ ăn,
mệt mỏi, giảm tỷ lệ thụ thai và số con đẻ ra, sảy thai (tỷ lệ này có thể đến 50% trong
các đàn mới bị nhiễm virus), giảm tiết sữa hoặc mất hoàn toàn, chết thai, đẻ non,
chậm động dục hoặc không động dục trở lại, rối loại sinh sản có thể kéo dài đến vài

tháng. Biểu hiện các triệu chứng hô hấp bao gồm: loạn hô hấp, lợn biểu hiện đau
khi thở, hắt hơi, tăng tần số hô hấp, thở khó, thở đứt quãng. Khi bị nhiễm virus
PRRS lợn con có tỷ lệ chết trước cai sữa cao, gầy yếu, bỏ ăn phù mắt, các nốt phồng
rộp trên da, ỉa chảy, đi không vững và run, đứng choãi chân. Lợn trưởng thành có
biểu hiện sốt nhẹ, bỏ ăn, các triệu chứng khác nhẹ hơn. Lợn đực giống có các biểu
hiện giảm hưng phấn, giảm thể tích và chất lượng tinh dịch (hình thái, hoạt lực và
nồng độ tinh trùng)(Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
1.1.2. Bệnh tích và phương thức lây truyền
Đối với lợn nái, ngoài các triệu chứng sảy thai, tăng tỷ lệ thai chết, lợn mắc
bệnh thường không có các bệnh tích đặc thù. Đối với lợn con thường mang các
bệnh tích rõ hơn lợn trưởng thành và lợn nái bao gồm: dịch thẩm thấu trong đường
tiêu hóa và đường hô hấp đặc biệt trong các phế quản, phù, thanh dịch trong xoang
phúc mạc, xoang ngực, xoang phế mạc, sưng hạch bạch huyết, da nhiều vùng có
màu xanh tím (Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
Virus thường xâm nhiễm thông qua đường hô hấp và xâm nhập vào tế bào
đại thực bào của phế nang phổi rồi nhân lên ở đó, chúng kích thích tạo đáp ứng
interferon rất ít trước khi phát tán bên trong vật chủ. Virus PRRS thích hợp với một
loại tế bào chuyên biệt với các đại thực bào đã biệt hóa như đại thực bào túi phôi.
Tuy nhiên cơ chế chính xác của tế bào đích và thông tin của thụ thể chuyên biệt cho
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 3


virus PRRS cho đến nay vẫn chưa được hiểu tường tận. Một số thụ thể tế bào tiếp
nhận PRRS đã được công bố, trong đó bao gồm thụ thể CD163 có nhiều trên các đại
thực bào như là PAM (Nguyễn Ngọc Hải, 2007).
Trong suốt quá trình xâm nhiễm, PRRSV tạo hội chứng bệnh rối loạn sinh sản
và hô hấp. Virus cũng có thể truyền qua tinh dịch và đường từ mẹ sang con và có thể
gây tử vong với tỷ lệ khá cao. PRRSV có thể tồn tại trong cơ thể lợn, lợn bị xâm nhiễm

có thể phục hồi, khỏi bệnh nhưng vẫn chứa virus trong thời gian dài và lây bệnh cho
các con lợn chưa bị nhiễm bệnh khác qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tiếp xúc giữa lợn ốm và lợn khỏe là đường lây chính của bệnh nên bệnh có
thể lây giữa các cá thể trong một đàn hay từ đàn này sang đàn khác Lợn mang virus
có thể giải phóng virus trong thời gian 3-4 tháng gây khó khăn cho công tác theo
dõi và phát hiện khống chế bệnh. Tinh dịch lợn mang tinh trùng cũng có khả năng
nhiễm virus vì vậy bệnh có thể truyền qua đường sinh dục. Virus PRRS có trong
dịch mũi, nước bọt, tinh dịch, phân và nước tiểu của lợn bệnh có thể phát tán theo
gió, không khí (xa trên 3km), nước hoặc dụng cụ bảo hộ lao động, dụng cụ chăn
nuôi và chim hoang truyền dẫn…
Virus có mặt trong hạch lâm ba, phổi với số lượng lớn hơn nhiều trong thịt
và có khả năng giữ được độc lực trong điều kiện lạnh. Tuy vậy, khả năng truyền
bệnh do cho ăn các phụ phẩm trong quá trình giết mổ các gia súc mắc bệnh chưa
được xác định. Tuy nhiên, tốt hơn hết nên cách ly toàn bộ đàn lợn có nguy cơ với
mọi loại nguồn bệnh và không cho ăn nội tạng từ lợn nghi mắc bệnh (Nguyễn Ngọc
Hải, 2007).
1.1.3 Tình hình nghiên cứu về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn trên
thế giới
Virus gây bệnh lợn tai xanh được biết đến vào cuối những năm 1980 ở Mỹ
và Châu Âu, từ đó lan rộng khắp thế giới. Thời kỳ này người ta đã công bố một loại
bệnh gây ra viêm phổi, chậm phát triển, gây chết trên những con lợn đang sinh
trưởng và lợn con, mất khả năng sinh sản ở lợn nái.
Tại Trung Quốc, một căn bệnh bí hiểm đã xảy ra còn được gọi là bệnh sốt
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 4


