BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VIẾT TRƯỜNG
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP
CƠ SỞ Ở HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Vinh, 2010
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN VIẾT TRƯỜNG
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP
CƠ SỞ Ở HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành
: Lý luận và phương pháp dạy học
bộ môn Giáo dục chính trị
Mã số 60.14.10
Người hướng dẫn: Tiến sỹ Đinh Thế Định
Vinh, 2010
2
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LÀ MỘT TẤT
5
YẾU KHÁCH QUAN
1.1. Lí luận chính trị và giáo dục lí uận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở
5
1.2 Thực trạng công tác giáo dục lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
22
1.3 Vai trò và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lí luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
42
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÍ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH
HIỆN NAY
55
2.1 Quan điểm về giáo dục lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
55
2.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trình độ lí luận cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
KẾT LUẬN
DAMH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
63
79
81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất
bại của sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém”. Đảng ta khẳng định, cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên
nhân, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Mỗi giai đoạn
cách mạng cần có đội ngũ cán bộ phù hợp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của
giai đoạn cách mạng đó.
Đất nước ta đang chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phấn đấu
đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, mô hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta chưa có tiền lệ trong lịch sử, vừa
thực hiện vừa tổng kết rút kinh nghiệm, cùng với việc đất nước hội nhập sâu
vào thế giới, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp,
thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen, tác động lẫn nhau đang
đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi rất cao cho đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn mới hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi
cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực…
phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nhiệm
vụ của hệ thống chính trị là phải nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ,
đảng viên, nhất là về trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở.
Thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay nói chung
và ở Hà Tĩnh nói riêng đa số trưởng thành từ thực từ phong trào, họ ít được
đào tạo lý luận chính trị một cách bài bản, nặng về kinh nghiệm, trình độ lý
4
luận chính trị hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của địa phương.
Trong khi đó, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở chính là những người trực tiếp đưa,
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ở
cơ sở và mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều
được thiển khai thực hiện và kiểm nghiệm từ cơ sở. Vì vậy, để xây dựng
được một đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ngang tầm, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì một
trong những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ là phải nâng cao trình độ lý luận
chính trị.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu đề tài: “Nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn
hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị đã có nhiều công
trình nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ. Tiêu biểu là các công trình: Đề
tài 0206-KHXH: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện
thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý trong thời kỳ phát triển mới của tỉnh Hà Tĩnh. Cơ
quan Chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ biên: Nguyễn Thiện. Tháng
6/2006. Đề tài này đã đề cập được một số vấn đề về lý luận, tầm quan trọng
và vai trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là trình độ lý luận
chính trị của cán bộ, nhưng là diện cán bộ cấp huyện.
- Đỗ Cao Quang: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay, Luận án thạc sỹ, mã số: LA MSR-140
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996. Luận văn này đã cung
cấp một cách tương đối đầy đủ về việc nâng cao trình độ tư duy lý luận của
cán bộ cấp cơ sở, nhưng chưa đầy đủ, đang mang nặng khai quát và nêu lên
nhưng đặc thù khó khăn của miền núi, như văn hoá, trình độ, yêu cầu. Chưa
làm rõ được trước yêu cầu hội nhập, đổi mới, cán bộ cơ sở cần có những yêu
cầu cơ bản nào, phương pháp tiếp cận mới trong việc dạy và học tập lý luận
chính trị...
- Vũ Ngọc Am: Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán
bộ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia năm 2003. Một số vấn đề về đổi mới
5
phương pháp giáo dục lý luận chính trị, Nxb Thông tấn 2009. Hai cuốn sách
này mới chỉ nêu chung chung về phương pháp giáo dục chính trị tư tưởng.
Tập trung đưa ra một số giải pháp cơ bản trên cơ sở nghiên cứu lý luận và
yêu cầu chung.
- Ban Tuyên giáo TW: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương
pháp giảng dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính
trị tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội, năm 2008.
