Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đảng bộ hà tĩnh lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước tại hà tĩnh trong những năm đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

PHẠM THỊ THÙY DƢƠNG

ĐẢNG BỘ HÀ TĨNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC
TẠI HÀ TĨNH TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

PHẠM THỊ THÙY DƢƠNG

ĐẢNG BỘ HÀ TĨNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC
TẠI HÀ TĨNH TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Quang Hƣng

Hà Nội – 2013

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả
nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thùy Dƣơng

iii


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu; Trưởng Phòng Đào
tạo Sau đại học, Ban Chủ nhiệm Khoa Khoa học Chính trị cùng quý thấy, cô
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.; Quý thầy, cô chủ nhiệm lớp đã
tận tình giảng dạy, truyền bá tri thức, kinh nghiệm để tạo mọi điều kiện thuận
lợi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại trường. Đặc biệt tôi
kính gửi lòng biết ơn đến GS.TS. Đỗ Quang Hưng, thầy đã tận tình hướng dẫn
tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Ban Lãnh đạo, các anh chị, đồng nghiệp tại Sở Lao động
Thương binh và Xã hội – Quỹ Bảo trợ trẻ em; Ban Tuyên giáo Ủy ban Mặt trận

Tổ Quốc, Ban Tôn giáo Sở Nội vụ; Tỉnh đoàn Hà Tĩnh đã giúp đỡ, động viên,
tạo điều kiện cung cấp, tài liệu, thông tin để tôi vượt qua khó khăn, vừa hoàn
thành tốt công tác, vừa hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Luận văn này được hoàn thành bởi sự nổ lực của bản thân, dù đã hết sức
cố gắng nhưng do khả năng còn hạn chế, thời gian đầu tư nghiên cứu chưa
nhiều nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự
góp ý của Quí thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Kính gửi tới Ban Lãnh đạo nhà trường, Quí thầy, cô và mọi người lời tri
ân sâu sắc nhất!

iv


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ………………………………………………………………………….………………

1

1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………………………

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ………………………………………………………

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ………………………………………….…

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ……………………………………….…….

5

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ………………….……………

5

6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn …………….…………

6

7. Kết cấu của luận văn …………………………………………………………..……

6

Chƣơng 1: Bối cảnh của việc thực hiện chính sách đổi mới về tôn
giáo ở Hà Tĩnh ……………………………………………………………….……………

7

1.1. Quá trình đổi mới đƣờng lối, chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nƣớc ta trong những năm đổi mới và tác động của nó đến
đời sống và xã hội .................................................................................................................

7

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về tôn giáo......................


7

1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tôn giáo ...........................................................

12

1.2. Vài nét về đời sống tôn giáo và những quan điểm, chính sách
tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong những năm đổi mới ............

14

1.3. Đặc điểm chung về hoạt động tôn giáo ở Hà Tĩnh..............................

18

1.3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa – xã hội
của Hà Tĩnh ............................................................................................................................. .

18

1.3.1.1. Điều kiện tự nhiên ..............................................................................................

18

1.3.1.2. Điều kiện kinh tế ...............................................................................................

19

1.3.1.3 Điều kiện lịch sử - văn hóa – xã hội.......................................................


20

1.3.2. Đặc điểm tôn giáo ở tỉnh Hà Tĩnh .............................................................

21

1.3.2.1. Tình hình đời sống tôn giáo Hà Tĩnh trước năm 2005 ............

22

1.3.2.2. Đời sống tôn giáo Hà Tĩnh từ năm 2005 đến nay ........................

23

Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................

27

v


Chƣơng 2: Một số vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo ở Hà Tĩnh
trong những năm đổi mới ..............................................................................................

28

2.1. Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh vận dụng quan điểm, chính sách của
Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo trong những năm
đổi mới ..........................................................................................................................................
2.1.1. Thực hiện công tác lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng về

chính sách tôn giáo đối với tín đồ và các tổ chức tôn giáo.......................

28
28

2.1.2. Thực hiện Chính sách tôn giáo đối với đất đai, nơi thờ tự ......

34

2.1.3. Công tác quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ................................................

37

2.1.4. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực
tôn giáo ........................................................................................................................................

40

2.1.5. Chính sách đối với công tác đối ngoại và đấu tranh chống
lợi dụng tôn giáo ...................................................................................................................

40

2.1.6. Hoạt động của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối
với công tác tôn giáo ..........................................................................................................

42

2.2. Thực trạng việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nƣớc ở Hà Tĩnh trong những năm đổi mới.............................................


50

2.2.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện Chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc tại Hà Tĩnh trong những
năm đổi mới

...........................................................................................................................

50

2.2.1.1. Thành tựu trong thực hiện Chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước tại Hà Tĩnh trong những năm đổi mới ...................................

50

2.2.1.2. Những hạn chế trong thực hiện chính sách tôn giáo tại Hà
Tĩnh trong những năm đổi mới ...................................................................................