cao vào năm 2006 và người ta thấy có dấu hiệu của PRRS. Căn bệnh này đã lan
rộng ra hơn 10 tỉnh và tấn công 2.000.000 lợn, gây chết 400.000 lợn. Không giống

với PRRS điển hình, căn bệnh bí hiểm này xảy ra nhiều trên lợn lớn với dấu hiệu
sốt cao, và một số triệu chứng như dịch tả lợn. Khi phân tích hệ gen, người ta thấy
các virus PRRS phân lập được thuộc nhóm II và tương đồng rất cao với chủng HB1, một chủng PRRS của Trung Quốc (96,5%).
Năm 2007, dịch PRRS xảy ra tại Trung Quốc làm chết gần 70.000 con lợn và
buộc nước này phải tiêu hủy khoảng 200.000 lợn nghi bệnh tạo nên cơn sốt giá trên
thị trường thịt lên đến 74,6%. Người ta cho rằng virus gây bệnh PRRS tại nước này
là chủng Châu Mỹ độc lực cao. Chủng virus này sau đó cũng lây lan sang nhiều
nước trên thế giới gây khó khăn phức tạp trong quá trình chẩn đoán, phân biệt giữa
chủng thường và chủng độc lực cao này.
Benfield (1992) đã mô tả, đặt tên cho virus gây bệnh ở Bắc Mỹ là VR- 2332
và đưa ra đặc tính của PRRSV như sức đề kháng của PRRSV. Tác giả khẳng định
PRRSV thích hợp ở pH từ 6,5- 7,5.
Benfield (1992); Saito (1996) đã khẳng định virus gây PRRS có quan hệ họ
hàng gần với virus viêm động mạch ngựa, virus tăng enzyme lactate dehydrogenase ở
chuột, virus gây sốt xuất huyết ở khỉ. Cũng như đưa ra những đặc tính quan trọng của
họ Arteriviridae, bộ Nidovirales.
Damrongwatanapokin S và cs. (1996) lần đầu tiên đã phân lập được PRRSV.
Tuy nhiên, có một số nghiên cứu đã khẳng định PRRS lần đầu tiên xuất hiện ở nước
này vào năm 1989. Nguồn gốc PRRS tại Thái Lan là do việc sử dụng tinh lợn nhập
nội đã bị nhiễm virus PRRS hoặc là do các đàn nhập nội mang virus PRRS.
Vezina và cs (1996), Yoon và cs. (1995) đã nghiên cứu về quá trình đáp ứng
miễn dịch của lợn khi cơ thể lợn nhiễm PRRS. Các tác giả đã khẳng định kháng thể
IgM xuất hiện vào ngày thứ 7 và ngày thứ 14 IgG xuất hiện sau khi nhiễm PRRS.
Kháng thể trung hoà xuất hiện vào 4-5 tuần sau nhiễm PRRSV và đạt tối đa vào lúc
10 tuần, miễn dịch kéo dài khoảng 1 năm.
Mengeling và cs. (1996), Mengeling và cs. (1998) nghiên cứu về vaccine
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 5



chống lại PRRSV. Khẳng định virus vaccine kích thích đáp ứng miễn dịch chậm,
virus vaccine có thể truyền qua nhau thai, truyền từ con được tiêm vaccine sang con
không tiêm vaccine. Một số vaccine đã được thương mại hóa nhưng mỗi loại đều có
ưu và nhược điểm, điều quan trọng nhất là sử dụng đúng loại vaccine tùy theo
chủng PRRSV lưu hành. Hiện nay vẫn chưa có khả năng phân biệt kháng thể do
vaccine và kháng thể do virus từ môi trường.
Amonsnin và cs. (2009) đã phân tích trình tự nucleotide toàn bộ hệ gen của
chủng PRRSV thu từ đợt dịch bệnh năm 2001 tại Thái Lan. Kết quả cho thấy kích
thước phân tử của hệ gen chủng PRRSV dòng châu Âu (EU) và dòng Bắc Mỹ (NA)
tương ứng là 14934 và 15412 nucleotide. Cũng giống như các nhà nghiên cứu trước
đây về cấu trúc hệ gen PRRSV, hệ gen của virus PRRS Thái bao gồm: 2 vùng
không phiên mã (đầu 5’- và đuôi 3’-), 8 ORF, trong đó 2 gen không cấu trúc là
ORF1a và ORF1b (Nsp – Nonstructure protein) và ORF2 – 7 là các gen mã hoá
protein cấu trúc. Dựa trên trình tự hệ gen, cây phả hệ di truyền cho thấy trong 2
chủng PRRSV thì một thuộc về dòng châu Âu và một thuộc về dòng Bắc Mỹ. So
sánh trình tự toàn bộ hệ gen của 2 chủng virus PRRS phân lập tại Thái Lan với các
chủng có nguồn gốc châu Âu, Bắc Mỹ cung cấp thông tin quý giá cho việc đánh giá
mức độ biến đổi di truyền và tiến hoá phân tử của các chủng này, cụ thể là: chủng
virus 0INPI được cho là có nguồn gốc từ vaccine nhưng tại thời điểm năm 2001 thì
vaccine US – MVL (Modified Live Virus) chưa có mặt tại thị trường Thái Lan, vì
thế lý do của việc lưu hành chủng vi rút 0INP1 có thể là do sự có mặt của PRRSV
trong lợn giống hoặc tinh trùng nhập khẩu từ Mỹ.
Zimmermen và cs. (1999) đã nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc về
Hội chứng hô hấp và sinh sản ở lợn. Các tác giả đã giải thích về nguồn gốc tên
gọi PRRS, cũng như cung cấp cho độc giả một bảng danh sách tên gọi trước khi
có tên PRRS.
Từ năm 2000 đến 2003, R. Thanawongnuwech và cs đã tiến hành một
nghiên cứu quy mô rộng lớn tại Thái Lan và đưa ra kết quả PRRSV từ 137 mẫu
phân lập từ nhiều điạ phương thuộc nước này gồm cả chủng dòng Châu Âu và