Cuốn sách này chỉ tập trung nêu các phương pháp giảng dạy lý luận, tập trung cho
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, nội dung còn phiến diện, chung chung,
chủ yếu vào một số chuyên đề và các bài giảng dạy bồi dưỡng kết nạp Đảng và bồi
dương cho Đảng viên mới...
Nhìn chung chưa có một đề tài nào hoàn chỉnh từ cơ sở lý luận, thực tiễn và
hệ thống giải pháp khoa học, đồng bộ cho vấn đề nâng cao trình độ giáo dục lý
luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở. vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay còn là mảng trống cần
được quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Đưa ra một giải pháp hoàn chỉnh, góp phần nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Hà Tĩnh hiện nay. Từ đó vận dụng
có hiệu quả vào công tác ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ bản chất đặc trưng của lý luận chính trị, tầm quan
trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lý luận chính cho đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng trình độ lý luận chính trị, quá trình bồi
dưỡng trình độ lý luận chính trị cho cán bộ ở Hà Tĩnh và nguyên nhân của
thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu khả thi nhằm nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay ở Hà Tĩnh.
6
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân, giải pháp nâng cao trình độ lý
luận chính trị trong đội ngũ cán bộ ở cơ sở trên địa bàn Hà Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng ta về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ.
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, v.v..
6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể tham khảo vận dụng trong việc
nghiên cứu để xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch đào tạo lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt ở cơ sở; xác định mục tiêu, phương pháp đào tạo, đổi mới
nội dụng, phương pháp giảng dạy lý luận chính trị ở các trường chính trị, các
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện… nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài có cấu trúc
gồm 2 chương.
- Chương 1: nâng cao trình độ lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan.
- Chương 2: Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ lí luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
7
CHƯƠNG 1
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LÀ
MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN
1.1. LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
1.1.1. Lý luận chính trị
V.I Lênin đã khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lí luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [24,
tr.32]. Do đó, khi nói đến Đảng chính trị là đồng thời nói đến hệ thống lí luận
chính trị của Đảng ấy. Vậy lí luận chính trị là gì? Để hiểu bản chất của lí luận
chính trị, cần phải nghiên cứu khái niệm “lí luận” và “chính trị”.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về lí luận. Lí luận là một phạm trù
rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Vì
thế, khái niệm lí luận ngày càng được hiểu một cách đầy đủ hơn.
Từ điển triết học, định nghĩa: “Lí luận là sự tổng hợp các tri thức về tự
nhiên và xã hội tích luỹ được trong quá trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng
chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức” [54, tr.526].
Từ điển Tiếng Việt viết: “Lí luận là hệ thống những tư tưởng được khái
quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lí luận là những
kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó” [52, tr.544 545].
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi trọng lí luận. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I
Lênin: “Không có lí luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và
theo Người thì lí luận “Là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là
tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử” [44, tr. 497].
Như vậy, lí luận được hình thành từ thực tiễn trên cơ sở khái quát
những kinh nghiệm của hoạt động thực tiễn phong phú, đa dạng của con người.
8
Quan niệm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra đã góp phần làm sáng tỏ
quan niệm triết học về lí luận, nêu ra nguồn gốc, cách thức, con đường hình
thành lí luận.
Lí luận thường được hiểu là những tri thức và kinh nghiệm được khái
quát tích luỹ từ thực tiễn. Lí luận được truyền bá, vận dụng trong thực tiễn và
luôn được bổ sung, phát triển làm cho phong phú hơn. Lí luận phản ánh mối
liên hệ bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật
hiện tượng trong thế giới khách quan.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lí luận nhưng đều thống nhất
ở chỗ: Lí luận là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các
tri thức về tự nhiên xã hội được tích luỹ trong quá trình hoạt động lịch sử của
con người; là phản ánh bản chất, tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong
một lĩnh vực nào đó của hiện thực khách quan và có vai trò hướng dẫn hoạt
động thực tiễn.