59

2.2.2. Nguyên nhân thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc ở Hà Tĩnh trong những năm
đổi mới ............................................................................................................................ .............

64

2.2.2.1. Nguyên nhân thành tựu ................................................................................

64


2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế ............................................................................

65

vi


2.3. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả trong việc
thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc ở Hà Tĩnh
trong những năm đổi mới ..............................................................................................

67

2.3.1. Tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động
tôn giáo tạo môi trƣờng pháp lý đầy đủ để các tôn giáo hoạt động
đúng pháp luật .......................................................................................................................

67

2.3.2. Tuyên truyền, giáo dục, xây dựng nhân tố tích cực, đấu
tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo ........................................................

68

Tiểu kết chƣơng 2 ...............................................................................................................

69

Kết luận ......................................................................................................................................


70

Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................................

72

vii


KÍ HIỆU VIẾT TẮT
MTTQ

Mặt trận tổ quốc

TNCS

Thanh niên cộng sản

VACR

Vườn - ao - chuồng - ruộng

KHKT

Khoa học kỷ thuật

UBND

Ủy ban nhân dân


QLNN

Quản lý nhà nước

TNHH TM

Trách nhiệm hữu hạn thương mại

TNHH TMDV

Trách nhiệm hữu hạn thương mại và dịch vụ

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

HĐND

Hội đồng nhân dân

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UVBCH


Ủy viên Ban chấp hành

LHPN

Liên hiệp Phụ nữ

BCV

Báo cáo viên

TTV

Tuyên truyền viên

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

EU

Liên minh Châu Âu

ASEM

Tiến trình hợp tác Á - Âu

viii



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là hiện tượng xã hội, tác động hết sức phức tạp và sâu sắc đến
mọi mặt của đời sống nhân loại. Ngày nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu
hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau không chỉ ở Việt
Nam mà hầu hết các quốc gia trên thế giới. Từ khi ra đời cho đến nay cùng với
sự biến đổi của lịch sử, tôn giáo cũng biến đổi theo sự vận động của thời gian.
Thời đại ngày nay khi mà xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực đời
sống xã hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của
khoa học và công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng đa dạng hóa. Tất cả
đã làm xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau trong một tôn giáo, dẫn đến sự chia rẽ
trong các tôn giáo một cách có tổ chức, hình thành các giáo phái và nhiều tôn
giáo mới. Tôn giáo của từng khu vực và trên thế giới có số tín đồ ngày càng
gia, trong nội bộ các tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái với những
tính chất cấp tiến, ôn hòa hay cực đoan và ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời
sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết
các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo với 13 tôn giáo và 40 tổ chức tôn
giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân. Chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn ở nước
ta đã có gần 1/3 dân số cả nước sinh hoạt tôn giáo thường xuyên với khoảng 25
triệu tín đồ, trong đó có khoảng 10 triệu tín đồ Phật giáo; 6,1 triệu tín đồ Công
giáo; 100.000 tín đồ Hồi giáo, đạo Tin Lành có hơn 1,5 triệu tín đồ. Có hai tôn
giáo xuất hiện từ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của người dân vùng Nam Bộ là
đạo Cao Đài với 2,4 triệu tín đồ và Phật giáo Hòa Hảo với 1,2 triệu tín đồ.
Trong những năm gần đây có thêm hai tôn giáo nữa được công nhận là Tịnh độ
cư sĩ Phật hội và Tứ Ân hiếu nghĩa với 2 triệu tín đồ đi theo. Hiện nay, cùng
với hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có nhiều thay đổi về cơ cấu và lợi ích xã hội,
quan niệm, tư tưởng của nhân dân ngày càng có xu hướng đa dạng, nhiều người

1



tìm kiếm sự an ủi tâm lý, niềm tin vào cuộc sống của chính bản thân họ từ tôn
giáo. Cũng dễ nhận thấy rõ rằng vấn đề tôn giáo ở Việt Nam là vấn đề lớn,
phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có chủ trương, chính sách thích
hợp hoàn cảnh và điều kiện mới, nhất là trong giai đoạn đất nước trên con
đường đổi mới, hội nhập quốc tế các thế lực thù địch đang tìm mọi cách lợi
dụng vấn đề tôn giáo để tập hợp quần chúng nhằm chống phá cách mạng nước
ta trong âm mưu lợi dụng tôn giáo. Đảng và Nhà nước tăng cường đổi mới
chính sách phù hợp với hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, để tín đồ
tôn giáo đều có những quyền lợi như nhau sống trong một đất nước hoà bình,
ổn định. Việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta đang
được tiến hành có hiệu quả trên phạm vi cả nước trong đó có Hà Tĩnh.
Tỉnh Hà Tĩnh là một địa phương cũng như các tỉnh khác trong cả nước,
người dân được tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Trong toàn tỉnh có 12 huyện thị với
13 vạn tín đồ theo các tôn giáo, chiếm 10,4% dân số gồm: Đạo Công giáo, Phật
giáo, Đạo Tin lành và một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo mới phát sinh.
Chính quyền các cấp ở Hà Tĩnh đã chăm lo, quan tâm tới mọi mặt đời sống của
tín đồ tôn giáo, người dân được quyền tự do tín ngưỡng và tham gia các tôn
giáo trong giới hạn của pháp luật, phát huy tốt tinh thần đoàn kết lương, giáo
“Sống tốt đời đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”. Trong thời kỳ đổi mới, thực
hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tỉnh Hà Tĩnh đã đạt được
những thành tựu rất quan trọng. Vì vậy, tìm hiểu việc thực hiện chính tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới của Đảng bộ Hà Tĩnh có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần giúp đỡ tác giả trong công việc
thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ với các đối tượng trong đó có bà con là các tín
đồ theo đạo, các thế lực thù địch luôn lợi dụng các Chương trình hỗ trợ từ Tổ
chức Phi chính phủ để truyền giáo. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn đề tài
“Đảng Bộ Hà Tĩnh lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước tại Hà Tĩnh trong những năm đổi mới” làm chủ đề nghiên cứu cho luận