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 6


dòng Bắc Mỹ. Trong đó, virus thuộc chủng dòng Bắc Mỹ chiếm 33,58%, dòng
Châu Âu chiếm 66,42%.
Indik và cs. (2005) đã đưa ra bằng chứng về sự có mặt của chủng PRRSV
dòng Bắc Mỹ ở Áo ở mức độ phân tử. Không giống như nhiều nước khác, chủng
vaccine dòng Bắc Mỹ chưa được phép nhập vào Áo, vì thế lý do duy nhất để giải
thích sự có mặt của chủng virus PRRS dòng Bắc Mỹ ở Áo là do việc nhập lợn đã
được tiêm vaccine chủng virus Bắc Mỹ. Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng
của các phân tích chi tiết trình tự gen của các biến thể di truyền virus PRRS đang
lưu hành ở từng khu vực.
Jun Han và cs. (2006) đã khẳng định về mặt di truyền học và tính kháng
nguyên hai loại virus Lelystad và VR- 2332 hoàn toàn khác nhau, nếu chúng xuất
phát từ một tổ tiên thì chúng được tiến hoá theo hai hướng khác nhau. Hai virus này
đã trở thành hai dòng virus nguyên mẫu, dòng Châu Âu (virus Lelystad) và dòng
Bắc Mỹ (VR2332).
Pesente và cs. (2006) đã nhận xét trình tự nucleotide ORF5 và ORF7 của
chủng virus PRRS phân lập tại các trại lợn ở miền bắc Italia cung cấp các thông tin
giá trị cho việc đánh giá dịch tễ học và phát tán virus. Kết quả so sánh trình tự
nucleotide các dòng virus PRRS đại diện đang lưu hành cho thấy đa hình di truyền
lớn trong trình tự ORF5 và ORF7, và cây phả hệ di truyền cũng bộc lộ khác biệt di
truyền lớn giữa các chủng virus nghiên cứu . Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
trước đây của Stadejek và cs vào năm 2002 khi phân tích các vùng biến đổi trong
trình tự axit amin của ORF5 và ORF7.
Gonin và cs. (2009) đã giải trình tự nucleotide GP5 của virus PPRS phân lập
tại Hàn Quốc năm 2007 – 2008. Kết quả cho thấy sự khác biệt di truyền tương đối
cao (1,3 – 12,9%) giữa chủng virus đang lưu hành so với chủng virus cải vaccine

(Modified live virus). Cây phân loại di truyền cũng cho thấy biến đổi di truyền giữa
các chủng tăng theo thời gian từ 1997 – 2008. Vì thế tác giả khuyến cáo cần có đề
xuất trong việc lựa chọn loại vaccine thích hợp hơn nhằm khống chế bệnh PRRS
hiệu quả mặc dù chủng vaccine đang sử dụng đã và vẫn có tác dụng tốt trong việc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 7


làm giảm các tín hiệu lâm sàng của bệnh cũng như cải thiện giá trị tăng trọng trung
bình ngày của đàn lợn tại các trại nhiễm PRRSV.
Shi và cs. (2010) đã dựa trên sự phân tích di truyền của 8624 trình tự ORF5
để xây dựng nên một bức tranh toàn diện về sự đa dạng di truyền của PRRSV loại
2, đồng thời phân chia các chủng hiện có thành 9 dòng và các chủng cho mỗi dòng.
Trong báo cáo này còn bao gồm cả các dòng chưa từng được công bố trước đây. Hệ
thống phân loại của Shi là một trong những hệ thống đầy đủ và đáng tin cậy nhất,
làm cơ sở để so sánh và phân tích cho các nghiên cứu sau này. Hơn 85% tất cả các
trình tự rơi vào 4 dòng lớn bao gồm dòng số 9 (2800 mẫu), dòng số 1 (2000 mẫu),
dòng số 5 (1500 mẫu) và dòng số 8 (1400 mẫu) trong khi các mẫu còn lại rơi vào 5
dòng với kích thước mẫu gần tương đương khoảng từ 14 cho đến 115 mẫu. Chủ yếu
các trình tự của các dòng quốc tế rơi vào dòng số 5. Một vài trình tự của Thái Lan
và của Canada thuộc dòng số 1. Dòng độc lực cao của Trung Quốc thuộc dòng số 8.
Một vài mẫu từ Ý thuộc về dòng số 8 và số 9. Các chủng vacccine đang sử dụng
hiện nay cũng được phân tích. Vaccine MLV (Boehringer Ingelheim, Germany) và
chủng gốc VR – 2332 thuộc chủng số 5.1 tương tự như phần lớn các mẫu của các
trình tự trên thế giới. Vaccine dòng ATP (Boehringer Ingelheim, Germany) thuộc
về chủng 8.9. Vaccine dòng PrimePac và Neb-1 thuộc về dòng số 7. Chủng có độc
lực cao ở Trung Quốc thuộc vào chủng số 8.7. Madsen cũng đã đưa ra dự đoán các
chủng có độc lực cao này không bắt nguồn từ một dòng chưa được biết trước đó mà
bắt nguồn từ dòng số 8 đã lưu hành ở Trung Quốc 10 năm trước khi bùng nổ dịch