Thật vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người buộc
phải khám phá, tìm hiểu, nhận thức về thế giới. Nhưng những tri thức về thế
giới phải thông qua hoạt động thực tiễn con người mới có nhận thức và hiểu biết.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận
thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh
nghiệm; sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tựơng hoá … để xây dựng thành lí luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật
vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới. Con người quan hệ với thế
giới bắt đầu không phải bằng lí luận mà bằng thực tiễn. Chính trong quá trình
hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lí luận của con người mới
được hình thành và phát triển. Lí luận là cấp độ phát triển cao của quá trình
nhận thức, là sự phản ánh hiện thực khách quan ở trình độ cao.
Lí luận được hiểu theo nghĩa chung nhất là hệ thống những tri thức
phản ánh các mối liên hệ bản chất và tính quy luật của các sự vật hiện tượng,
được con người tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn và có vai trò
hướng dẫn hoạt động thực tiễn.
9
Lí luận ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể khác nhau đều phải có lí luận riêng và mỗi
ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể muốn phát triển được đều phải bắt đầu
bằng việc phát triển lí luận. Có lí luận trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, lí luận
trong lĩnh vực khoa học xã hội, lí luận trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, lí
luận trong lĩnh vực kinh tế, lí luận chính trị …
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Chính trị là một hiện
tượng lịch sử xuất hiện và tồn tại khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành
Nhà nước. Chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó
cũng là lĩnh vực hoạt động phức tạp luôn thu hút các nhà tư tưởng đi vào suy
nghĩ, khám phá, cố gắng làm sáng tỏ bản chất đầy bí ẩn của chính trị. Có
nhiều quan điểm khác nhau về chính trị.
Chính trị theo tiếng Hi Lạp là “Politics” có nghĩa là những việc liên
quan đến thành bang, những công việc quốc gia. Trong đó điều cốt lõi nhất,
quan trọng nhất, thực chất nhất là tổ chức ra cơ quan cai trị hay là Chính phủ.
Sau này từ thế kỷ XVI trở đi gọi là Nhà nước [4, tr.7].
“Chính trị - theo nguyên nghĩa của nó là những công việc Nhà nước, là
phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã
hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực
Nhà nước” [1, tr.507].
Lênin cũng khẳng định “chính trị với nghĩa là công việc Nhà nước, là
việc vạch hướng đi cho Nhà nước, là việc xác định hình thức, nhiệm vụ, nội
dung của Nhà nước” [27, tr.404]. Hơn nữa chính trị là mối quan hệ giữa các
giai cấp, là đấu tranh giai cấp trong giành, giữ, thực thi quyền lực Nhà nước
và suy cho cùng là vấn đề lợi ích kinh tế. V.I Lênin nêu ra một nguyên tắc cơ
bản trong chính trị mà những người cộng sản phải quán triệt và đó cũng chính
là bản chất của chính trị là: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”
[30, tr.349]. Có nghĩa, chính trị do kinh tế quyết định. Các tổ chức chính trị,
các hình thức Nhà nước muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên một cơ sở
kinh tế của xã hội. Có thể nói, kinh tế là nguồn gốc, là cơ sở của chính trị. Chế
độ chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng và phải thích ứng với cơ sở kinh tế.
10
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì sẽ giữ địa vị
thống trị xã hội về chính trị.