văn thạc sĩ khoa học chuyên ngành Chính trị học.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã được nhiều tác
giả quan tâm, chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, xuất bản sách nghiên cứu:
Tác giả GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2003), ''Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ
giữa Nhà nước và Giáo hội” Nxb. Tôn giáo.
GS.TS. Đỗ Quang Hưng (2008), "Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam
lý luận và thực tiễn”, Nxb. Lý luận chính trị Hà Nội.
Tác giả Đặng Nghiên Vạn (Chủ biên), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
tôn giáo ở Việt Nam”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách dày hơn 300
trang là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu về tôn
giáo. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề lý luận và thực tiễn
tôn giáo ở Việt Nam theo nhiều góc độ khác nhau. Trong đó có một số tác giả
đã đề cập một cách trực tiếp và gián tiếp vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo
quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tình hình
thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (Đồng chủ biên 2000), Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách này đã tập hợp các bài viết của nhiều tác giả, đã khai quát
nghiên cứu toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo
cũng như những lý luận và thực tiễn ở nước ta khi thực hiện chính sách tôn giáo.
Tác giả Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo: Quan điểm, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay. Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
Tác giả Vũ Văn Hậu (2009), Củng cố mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra còn phải kể đến nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả về

vấn đề tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
góc độ khác nhau được đăng tải trên các tạp trí như: Vũ Khiêu, Phạm Như
Cương, Nguyễn Hữu Vui, Hoàng Minh Đô, Nguyễn Văn Oánh, Phạm Hữu
3


Xuyên, Nguyễn Ngô Hai, Lê Quang Vịnh, Trần Xuân Dung...Hay những luận
văn thạc sĩ ở từng địa phương khác nhau, ở góc độ quản lí nhà nước về tôn giáo:
“Vấn đề quản lý nhà nước hoạt động đạo Công giáo ở Đồng Nai hiện nay” (Võ
Mộng Thu, năm 2001).
“Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay – vấn đề và giải
pháp” (Lê Minh Quang, năm 2001).
“Ảnh hưởng của thế giới quan công giáo đối với đời sống tinh thần tín đồ công
giáo Việt Nam. Những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh hiện nay” (Mai
Quang Hiện, năm 2000)
“Thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta tại Thành Phố Hồ
Chí Minh từ 1990 – 2005” (Hoàng Ngọc Phương, năm 2012)
Đề tài khóa luận tốt nghiệp về việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Hà Tĩnh:
“Đảng Bộ Hà Tĩnh lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo theo tinh thần nghị
quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX”(Trần Thị
Mai Hương, năm 2003)
Những đề tài, công trình, bài viết nghiên cứu đã đánh giá tình hình tôn
giáo trên thế giới, cũng như Việt Nam và địa phương của từng tác giả nghiên
cứu nói riêng. Các công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của tôn
giáo, đặt vấn đề chính sách tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng địa phương khác
nhau và có nhiều ý kiến phong phú có thể tham khảo, học tập. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có công trình, luận văn, luận án nào đề cập trực diện vấn đề:
“Đảng Bộ Hà Tĩnh lãnh đạo thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước trong những năm đổi mới”. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc thành quả nghiên cứu của các công trình đã có và các

tài liệu liên quan đến luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta tại Hà Tĩnh trong những năm đổi mới. Qua những thành tựu thì
4


vẫn còn những hạn chế ở địa phương. Từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ Hà trong việc thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Quá trình đổi mới đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
trong những năm đổi mới và tác động đến đời sống – xã hội. Khái quát tình
hình kinh tế - văn hóa – xã hội và việc thực hiện chính sách tôn giáo ở Hà Tĩnh.
Phân tích tình hình thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước như
thế nào ở Hà Tĩnh?
Nêu giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng
và Nhà nước tại Hà Tĩnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình hoàn thiện chính sách và thực hiện chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách tôn giáo được thực hiện trong các
tôn giáo ở Hà Tĩnh, phương pháp và việc thực hiện các chính sách.
* Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: tỉnh Hà Tĩnh với chủ yếu hai tôn giáo lớn Phật giáo và Công giáo.
Thời gian: Trong thời kỳ đổi mới (1991 cho đến nay)
5. Cở sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về

tôn giáo.
Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các chính sách của Đảng và
Nhà nước về tôn giáo.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu: phương pháp chính trị học,
kết hợp tôn giáo học và xã hội học. Phương pháp logic, phân tích - tổng hợp,
lịch sử, so sánh - đối chiếu kết hợp với phương pháp qui nạp - diễn dịch.
5