vào năm 2006. Thêm vào đó, dựa trên phân tích chủng PRRSV ở các bang của Mỹ
và các chủng khác trên thế giới, Madsen K. G và cs đã khẳng định lại chắc chắn kết
luận của một số nhà nghiên cứu trước về sự lây truyền của PRRSV không bị hạn
chế bởi khoảng cách địa lý.
Ngoài ra, báo cáo cũng đồng thời chỉ ra rằng trong suốt 30 năm quá trình
phát triển, tiến hóa của mình, PRRSV ORF5 đã đạt tới sự khác biệt trung bình về
mặt di truyền là 12,5% với khoảng cách các cặp lớn nhất là 27,8%. Shi và cs,
(2010) đã khuyến cáo sự phát triển nhanh chóng như vậy có thể gây ra những
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 8


khó khăn trong chẩn đoán virus và hiệu quả của vắc-xin và vì vậy các công
trình nghiên cứu tốc độ phát triển của virus, giải trình tự của các mẫu nên được
tiến hành thường xuyên.
1.1.4 Tình hình nghiên cứu về hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn tại
Việt Nam
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về Hội chứng rối loạn
sinh sản và hô hấp ở lợn, đặc biệt là nghiên cứu sâu về mầm bệnh, tính chất kháng
nguyên cũng như độc lực của virus gây bệnh. Các nghiên cứu mới chỉ là những
thống kê và chẩn đoán về bệnh tai xanh xuất hiện ở một số tỉnh thành trong cả nước.
Năm 1997 Việt Nam nhập 51 lợn giống từ Mỹ khi kiểm tra có 10/ 51 con có
huyết thanh dương tính với PRRS. Từ năm 1997 đến 2006 có rất nhiều tác giả trong
nước nghiên cứu về hội chứng PRRS nhưng chỉ dừng lại ở điều tra, giám sát tỷ lệ
lưu hành huyết thanh.
Từ năm 1999 – 2002 một số nhà khoa học Nhật Bản kết hợp với Trường Đại
học Cần Thơ cũng đã tiến hành điều tra một số trường hợp bệnh ở lợn có hiện tượng
lợn con chết và lợn nái sảy thai và điều trị kháng sinh không hiệu quả. Trong nghiên
cứu này, người ta điều tra một số nguyên nhân gây bệnh trong đó có hội chứng rối

loạn sinh sản và hô hấp ở lợn. Điều tra được tiến hành ở các đàn lợn gia đình, một
số trại giống của Nhà nước và một số lò mổ. Các nhà khoa học đã phát hiện thấy
kháng thể PRRS trong huyết thanh ở các đàn lợn nuôi gia đình và có tỷ lệ lưu hành
cao ở các trại lợn của Nhà nước cùng với hiện tượng tỷ lệ lợn con chết cao. Ngoài
ra, cũng phát hiện thấy virus giả dại và virus Dịch tả lợn.
Bắt đầu từ tháng 3 năm 2007, khi các ổ dịch lâm sàng PRRS bùng nổ thì
việc nghiên cứu về bệnh ở Việt Nam mới được triển khai toàn diện trên cả nước
dưới nhiều hình thức cả về dịch tễ học và các biện pháp chẩn đoán xét nghiệm,
phòng chống dịch bệnh. Trung tâm Chẩn đoán Thú y Trung ương đã xác định được
nguyên nhân chính gây bệnh lạ xuất hiện trên nhiều đàn lợn ở một số tỉnh như Hưng
Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội, Quảng Nam là Hội chứng rối loạn sinh sản và hô
hấp ở lợn (PRRS). Căn bệnh này có đặc điểm là xảy ra ở tất cả các lứa tuổi lợn và khác
biệt với virus PRRS thể cổ điển chủ yếu tấn công lợn nái và lợn con. Các mẫu virus
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 9


PRRS phân lập được từ các ổ dịch đã được gửi đi giám định tại Phòng thí nghiệm Chẩn
đoán Thú y quốc gia của Hoa Kỳ (USDA-NVSL) và tại Trung tâm Kiểm soát và phòng
chống dịch bệnh Trung Quốc. Kết quả giám định cho thấy các mẫu virus của Việt Nam
thuộc dòng Bắc Mỹ và có độ tương đồng cao (98,7-99,8%) với virus PRRS gây bệnh tại
Trung Quốc năm 2006. Phân tích cấu trúc gen NSP2 của virus PRRS phân lập ở Việt
Nam cũng thấy có 2 đoạn mất không liên tiếp của axit amin tại vị trí 481 và 532-560.
Theo các nhà khoa học Trung Quốc virus PRRS phát hiện được ở Việt Nam có sự mất
đoạn giống với PRRS chủng độc lực cao ở Trung Quốc.
Tô Long Thành (2007) đã trình bày một cách tổng hợp về hội chứng PRRS
nói chung, khẳng định lợn các lứa tuổi đều mắc, nhưng nặng nhất ở lợn nái và lợn
con. Tác giả đã đưa ra biện pháp phòng hội chứng PRRS, trong đó nhấn mạnh việc
phòng bệnh PRRS bằng vaccine.