Là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song chính trị không phải là “bản
sao”, không phải là biểu hiện thụ động, không phải là “cái gương soi” của
kinh tế. Ngược lại, chính trị có tính độc lập của nó và tác động trở lại mạnh
mẽ đến kinh tế. Nó định hướng cho sự phát triển, lựa chọn các mô hình và
điều tiết sự phát triển của kinh tế. Chính trị thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển
của kinh tế, thâm nhập và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì lẽ đó,
V.I Lênin đã khẳng định: Chính trị không thể chiếm vị trí ưu tiến so với kinh
tế. Ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho việc giành lấy quyền lực chính trị và
cho xây dựng các quyết sách chính trị đúng. Kinh tế phát triển phải thông qua
chính trị, thông qua hệ thống đường lối, chính sách pháp luật, quyền lực Nhà
nước và giai cấp nào muốn lãnh đạo kinh tế phát triển, đạt mục tiêu, lợi ích đề
ra thì không được sai lầm về chính trị. Chính trị phục vụ cho lợi ích của giai
cấp thống trị, đồng thời luôn tìm cách dẫn dắt xã hội theo tư tưởng chính trị
của giai cấp cầm quyền. Chính trị mang trong nó yếu tố năng động đặc biệt và
không có một công thức, cách thức chung duy nhất nào. Chính trị không phải
là con đường thẳng, thuận lợi dễ đi. V.I Lênin cho rằng: “Chính trị giống đại
số hơn là số học, càng giống toán học cao cấp hơn là toán học sơ cấp”, “Chính
trị là vận mệnh thực tế của hàng triệu con người” [28, tr.150].
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, nó có quan
hệ chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của con người, biểu hiện lợi ích kinh tế
nhất định của các tầng lớp dân cư trong xã hội, gắn liền với vận mệnh của
nhân dân. Chính trị được đưa vào thực tiễn cuộc sống nhờ hệ thống thiết chế
chính trị, Đảng phái chính trị, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội.
Tuỳ theo cách thức tiếp cận mà có những quan niệm khác nhau về
chính trị, song theo nghĩa chung nhất, chính trị được hiểu là đại diện của các
quan hệ giữa các giai cấp, quan hệ về giai cấp mà cốt lõi là quan hệ giai cấp
về kinh tế. Mục đích của chính trị là vấn đề chính quyền sẽ thuộc về tay giai
cấp nào, chính Đảng nào.
Từ sự phân tích nêu trên về khái niệm lí luận và khái niệm chính trị, có
thể khái quát chung về khái niệm lí luận chính trị như sau: Lý luận chính trị là
11
lí luận trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp
và đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất
định trong xã hội. Lí luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước.
Đảng Cộng Sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Đồng thời, căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong
từng giai đoạn cách mạng, Đảng xác định cho mình những quan điểm cơ bản
chỉ đạo hành động và lãnh đạo quần chúng, xây dựng nên một hệ thống quan
điểm tư tưởng, lý luận là những chủ trương, đường lối, chính sách ...
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đối
với Đảng ta hiện nay, lý luận chính trị của Đảng bao gồm: Lý luận về chủ
nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; về nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về giai cấp đặc biệt là giai cấp công
nhân và đấu tranh giai cấp; về xây dựng Nhà nước, xây dựng Đảng trong điều
kiện hiện nay của Việt Nam, về dân tộc, tôn giáo, con người...
Nghị quyết hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đề
ra nhiệm vụ, giải pháp đối với công tác lí luận trong tình hình mới bao gồm
những vấn đề sau:
“- Nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin,
làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề cần
bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thời đại; đẩy
mạnh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh…
- Tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tập trung vào các vấn đề: độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; phát huy và thực
hành quyền dân chủ của nhân dân; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân…
12
- Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, về đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, về thực thi và phát huy dân chủ trong Đảng,
nâng cao tầm trí tuệ và văn hoá, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
- Nghiên cứu sự phát triển văn hoá và con người Việt Nam về lí tưởng,
đạo đức, lối sống, đặc biệt đối với thế hệ trẻ. Nghiên cứu những vấn đề mới
trong lí luận và phê bình văn học, nghệ thuật phù hợp với quá trình phát triển,
đồng thời phê phán, đẩy lùi các khuynh hướng, quan điểm lệch lạc, sai trái.
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn về chiến lược bảo vệ tổ
quốc trong tình hình mới; đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nước
và nhân dân; những vấn đề đặt ra trong trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận
trong thời kỳ mới.”