6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn.
Trên cơ sở đánh giá, tổng kết thực tiễn việc thực hiện chính sách tôn giáo
tại Hà Tĩnh, luận văn đã rút ra một số kinh nghiệm, phương pháp nâng cao hiệu
quả trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo chung của Đảng và Nhà nước
hoặc địa phương khác tương tự.
7. Kết cấu của luận văn.
Kết cấu luận văn bao gồm: phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.

6


Chƣơng 1
BỐI CẢNH CỦA VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI VỀ
TÔN GIÁO Ở HÀ TĨNH
1.1. Quá trình đổi mới đƣờng lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nƣớc ta trong những năm đổi mới và tác động của nó đến đời sống và xã hội
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về tôn giáo
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, nó có
nguồn gốc từ những sự hạn chế của các mối quan hệ giữa con người với tự

nhiên và giữa con người với con người. Tác phẩm Chống Duyrinh chính là nơi
Ăngghen đã đưa ra những nhận định quan trọng vào loại bậc nhất của những
người cộng sản về vấn đề tôn giáo. Trong tác phẩm này, Người đã đưa ra định
nghĩa về tôn giáo, là “sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của
những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực
lượng siêu trần thế” [14; tr.437]. Còn Mác trong tác phẩm Góp phần phê phán
Triết học pháp quyền của Hêghen cũng đã khẳng định rằng “con người sáng tạo
ra tôn giáo”[15; tr.569] và trong lý luận nhận thức của Lênin : “từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là
con đường biện chứng để nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan”[35; tr.179], ta có thể nhận thấy rằng, tôn giáo là kết quả từ một sự phản
ánh của thế giới tự nhiên vào bộ não con người một cách sai lầm hoặc là một sự
phản ánh không toàn diện thế giới khách quan, khiến con người hiểu sai hoặc
không hiểu hết các hiện tượng trong tự nhiên. Cùng với những hạn chế mang
tính chất thời đại bắt nguồn từ một nền khoa học còn rất thô sơ, mang nặng tính
cảm tính, những phản ánh không đúng đắn này của nhận thức đã tạo nên những
rào cản giữa con người và sự thật khách quan của thế giới tự nhiên, dẫn đến
việc con người không thể trả lời được các câu hỏi về tự nhiên bí ẩn, và kết quả
cuối cùng là khiến con người phải tìm đến tôn giáo. Trong suốt giai đoạn đầu

7


của thời kỳ công xã nguyên thuỷ, tôn giáo vẫn chưa tồn tại, mà chỉ đến cuối
thời kỳ này, và sang thời kỳ cổ đại thì những tôn giáo đầu tiên mới bắt đầu hình
thành. Đó là do chỉ đến thời kỳ này con người mới có đủ những tri thức để xây
dựng, hoàn thiện hệ thống kinh sách và tín điều, mà quan trọng nhất là việc
xuất hiện chữ viết để ghi chép kinh sách. Khi xem xét những tôn giáo xuất hiện
trong thời kỳ này, ta nhận thấy chúng mang nhiều đặc điểm xuất phát từ những

tín ngưỡng rất sơ khai. Tôn giáo của người Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp - La Mã
hay Giéc-manh..., đều là những tôn giáo đa thần mang màu sắc tín ngưỡng “vạn
vật hữu linh”; các thần thánh đều đại diện cho những lực lượng thiên nhiên, và
“những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hoá một cách hết sức nhiều
vẻ và hết sức hỗn tạp”[14; tr.437]. Là đại diện cho những lực lượng tự nhiên
chi phối đời sống con người, thần thánh của các tôn giáo chi phối đời sống con
người. Và bắt nguồn từ đó, những lực lượng chỉ mang tính tự nhiên đã dần
mang tính xã hội. Và bắt nguồn từ đó, tôn giáo mang tính giai cấp. Trong góp
phần phê phán Triết học pháp quyền của Hêghen, Mác viết: “Sự nghèo nàn của
tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp
bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần
của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân”[15; tr.570]. Nhận định này đã toát lên đầy đủ tính xã hội của tôn giáo. Nó
là sự đền bù lại cho sự nghèo nàn của hiện thực xã hội - với những nghèo nàn
của tri thức để lý giải thế giới, tôn giáo lấp đầy vào đó bằng những huyền thoại:
thế giới được tạo thành ra sao ? mây, gió, sấm, chớp sự thực là thế nào ?... và
với những sự nghèo nàn trong đời sống do sự thấp kém của trình độ khoa học
kỹ thuật cùng sự bất công, bạo ngược của xã hội đương thời, tôn giáo như một
liều thuốc an thần xoa dịu những vết đau của con người, chính vì vậy Mác đã
nói: “Tôn giáo là thuốc phiện

của nhân dân” khi mà trong xã hội còn những

bất công, đói nghèo, lạc hậu cùng với đó là sự bí ẩn của thế giới mà con người
chưa thể nào giải thích nỗi và Từ điển triết học đã tổng kết quan điểm của chủ
8


nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo như sau: “Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo trong