Khi lợn mắc PRRS không chỉ có những bệnh tích đặc trưng nhất của
PRRS là ở phổi mà còn có những bệnh tích khác do vi khuẩn kế phát gây ra.
Những vi khuẩn kế phát ở đường phổi thường gặp là Mycoplasma
hyopneumoniae

(suyễn

lợn),

Pasteurella

multocida

(Tụ

huyết

trùng),

Streptococcus suis type 2 (liên cầu khuẩn type 2), Bordetella bronchiseptica
(viêm teo mũi) và Haemophilus parasuis (viêm đường hô hấp)… . Theo kết quả
nghiên cứu của Viện Thú y Quốc gia do tác giả Cù Hữu Phú thực hiện cho thấy,
các bệnh nhiễm trùng kế phát thường gặp ở lợn mắc bệnh tai xanh gồm: Tụ
huyết trùng, liên cầu khuẩn và viêm phổi do vi khuẩn ở lợn.
Phạm Ngọc Thạch và cộng sự (2007) nghiên cứu về một số chỉ tiêu lâm sàng và
chỉ tiêu máu của lợn mắc PRRS tại Hải Dương và Hưng Yên đã cho thấy, khi lợn mắc
PRRS tần số hô hấp, tim mạch, thân nhiệt đều cao hơn sinh lý bình thường, chỉ tiêu sinh
lý, sinh hoá máu thay đổi đặc biệt là số lượng bạch cầu, độ dự trữ kiềm trong máu tăng
cao. Trong khi hàm lượng protein tổng số, hàm lượng đường huyết lại giảm rõ rệt.
Lê Văn Năm (2007) khi khảo sát các biểu hiện lâm sàng và bệnh tích đại thể

ở lợn mắc PRRS tại một số địa phương thuộc Đồng bằng Bắc Bộ- Việt Nam đã thấy
rằng các biểu hiện lâm sàng và bệnh tích đại thể của lợn mắc PRRS tương tự như

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 10


các tài liệu trong và ngoài nước công bố. Nhưng điểm khác đó là tỷ lệ tiêu chảy, lạc
giọng của lợn con theo mẹ cũng như tỷ lệ táo bón ở lợn lớn hơn.
Nguyễn Ngọc Hải và cộng sự (2007) đã sử dụng kỹ thuật RT- PCR để phát
hiện virus PRRS trong các mẫu huyết thanh, tinh dịch, mô của lợn có kết quả dương
tính và âm tính với kháng thể PRRS khi dùng phương pháp ELISA. Tác giả đã
không ghi nhận được mối tương quan giữa sự liên hệ của kháng thể kháng PRRS và
kết quả dương tính với virus PRRS chẩn đoán bằng kỹ thuật RT- PCR.
Tô Long Thành và cộng sự (2008) đã cho biết năm 2008 số lượng bệnh
phẩm lợn mắc PRRS gửi đến Trung tâm chẩn đoán thú y TW nhiều hơn năm
2007, khẳng định những mẫu bệnh phẩm dương tính với PRRS có sự bội nhiễm vi
khuẩn. Chủng virus độc lực cao của Việt Nam có sự tương đồng về cấu trúc gen
với chủng virus độc lực cao của Trung Quốc đến 99%. Khi sử dụng virus PRRS
gây bệnh tại Việt Nam tiêm cho lợn thí nghiệm lợn không chết, huyễn dịch bệnh
phẩm lấy tại ổ dịch của Việt Nam gây chết 100% lợn trong 72h. Điều này cho thấy
vai trò của vi khuẩn bội nhiễm.
Trần Thị Bích Liên (2008) đã tổng quát về tình hình dịch PRRS cả Việt Nam
và thế giới cũng như những đặc điểm cơ bản về PRRSV. Đặc biệt tác giả đưa ra
phương pháp chẩn đoán PRRS như phân lập virus bằng phương pháp IPMA kết hợp
với PCR, phương pháp phát hiện kháng nguyên, kháng thể. Tác giả chỉ rõ để phát
hiện kháng nguyên sử dụng phương pháp RT- PCR là hiệu quả nhất, phát hiện
kháng thể có hai phương pháp có độ chính xác cao là IPMA và ELISA.
Youjun Feng và cs. (2009) đã chỉ rõ các biến chủng của PRRSV của Trung

Quốc và Việt Nam có bộ gen tương đồng tới 99%. Phân tích di truyền đã cho thấy
các chủng virus này đều có sự đứt đoạn acid amin trên protein không cấu trúc
NSP2. Nhóm tác giả khẳng định các biến chủng của PRRSV tại Việt Nam và Trung
Quốc là đồng nhất.
Lê Thanh Hòa và cộng sự (2009) đã phân tích gen M mã hóa protein màng
của virus PRRS gây dịch tại tỉnh Quảng Nam chỉ ra virus có chuỗi gen M dài
525bp, thuộc type II dòng Bắc Mỹ, có thành phần nucleotide và axit amin tương
đồng từ 99 – 100% các chủng của Trung Quốc, từ đó cho thấy có thể chủng virus ở
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 11