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thời đại ngày nay và của thế giới
đương đại. Chủ động nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển,
các trào lưu lí luận và các thành tựu khoa học xã hội thế giới.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục lí luận trong hệ thống các
trương chính trị, cấc trường đại học, cao đảng và trung học chuyên nghiệp
trong cả nước; khắc phục sự lạc hậu của chương trình, nội dung, phương pháp
dạy và học, bảo đảm tình cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn
Việt Nam….”[18.tr.9].
Do đó, có thể hiểu bản chất lý luận chính trị của Đảng ta hiện nay là:
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường
lối, chính sách Đảng, pháp luật của nhà nước.
Học tập lý luận chính trị, bồi dưỡng, giáo dục lý luận chính trị chính là
nhằm xây dựng, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm đường lối của Đảng, hình thành hệ giá trị cách mạng và
khoa học trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội.
1.1.2. Đặc trưng của lí luận chính trị của Đảng ta.
Một là, tính trừu tượng và tính khái quát hoá cao
Để xây dựng hệ thống lí luận, trong quá trình nhận thức, tư duy con
người luôn diễn ra quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá hững tri thức thu
13
được về thế giới, những quy luật vận động và phát triển của các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội.
Các hình thức thể hiện lí luận nói chung, lí luận chính trị nói riêng như
khái niệm, nguyên lí, quy luật, phạm trù … đều là kết quả của quá trình trừu
tượng hoá, khái quát hoá cao của tư duy con người trong quá trình nhận thức
thế giới.
Nhờ có đặc trưng trừu tượng hoá, lí luận hướng con người vào việc tìm
ra chân lí, nắm bắt những mối quan hệ khách quan có tính bản chất, phát hiện
ra các quy luật chi phối sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong
thế giới. Khái quát hoá giúp cho con người xây dựng các khái niệm, phạm trù,
từ đó xây dựng nên các lí thuyết khoa học. Khái quát hoá được thực hiện trên
cơ sở một số thuộc tính, đặc tính quan trọng nào đó đã được tư duy trừu tượng
tách ra khỏi những thuộc tính, đặc tính khác. Từ những thuộc tính đã được
trừu tượng hóa, tư duy đi đến khái quát thành cái chung bản chất, mang tính
quy luật.
Mang đặc trưng tính trừu tượng hoá và khái quát hoá cao nên lí luận, lí
luận chính trị là hệ thống tri thức đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc
về bản chất, tính quy luật các mối liên hệ tất nhiên … trong sự vận động và
phát triển của sự vật hiện tượng và do đó giúp cho con người có thể tiếp cận
bản chất sâu xa của sự vật vốn thường bị che lấp bởi các hiện tượng ngẫu
nhiên, đơn lẻ, bề ngoài; giúp cho con người không ngừng khám phá thế giới,
đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.
Hai là, tính chính xác và logíc chặt chẽ
Tính thống nhất và chặt chẽ về lôgíc với tính chính xác và độ tin cậy
cao của lí luận khoa học nói chung, lí luận chính trị nói riêng thể hiện ở chổ
các khái niệm, nguyên lí, phạm trù, quy luật … phản ánh các mặt, các yếu tố,
các quá trình … khác nhau của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
nhưng chúng có mối liên hệ, quan hệ biện chứng, hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Do đó, một lí luận trong đó có lí luận chính trị muốn trở thành lí luận khoa
học phải là một hệ thống mang tính chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất, không thể
là sự tuỳ tiện, chắp vá, cắt xén với khả năng phản ánh chính xác sự vật hiện
14
tượng như nó đã hình thành, tồn tại, vận động, phát triển; dự báo được xu
hướng vận động và phát triển của sự vật.
Lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lí luận điển hình về tính
chính xác và lôgic chặt chẽ. Vì thế, nó trở thành khoa học về những quy luật
chung, phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Một lí luận mang tính chính xác và lôgic chặt chẽ sẽ có tác dụng tích
cực đối với hoạt động thực tiễn của con người, sẽ được con người, cộng đồng,
nhất là các lực lượng cách mạng nhanh chóng tiếp thu, ủng hộ.