đầu óc con người những lực lượng bên ngoài thống trị họ trong cuộc sống hàng
ngày, sự phản ánh trong đó các lực lượng trần thế mang hình thức các lực
lượng siêu phàm. Chủ nghĩa Mác coi tôn giáo là một hiện tượng xã hội chế
định và vì vậy là một hiện tượng nhất thời trong lịch sử. Trong suốt một thời kỳ
lịch sử lâu dài của loài người, người ta không hề biết đến một tôn giáo nào cả.
Tôn giáo xuất hiện trong một giai đoạn nhất định của chế độ công xã nguyên
thủy với tư cách là sự phản ánh tình trạng bất lực của con người trước các lực
lượng khủng khiếp và bí ẩn của tự nhiên” [49; tr.588]. Tuy vậy, tôn giáo trong
thời kỳ xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại vì nền tảng của nó là những câu hỏi về thế
giới vẫn chưa thể có được đầy đủ tất cả các câu trả lời xác đáng. Khoa học hiện
nay đang tiến nhanh như vũ bão, nhưng khoa học càng phát triển thì nhân loại
càng nhận ra rằng những kiến thức của mình về thế giới là quá nhỏ, và còn quá
nhiều vấn đề cần phải giải quyết và tìm hiểu. Do đó, những bí ẩn của thế giới
không thể được giái quyết một cách nhanh chóng trong một thời gian ngắn; tức
là những cơ sở về nhận thức và tâm lý của tôn giáo vẫn còn có thể tồn tại trong
lòng xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng
như giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa vẫn chưa
thể phủ định hoàn toàn nền kinh tế thị trường nhiều thành phần; nên trong xã
hội vẫn tồn tại những giai cấp, tầng lớp khác nhau, vẫn tồn tại sự phân biệt về
địa vị và quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Do đó áp bức, bất công,
sự ngẫu nghiên, may rủi... vẫn tồn tại, và vẫn kéo theo niềm tin vào một đấng
siêu nhiên nào đó đang định đoạt số phận con người. Tôn giáo đã tồn tại trong
xã hội suốt hàng ngàn năm, và đã ăn sâu bám chặt vào nếp sống, nếp nghĩ của
con người do đó cách nhìn nhận các nguyên tắc của tôn giáo vẫn có những giá
trị nhất định trong xã hội chủ nghĩa, như nguyên tắc yêu thương, nhân đạo,
nhân ái của đạo Phật hay đạo Kitô. Và trên cơ sở đó, “nhà nước xã hội chủ
nghĩa làm cho người có đạo hiểu rằng, niềm tin tôn giáo chân chính không đối
lập với chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, và chủ nghĩa xã hội đang hiện
9



thực hoá lý tưởng của chủ nghĩa nhân đạo trong cuộc sống của mỗi người dân”
[28; tr.233]. Tôn giáo có khả năng tự biến đổi mình cho phù hợp với hoàn cảnh
mới. Như Kitô giáo ban đầu là vũ khí đấu tranh của tầng lớp nô lệ và dân nghèo
chống lại quý tộc Roma, thì ngày nay Kitô giáo cũng hoàn toàn có thể trở lại vị
trí là một hoạt động văn hóa tinh thần của quần chúng nhân dân, phục vụ lợi ích
của quần chúng nhân dân, theo xu hướng đồng hành với dân tộc “sống tốt đời
đẹp đạo”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, và chúng ta không thể phủ nhận
những giá trị văn hoá tinh thần tích cực của các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo,
các lễ hội dân gian đã trở thành một nét truyền thống của cộng đồng làng xã
Việt Nam, là bản sắc văn hoá của dân tộc. Các tôn giáo có ý nghĩa cao về giáo
dục đạo đức, lối sống, như “Mười điều răn” của đạo Kitô hay “Bát chính đạo”
của đạo Phật... Bởi vậy việc lưu giữ và bảo tồn các khía cạnh văn hoá và tích
cực của tôn giáo là một yêu cầu, và là một yêu cầu chính đáng.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hội nhập kinh tế, sự phát triển
của khoa học kỉ thuật những bí ẩn của thế giới làm cho con người thấy hiểu biết
của mình thật nhỏ bé nhiều hiện tượng xảy ra xung quanh vẫn chưa có lời giải
đáp. Chính vì vậy, dù trong thời đại nào thì tôn giáo vẫn luôn tồn tại như một
phần đời sống tinh thần, tín ngưỡng của con người. Vì vậy, tôn giáo luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, và để giải quyết vấn đề tôn giáo cần phải tuân
theo những nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, những mặt tiêu cực của tôn giáo phải bị khắc phục và đẩy lùi,
dần đến chỗ xoá bỏ hoàn toàn chúng. Đây là một nguyên tắc nhưng cũng là yêu
cầu quan trọng nhất cần phải quán triệt trong công tác giải quyết vấn đề tôn
giáo của những người cộng sản. Chỉ có thế tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin
- tư tưởng khoa học chân chính, chủ đạo trong chủ nghĩa xã hội mới có thể đi
sâu vào quần chúng nhân dân, mới tạo được nền tảng cơ sở vững chắc cho công
cuộc xây dựng xã hội