Việt Nam có cùng nguồn gốc phát sinh các chủng của Trung Quốc.
Võ Khánh Hưng và cộng sự (2010) khi phân tích trình tự gen N (ORF7) của
các chủng PRRSV phân lập tại Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Tp. HCM đã xác
nhận các chủng virus PRRS đang lưu hành tại địa phương thuộc dòng châu Mỹ,
cùng nhóm với chủng virus độc lực cao của Trung Quốc (tương đồng 98,4 –
99,5% nucleotide). Đặc biệt, hai chủng phân lập từ Bà Rịa – Vũng Tàu có sự biến
đổi di truyền lớn so với các chủng thực địa khác tại các tỉnh thành được nghiên
cứu (89,5 – 90,3% nucleotide tương đồng) và so với chủng vaccine BSL – PS100
(mức tương đồng 91,1% nucleotide), và tách riêng biệt so với các chủng khác xuất
hiện trước đây. Kết quả này cho thấy đang có xu hướng biến đổi di truyền của
virus PRRS tại một số tỉnh miền Nam Việt Nam cụ thể là ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
Điều này đóng góp vào hiểu biết về dịch tễ học cũng như xu hướng biến đổi di
truyền của các chủng virus PRRS tại thực địa và hiệu quả của việc sử dụng
vaccine hiện tại ở các tỉnh nói trên.
Võ Khánh Hưng và cộng sự (2012) đã phân tích và so sánh trình tự GP5 của
6 chủng virus PRRS phân lập tại Tp. HCM và Đồng Nai trong năm 2009 cho thấy
các chủng virus PRRS lưu hành tại Đồng Nai và Tp. HCM thuộc dòng châu Mỹ,

cùng nhóm với các chủng virus PRRS độc lực cao của Trung Quốc (98,5 – 99,7%),
và tương đồng 87,9 – 88,6% so với chủng vaccine đang khuyến cáo sử dụng tại Việt
Nam, BSL – PS100 của Bestam Singapo.
Nguyễn Ngọc Hải và cs (2012) đã sử dụng kỹ thuật nested RT-PCR để xác
định kiểu gen của PRRSV nhiễm trên 46 mẫu bệnh phẩm thu được từ các trại chăn
nuôi lợn ở TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bắc Giang và Hà Nội.
Kết quả ghi nhận PRRSV nhiễm trên đàn lợn Việt Nam thuộc kiểu gen Bắc Mỹ với
100% mẫu dương tính. Kiểu gen Châu Âu của PRRSV chỉ chiếm 2,18% (1/46 mẫu)
mẫu xét nghiệm.
Nguyễn Thị Lan và cộng sự (2012) khi chẩn đoán bằng kỹ thuật bệnh lý cho
thấy các triệu chứng lâm sàng chủ yếu của lợn sau cai sữa mắc PRRS bao gồm: sốt,
bỏ ăn, khó thở, tím tái. Bệnh tích đại thể tập trung chủ yếu ở phổi và hạch lâm ba
với hiện tượng viêm là phổ biến. Các biến đổi vi thể phổ biến ở phổi với hiện tượng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 12


thâm nhiễm tế bào viêm, các cơ quan khác như hạch, lạch, thận cũng xuất hiện các
tổn thương vi thể. Bằng kỹ thuật RT-PCR, đã xác định được chính xác được lợn
sau cai sữa mắc PRRS.
Nguyễn Đức Hiền (2012) đã nghiên cứu tình hình nhiễm PRRS trong đàn lợn
ở Cần Thơ. Xét nghiệm cho thấy 290 mẫu huyết thanh lợn chưa tiêm phòng vaccine
PRRS bằng phương pháp ELISA cho thấy tỷ lệ nhiễm PRRSV ở lợn nuôi tại thành
phố Cần Thơ là 16,90%. Trong đó, tỷ lệ nhiễm PRRS ở lợn của những trại chăn
nuôi tập trung cao hơn lợn nuôi ở các nông hộ (64,0 % so với 38,12%). Tỷ lệ
nhiễm PRRSV cao nhất được tìm thấy trên lợn nái (69,57%), kế đến trên lợn con
(33,33%) và thấp nhất trên lợn thịt (12,16%). Xét nghiệm 194 mẫu huyết thanh lợn
đã tiêm 04 loại vacxin phòng bệnh PRRS cho thấy tỉ lệ lợn có kháng thể sau tiêm
chủng là 59,79%.