Ba là, tính liên hệ, thống nhất với thực tiễn
Quan hệ giữa lí luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
của lí luận khoa học nói chung và chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, lí luận thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh
thần, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất, là sản xuất là cuộc đấu tranh
để bảo vệ sự tồn tại của con người trước thiên nhiên và xã hội. V.I Lênin
khẳng định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểm không những của
tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [26, tr.230].
Lí luận bắt nguồn từ thực tiễn, lí luận có tồn tại, có sức sống hay không
phụ thuộc ở mức độ phù hợp ở vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn, giải quyết
những vấn đề của đời sống thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển
buộc lí luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được bổ
sung, phát triển, đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để làm cho tri
thức lí luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn
đời sống thực tiễn.
Tuy nhiên, lí luận cũng có tính độc lập tương đối của nó, không hoàn
toàn thụ động mà lí luận cũng đóng vai trò tích cực trở lại đối với thực tiễn. Lí
luận là kim chỉ nam giúp cho thực tiễn đạt kết quả cao. Lí luận vạch ra
phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ phương pháp thực hiện có hiệu quả nhất
để đạt mục đích. Đặc biệt là lí luận cách mạng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa: “Không có lí luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” [24, tr.30].
15
Lí luận đem lại sức mạnh cho con người trong quá trình nhận thức và
cải tạo thế giới. Nếu không có nhận thức đúng thì càng không thể có hành
động đúng. Nhờ có lí luận, hoạt động của con người trở nên tự giác, tích cực,
chủ động và tránh được tình trạng tự phát, mò mẫm.
Lí luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác dộng, bổ sung làm
phong phú lẫn nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn
là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lí
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; Lí luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lí luận suông” [43, tr.496] (diễn văn khai mạc lớp học lí luận khoá
I trường Nguyễn Ái Quốc ngày 7/9/1957). Đối với Hồ Chí Minh lí luận cách
mạng có vai trò to lớn đói với cán bộ đảng viên và toàn thể nhân dân thúc đẩy
cách mạng tiến lên. Người cũng thường xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước
khi xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, biện pháp phải xuất phát từ
thực tiễn, từ những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cách mạng. Theo Người:
“Lí luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lí luận” [41, tr.235].
Nhờ có lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Đảng cộng sản
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều
kiện hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành nhiều
thắng lợi to lớn. Vì thế, Đảng và Bác hồ luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo
dục lí luận cho cán bộ, Đảng viên, nhất là bồi dưỡng, giáo dục lí luận chính
trị, coi đó là yêu cầu cơ bản không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng.
Bác đã chỉ rõ “ Đảng ta tổ chức trường học lí luận cho cán bộ là để nâng cao
trình độ lí luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng và tình hình thực tế của Đảng ta để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác
của mình, hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình” [44, tr.497].
Quán triệt nguyên tắc thống nhất lí luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ thể hoá sẽ chống được mọi biểu hiện
của chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, rập
khuôn, máy móc …
Đảng ta kiên định, bảo vệ, phát triển, và vận dụng lí luận chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo phù hợp thực tiễn đất
16
nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển,
nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài. Vì thế, “đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lí luận” [17, tr.134] đã trở thành nhiệm vụ hàng
đầu trong công tác lí luận. Nghị quyết TW 5 khoá X khẳng định “Công tác tư
tưởng, lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trong trong toàn bộ hoạt
động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị
của chế độ, tuyên truyền giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện
các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng
về chính trị, lí luận, trí tuệ, văn hoá và đạo đức; thể hiện vai trò đi trước, mở
đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Bốn là, thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Nói tới tính Đảng là nói tới tính giai cấp, còn tính khoa học là sự phản
ánh đúng thực tế khách quan, tôn trọng sự thật. Lí luận nói chung, lí luận
chính trị nói riêng bao hàm trong nó đặc trưng thống nhất giữa tính Đảng và
tính khoa học. Lí luận chính trị của giai cấp công nhân, giai cấp vô sản là chủ
nghĩa Mác - Lênin xuất phát và phản ánh khách quan nhu cầu và lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động phù hợp với nguyện vọng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động thế giới cho nên lí luận đó đảm bảo tính thống
nhất giữa tính Đảng và tính khoa học.