mới.


Thứ hai, phải tuyệt đối không được sử dụng các biện pháp bạo lực để xoá
bỏ tôn giáo. Vi phạm nguyên tắc này là cố tình đẩy xã hội tới chỗ phân chia,
10


đẩy những người theo đạo vào chỗ buộc phải chống lại chính quyền nhân dân.
Vi phạm nguyên tắc này cũng là đi ngược lại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vi
phạm nghiêm trọng tới quyền thiết yếu nhất của con người: quyền được tự do;
và trong đó có quyền được tự do theo hay không theo một tôn giáo. Chính
quyền nhân dân nào vi phạm nguyên tắc này thì không còn là chính quyền của
nhân dân nữa, tổ chức đảng nào vi phạm nguyên tắc này thì không còn là đảng
cộng sản nữa. Bên cạnh đó, cần phải không ngừng phát huy những giá trị tốt
đẹp, tích cực của tín ngưỡng tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa; cần phải
nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
Thứ ba, cần không ngừng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó
có cả mối liên hệ giữa người theo đạo và những người không theo đạo. Đó là yêu
cầu hàng đầu để xây dựng đất nước và xã hội, nhưng cũng là một cách thức quan
trọng để những người theo đạo hoà nhập vào với cuộc sống tích cực của xã hội,
để họ dần nhận ra rằng cuộc sống hiện tại là quan trọng nhất, để giúp họ chủ
động tham gia vào các hoạt động xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc; chứ
không phải luôn trong trạng thái thụ động, tiêu cực vì chỉ quan tâm tới việc sống
sao bây giờ cho mai sau đến được với “nước Thiên Đường” hay “cõi Niết bàn”.
Thứ tư, không ngừng thực hiện công tác giáo dục tuyên truyền, giúp quần
chúng nhân dân hiểu nắm được những lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác Lênin, từ đó mà nhận ra được rằng những tư tưởng duy tâm là hoàn toàn không
có căn cứ. Việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học cũng như thế giới quan
duy vật không chỉ đẩy lui những sai lầm trong nhận thức của tư duy tôn giáo,
mà chủ yếu là góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân.
Thứ năm, phải kết hợp nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
nhân dân theo đạo với nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống những thế lực phản

động lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, để tuyên truyền
chống phá cách mạng. Cuộc đấu tranh này vừa phải khẩn trương, kiên quyết
vừa phải thận trọng và có sách lược đúng, nếu không sẽ dễ dàng bị nhìn nhận là
chính sách đàn áp tôn giáo.
11


Thứ sáu, phải giải quyết vấn đề tôn giáo trên lập trường quan điểm lịch sử,
tức là phải nhìn nhận vai trò, tác động của tôn giáo tới đời sống xã hội trong
từng thời kỳ lịch sử khác nhau là có thể rất khác nhau. Bởi vậy mối quan hệ với
tôn giáo cũng cần phải rất linh hoạt và mềm dẻo: có những thời điểm phải biết
sử dụng tôn giáo như một thứ vũ khí lợi hại để chống lại những kẻ thù chung
của cả dân tộc, như cuộc đấu tranh của Phật tử chống lại chính sách đàn áp tôn
giáo của chính quyền Nguỵ quyền Sài Gòn; nhưng trong thời điểm khác phải
đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, đưa
tôn giáo tới “cái chết tự nhiên của nó”[14; tr.439]. Tuy nhiên, trong lịch sử
cùng với sự phát triển của thời đại, tôn giáo vẫn luôn có sự tồn tại vĩnh cửu của
nó cần có những cái nhìn đúng đắn và chính sách phù hợp để những điểm tích
cực của tôn giáo được phát huy góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay và những quan điểm tôn giáo của chủ nghĩa Mác
- Lênin là nền tảng cho Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách tôn giáo
trong thời kỳ đổi mới.
1.1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về tôn giáo
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương
giáo đoàn kết”[30; tr.9] do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào
sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi, giành độc lập thống nhất
hoàn toàn cho đất nước. Hồ Chí Minh cho rằng: “Lực lượng toàn dân là lực
lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” [30; tr.20].
Đoàn kết toàn dân, trong đó có đoàn kết dân tộc và tôn giáo là yếu tố cơ bản
đưa tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy nằm trong chiến lược

đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết lương
giáo là đoàn kết lâu dài và toàn diện, là vấn đề chiến lược. Thái độ chân tình,
cởi mở bao dung và luôn thấu hiểu nỗi trăn trở, suy tư của đồng bào của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng tín đồ các tôn giáo. Sau
khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc
hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
12


Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có quyền “tự do tín ngưỡng”. Ngày 14
tháng 6 năm 1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL quy định
những hoạt động tôn giáo trong chế độ mới, được đồng bào theo và không theo
tôn giáo nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ. Năm 1958, khi trả lời câu hỏi của
các cử tri Hà Nội: “Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế
không?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa nhắc lại thái độ của người cộng
sản đối với tôn giáo: “Không, ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn
toàn tự do. Ở Việt Nam ta cũng vậy” [31; tr.176]. Người nêu rõ những giá trị
đạo đức và văn hóa nhất định của tôn giáo: “Chúa Giê-su dạy: Đạo đức là bác
ái; Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi; Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân
nghĩa”. Chính những quan điểm đúng đắn ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và tôn giáo đã bác bỏ luận điệu tuyên truyền rằng: Chủ nghĩa xã
hội không phù hợp với nền văn minh Ki-tô giáo; chủ nghĩa xã hội hạn chế,
thậm chí không chấp nhận chung sống với tôn giáo... và giải tỏa nỗi lo lắng,
ngờ vực trong cộng đồng Công giáo khi bước vào công cuộc xây dựng xã hội
mới. Hồ Chí Minh thường nhắc nhỏ đồng bào và chiến sĩ cả nước phải “quan
tâm, chăm sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Mong
sao sản xuất ngày càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng
được yên vui”[29; tr.15]. Hồ Chí Minh coi tôn giáo là một yếu tố cấu thành và
là di sản văn hóa của nhân loại. Có được sự nhìn nhận ấy phải là con người đã
trải qua một quá trình trải nghiệm trong thực tiễn cách mạng và sự am hiểu các

tôn giáo một cách tường tận, để khái quát, chắt lọc những giá trị tinh túy của nó
nhắm tiếp thu, kế thừa. Tôn trọng, chấp nhận sự khác biệt về nhận thức, tư
tưởng; tìm ra và phát huy điểm tương đồng, mẫu số chung về mục tiêu, lý
tưởng tốt đẹp để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ cao cả của dân tộc luôn được
Hồ Chí Minh chú ý. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn
giáo với dân tộc một cách giản dị, dễ hiểu nhưng rất độc đáo và sâu sắc: kính
Chúa gắn liền với yêu nước, phụng sự Thiên chúa và phụng sự Tổ quốc, nước
có vinh thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì tín ngưỡng mới được tự do. Theo
13


quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với người có tôn giáo thì đức tin tôn
giáo và lòng yêu nước không hề mâu thuẫn. Một người dân Việt Nam có thể
vừa là một người dân yêu nước, đồng thời cũng vẫn là một tín đồ chân chính.
Tôn giáo với dân tộc Hồ Chí Minh xem xét giải quyết trên tinh thần của khối
đại đoàn kết toàn dân. Tôn giáo chỉ có thể khẳng định được mình khi sống giữa
lòng dân tộc và dân tộc trên con đường phát triển cần biết phát huy những giá
trị tích cực của các tôn giáo.
1.2. Vài nét về đời sống tôn giáo và những quan điểm, chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong những năm đổi mới
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, với lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, có 54 dân tộc anh em, điều kiện tự
nhiên thuận lợi cho sự du nhập của tôn giáo ngoại sinh nên Việt Nam là
nước đa tôn giáo. Có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như:
Phật giáo, Lão Giáo, Nho Giáo. Có tôn nguồn gốc từ phương Tây như: Thiên
Chúa giáo, Tin lành. Có tôn giáo nội sinh (sinh ra ở Việt Nam) như đạo Cao
Đài, Phật giáo Hòa Hảo. Ước tình có khoảng 80% dân số Việt Nam có đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, trên cả nước có hơn 23 triệu tín đồ với
6 tôn giáo lớn đang hoạt động bình thường và được Nhà nước công nhận đó
là: Phật giáo, Công giáo; Đạo tin lành; Đạo cao đài; Đạo hồi, Phật giáo Hòa