Nguyễn Bá Hiên (2013) nghiên cứu trên 50 mẫu bệnh phẩm của lợn nghi
bệnh thu thập được, bằng kỹ thuật RT-PCR, đã chẩn đoán chính xác 15 lợn mắc
PRRS. Các mẫu dương tính này được dùng cho phân lập virus trên môi trường tế
bào Marc 145 và đã phân lập thành công. Đã khảo sát đặc tính sinh học và sinh học
phân tử của 15 chủng virus PRRS phân lập được, chọn ra 5 chủng có đặc tính sinh
học và sinh học phân tử khá ổn định, có hiệu giá virus cao để phục vụ cho việc
nghiên cứu sản xuất vacxin phòng hội chứng PRRS.
*Tình hình dịch Tai xanh ở Việt Nam
Tại Việt Nam, bằng chứng của virus PRRS lần đầu tiên được phát hiện ở đàn
lợn giống nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào năm 1997. Sau đó, một số nghiên cứu giám sát
khẳng định có sự lưu hành của virus PRRS tại các tỉnh miền Nam ở các mức độ
khác nhau tùy theo từng địa phương và trại chăn nuôi. Tuy nhiên, đến trước tháng
3/2007 không có ổ dịch PRRS nào được báo cáo từ các địa phương trong cả nước.
Tháng 3/2007, lần đầu tiên dịch bệnh trên lợn xuất hiện tại Hải Dương và 5
tỉnh khác của miền Bắc. Sau đó, với sự hỗ trợ của Tổ chức Nông lương Liên hợp
quốc (FAO), nguyên nhân gây bệnh đã được khẳng định là do virus PRRS chủng
Bắc Mỹ gây ra. Virus này đã được xác định là có tương đồng ở mức độ cao về
kháng nguyên so với virus PRRS gây bệnh trầm trọng tại Trung Quốc vào năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 13


2006. Tuy nhiên, những đặc điểm dịch tễ của bệnh PRRS tại Việt Nam chưa được
hiểu rõ ràng, các giải pháp xử lý lợn mắc bệnh và lợn trong vùng dịch vào thời điểm
đó còn gặp nhiều khó khăn. Kết quả điều tra ổ dịch tại các tỉnh miền Bắc (Hưng
Yên, Hải Dương và Thái Bình), các tỉnh miền Bắc Trung bộ và miền Trung (Thanh
Hóa, Quảng Nam) và các tỉnh miền Nam (Long An, Vĩnh Long và Bạc Liêu) cho
thấy:
- Nguyên nhân phát dịch PRRS tại Việt Nam có thể liên quan đến tình hình

dịch ở các nước láng giềng, cụ thể: nguồn bệnh có thể từ Trung Quốc vào Việt Nam
qua cửa khẩu Quảng Ninh, Lạng Sơn. Việc buôn bán, vận chuyển lợn ốm không
được kiểm soát triệt để nên nguồn bệnh đã xâm nhập vào nước ta và sau đó đã lây
lan theo đường vận chuyển, gây ra dịch tại các tỉnh Hải Dương, Bắc Giang, Hưng
Yên, Thái Bình ở đợt dịch đầu năm 2007. Nhận định này tương đồng với thông báo
của Tổ chức Thú y thế giới (OIE) là trong năm 2006, dịch xảy ra nghiêm trọng ở
một số nước trong khu vực, đặc biệt dịch đã đồng loạt xảy ra ở nhiều nơi trên toàn
lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, kết quả phân tích cấu trúc gen của virus PRRS do
phía Trung Quốc và Mỹ thực hiện cho thấy, virus PRRS gây dịch tại Việt Nam đều
có mức tương đồng về amino acid từ 99-99,7% so với chủng virrus PRRS thể độc
lực cao gây dịch ở Trung Quốc.
- Việc giám sát và sớm phát hiện dịch bệnh chưa được địa phương thực hiện
đầy đủ do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến nhiều nơi dịch đã xảy ra và nhiều
ngày sau thú y cơ sở mới báo dịch (ví dụ như ở Quảng Nam, Hà Tĩnh, ở Thanh Hóa
dịch xuất hiện tại hơn 40 xã, phường trong vòng một ngày,…); và chưa thực hiện
triệt để các biện pháp chống dịch, tiêu huỷ lợn bệnh ngay từ khi dịch còn ở phạm vi
nhỏ. Nghiên cứu tại 11 tỉnh cho thấy: Tỷ lệ hộ chăn nuôi không thông báo cho thú y
cơ sở hoặc chính quyền mà tự xử lý là tương đối cao (31.94%).
- Dịch lây lan rất nhanh (giữa các tỉnh phía Bắc hoặc từ Bắc vào miền Trung
năm 2007) do không quản lý được việc vận chuyển lợn ốm. Cụ thể, tại 11 tỉnh
nghiên cứu tỷ lệ các hộ chăn nuôi lợn bị bệnh có thương lái đến thăm đàn lợn trong
vòng 1 tháng chiếm 34,29%; hoặc có thú y cơ sở đến thăm khám, tiêm phòng tại
42% số hộ chăn nuôi lợn trong vòng 1 tháng trước khi xảy ra. Ngoài ra, 70/70
(100%) số hộ chăn nuôi có dịch PRRS đều mua thịt lợn từ nơi khác để ăn thịt và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 14