Hảo. Tuy vẫn có hoạt động tôn giáo trái pháp luật, lợi dụng chức sắc, tín đồ
tôn giáo chống phá nhà nước, gây mất đoàn kết trong nhân dân. Nhưng nhìn
chung trong thời gian qua tình hình tôn giáo nước ta ổn định, hoạt động tôn
giáo cơ bản tuân thủ pháp luật. Các tôn giáo tập trung củng cố tổ chức, nhân
sự, xây dựng, sữa chữa cơ sở thờ tự, in ấn kinh sách, tăng cường hoạt động
nhân đạo, từ thiện trên các lĩnh vực như giáo dục, y tế... Trải qua các giai
đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là
vấn đề chiến lược và có ý nghĩa rất quan trọng.
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
ta đã kịp thời tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả công tác tôn giáo; trên cơ
14


sở đó tiếp tục hoàn thiện những chủ trương, chính sách đối với tôn giáo, nhằm
đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế, thể hiện qua các quan điểm:
Một là, khẳng định tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài Trong chế độ xã hội
chủ nghĩa, các nguồn gốc nảy sinh tôn giáo vẫn tồn tại và tác động thường
xuyên tới sự phát triển của các tôn giáo. Do không nhận thức đúng đắn quy luật
này, cộng với những mặc cảm, định kiến về tôn giáo, nên trước đây đã có nơi,
có lúc, chúng ta có chủ trương, biện pháp đối xử thô bạo với tôn giáo, tìm cách
thu hẹp, hạn chế các hoạt động tôn giáo. Vì vậy đã gây căng thẳng trong quan
hệ giữa chính quyền với tôn giáo, làm mất lòng tin của quần chúng tín đồ, chức
sắc các tôn giáo với Đảng và Nhà nước. Để chấn chỉnh, khắc phục những lệch
lạc trên, một số nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Quan điểm này là cơ sở cho việc
xem xét, giải quyết các vấn đề tôn giáo ở nước ta hiện nay, đòi hỏi chúng ta
phải có thái độ bình tĩnh, khách quan trong khi xem xét, giải quyết các hoạt
động tôn giáo; đảm bảo cho các tôn giáo ở Việt Nam sinh hoạt một cách bình
thường, tuân thủ pháp luật, đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan

điểm này cũng yêu cầu các cấp, các ngành và mọi cán bộ đảng viên phải khắc
phục tư tưởng chủ quan, nóng vội trong giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn
giáo nói chung, với hoạt động tôn giáo nói riêng.
Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Đảng luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn giáo và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng. Chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, đồng thời
chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc và
nhân dân.
Ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với sự nghiệp xây dựng xã
hội mới. Trong quá trình ra đời, tồn tại và phát triển, tôn giáo nào cũng có hai
mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực thể hiện ở chỗ răn, dạy tín đồ hướng
thiện, làm điều lành, tránh điều ác. Còn mặt tiêu cực thể hiện ở chỗ làm cho con
15


người sống an phận và chấp nhận “sự an bài”, thậm chí hạn chế họ tham gia
vào quá trình cải tạo thực hiện xã hội bằng các phương pháp cách mạng.
Bốn là, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín
ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn
giáo phá hoại cách mạng.
Năm là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng, công tác đối với con người. Trong công tác này phải quan tâm đến các
lợi ích thiết thân, chính đáng của quần chúng tín đồ nói chung, chức sắc, chức
việc nói riêng làm cốt lõi...
Sáu là, làm tốt công tác đối với tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc”[59;
tr.48].Đến năm 1990, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự đổi mới mạnh mẽ trong
chính sách đối với tôn giáo qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-10-1990
của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) "Về tăng cường

công tác tôn giáo trong tình hình mới", xác định “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại
lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”,
“các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân
tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức
phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà
nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động”. Kể từ sau
Nghị quyết 24 – NQ/TW, Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác khẳng định và
phát triển tư duy đổi mới về tôn giáo: Chỉ thị 37 – CT/TW ngày 2-7-1998 của
Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Ngày 12-3-2003, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo đã ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo. Văn kiện đã trở thành nền tảng chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới...
với nội dung nêu rõ:
16


Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm
tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Như vậy trong khi các nhà kinh điển nhấn mạnh “tôn giáo là một hiện
tượng lịch sử chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định” thì nhà nước ta
vẫn khẳng định “tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài”. Nghị quyết Trung
ương 7 về công tác dân tộc và tôn giáo năm 2003 ghi nhận thêm một bước tiến
trong nhãn quan của nha nước ta về vai trò của tôn giáo. “Tín ngưỡng, tôn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ những nhận thức mới về công tác tôn giáo của Đảng ta, Nhà nước ta đã

có sự đổi mới trong chính sách tôn giáo. Có thể xem Nghị định số 69/NĐHĐBT ngày 21-3-1991 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định về các hoạt động tôn
giáo là văn bản mở đầu đến Nghị định liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của cơ quan có tầm quan trọng bậc nhất về quản lý nhà nước về
tôn giáo là Ban Tôn giáo của Chính phủ (1993), Nghị định 26/NĐ-CP ngày 194-1999 của Chính phủ Về các hoạt động tôn giáo, Đặc biệt, lần đầu tiên Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo. Ngày 1-32005, Chính phủ ban hành nghị đinh số 22/2005/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành
một số điều của Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, Thủ tướng Chính phủ ra
Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về Một số công tác đối với đạo Tin Lành. Tiếp đó
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 4-2006) tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào
theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo
tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo.
17


×