cho lợn ăn nước rửa hoặc các chất phụ phẩm khác mà chưa qua xử lý; sử dụng lợn

đực giống từ các cơ sở khác (chiếm 51,43%), mua lợn giống từ các xã, huyện khác
(chiếm 57,14%).
- Dịch đã xuất hiện tại trại chăn nuôi lợn giống của một số tỉnh (Hải Dương,
Vĩnh Long và Gia Lai), sau đó lây lan sang các địa phương xung quanh do việc bán
lợn giống, tinh dịch (Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, 2008).
* Tổng hợp các đợt dịch bệnh PRRS ở Việt Nam từ 2007 đến 2011
Năm 2007: Vào ngày 12/3/2007 lần đầu tiên dịch PRRS xuất hiện ở nước ta
trên đàn lợn của tỉnh Hải Dương làm cho 8.179 con lợn mắc bệnh, 844 lợn chết.
Đến hết đợt dịch thứ nhất (đến ngày 15/5/2007), dịch PRRS xảy ra tại 172 xã,
phường, thuộc 30 huyện, thị xã của 09 tỉnh. Sau đó vào tháng 6/2007, dịch xuất hiện
tại Quảng Nam và lây lan sang các tỉnh miền Trung và miền Nam tại 233 xã,
phường thuộc 45 huyện, thị của 14 tỉnh, thành phố. Trong năm 2007, toàn quốc có
324 xã, phường của 65 huyện, quận thuộc 18 tỉnh, thành phố có dịch. Số lợn mắc
bệnh là 70.577 con (chiếm 0,26% tổng đàn, toàn quốc có 26.560.651 con), số lợn
chết và phải tiêu huỷ là 20.366 (chiếm gần 0,08%) (Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển
Nông Thôn, 2007).
Năm 2008: Dịch Tai xanh đã xảy ra thành hai đợt chính tại 956 xã, phường
thuộc 103 huyện của 26 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn mắc bệnh là 309.586 con trong
đó số lợn chết và buộc phải tiêu huỷ là 300.906 con. Từ ngày 20/3 - 25/5/2008 (67
ngày) xuất hiện tại 821 xã, phường và thị trấn, 59 huyện, thị và thành phố của 10
tỉnh. Nặng nhất là Thanh Hóa với 187.436 lợn mắc bệnh, 37.159 lợn chết và có
ngày trên 40 xã, phường báo cáo có dịch PRRS, tiếp đến là Hà Tĩnh với 29.875 lợn
mắc bệnh, 296 lợn chết (Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, 2008).
Năm 2009: Dịch tai xanh xảy ra ở 69 xã thuộc 26 huyện của 13 tỉnh thành là
BR Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bến Tre, Bắc Giang, Bình Dương, Đắc Lắc, Đồng Nai,
Gia Lai, Hưng Yên, Quảng Ninh, Quảng Nam, Tiền Giang và Vĩnh Long với 7.030
lợn mắc bệnh và 5.847 lợn buộc phải tiêu hủy (Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển
Nông Thôn, 2009).
Năm 2010:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page 15


Đợt 1/2010 tại miền Bắc: Dịch lợn tai xanh đã xảy ra từ ngày 23/3/2010 tại
Hải Dương. Tính đến hết tháng 6/2010, toàn quốc ghi nhận các ổ dịch tai xanh tại
461 xã, phường, thị trấn của 71 quận, huyện thuộc 16 tỉnh, thành phố gồm Hải
Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên,
Lạng Sơn, Hà Nội, Nam Định, Hà Nam, Nghệ An, Quảng Ninh, Hòa Bình, Cao
Bằng, Sơn La. Tổng số lợn mắc bệnh là 146.051 con trong đó số tiêu hủy là
65.911 con.
Đợt 2/2010 tại miền Nam: Theo kết quả điều tra, đợt dịch này bắt đầu từ
ngày 11/6/2010 tại Sóc Trăng. Sau đó dịch xuất hiện tại Tiền Giang (ngày 19/6),
Bình Dương (ngày 27/6), Long An (ngày 15/7), Lào Cai (11/7), Quảng Trị
(01/7). Tổng số lợn trong đàn là 926.333 con, số mắc bệnh là 621.086 con, trong
đó số chết, tiêu hủy là 336.975 con (Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn,
2010).
Năm 2011:
Đợt 1: Dịch lợn tai xanh đã xảy ra từ ngày 25/2/2011 tại 01 hộ chăn nuôi lợn
nái tại xã Đức Long, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, toàn quốc ghi nhận các ổ dịch
tai xanh tại 128 xã, phường, thị trấn của 21 quận, huyện thuộc 7 tỉnh là Bắc Ninh,
Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị và Bình Dương. Tổng số lợn
mắc bệnh là 14.759 con trong đó có 1.468 con lợn nái, 5.346 con lợn thịt và 7.665
con lợn con; tổng số lợn phải tiêu hủy là 14.158 con trong đó 1.373 con lợn nái,
4.850 con lợn thịt và 7.581 con lợn con.
Đợt 2: Dịch lợn tai xanh đã xảy ra từ ngày 30/8/2011 tại tỉnh Tây Ninh, đến
nay toàn quốc ghi nhận các ổ dịch tai xanh tại 137 xã, phường, thị trấn của 29 quận,
huyện thuộc 8 tỉnh là Tây Ninh, Long An, Tiền Giang, Sóc Trăng, Quảng Nam, Cần
Thơ, Khánh Hòa và Hà Nội. Tổng số lợn mắc bệnh là 27.558 con lợn trên tổng đàn
46.328 con; tổng số lợn phải tiêu hủy là 12.361con.

Tình hình dịch PRRS năm 2011 đã giảm so với cùng kỳ năm 2010 cả về
phạm vi, quy mô dịch và số lượng gia súc phải tiêu hủy (Bộ Nông Nghiệp Và Phát
Triển Nông Thôn, 2011).

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page 16


×