Trong lí luận chính trị, tính Đảng và tính khoa học có mối quan hệ biện
chứng không thể tách rời, tính Đảng càng cao thì tính khoa học càng sâu sắc,
tính Đảng và tính khoa học làm điều kiện, tiền đề tồn tại, phụ thuộc lẫn nhau,
không thể loại bỏ cái này, coi trọng cái kia. Do vậy, “Khoa học càng được tiến
hành một cách dũng cảm và vô tư thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện
vọng của giai cấp công nhân” [37, tr.451].
Thực tiễn cho thấy, việc xuyên tạc sự thật thường gắn liền với sự xa rời
lập trường, quan điểm lợi ích của giai cấp công nhân. Mọi cách xem xét, đánh
giá trái với quan điểm, lập trường, lợi ích của giai cấp công nhân đều không
phản ánh đúng xu hướng phát triển của lịch sử. Xuất phát từ lợi ích của các
giai cấp phi vô sản hoặc chịu ảnh hưởng của những quan điểm đó sẽ không
bao giờ phản ánh đúng sự thật lịch sử và như thế sẽ không có tính Đảng và
tính khoa học. Cho nên một lí luận, lí luận chính trị sẽ là khoa học khi đảm
17
bảo thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, đây cũng là đặc trưng cơ bản
mang tính chất cách mạng, tính khoa học của lí luận chính trị.
Lí luận chính trị không có mục đích nào khác ngoài mục đích thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng cho nên nhiệm vụ quan trọng của nó là định
hướng cho con người trong nhận thức và hành động để cải tạo thế giới. Khi
đó, tính khoa học là tiền đề, là cơ sở và tính Đảng giữ vai trò định hướng cách
mạng để loại trừ cái cũ, cái lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ, hợp quy luật.
V.I Lênin coi trọng chủ nghĩa Mác là cơ sở lí luận vững như đá hoa cương, có
“sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn nhưng người xã hội chủ nghĩa
của tất cả các nước theo lí luận đó chính là ở chỗ nó kết hợp tính khoa học
chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của khoa học xã hội), với tinh thần
cách mạng” [22, tr.421].
Lí luận chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam được xây dựng trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn liền với tổng kết
thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng trong việc cung cấp những luận cứ khoa
học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới và thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, chủ trương kế hoạch đề ra. Lí luận chính trị của Đảng
ta chính là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa trí tuệ của dân tộc và thời
đại, khái quát những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học trên thế giới. Là
sự tổng kết, đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn phong trào đấu tranh cách
mạng của dân tộc và nhân dân thế giới, sự vận dụng sáng tạo và phát triển của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, trong
hoàn cảnh cụ thể mới, đồng thời cũng chính là một điển hình về sự thống nhất
cao giữa tính Đảng và tính khoa học.
Ngoài những đặc trưng cơ bản đó là tính khái quát và tính trừu tượng,
tính chính xác và lôgic, tính thống nhất lí luận và thực tiễn, tính Đảng và tính
khoa học, lí luận chính trị còn có một số đặc trưng khác như: tính hệ thống và
tính kế thừa, là hệ thống mở có khả năng bổ sung và phát triển …
Với ý nghĩa là lí luận tiền phong, lí luận chính trị giúp cho Đảng cộng
sản hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng, nhất là trong giai đoạn hiện
nay; chúng ta quyết tâm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta càng
phải chú trọng phát triển lí luận chính trị với đầy đủ các đặc trưng trên, góp
18
phần bổ sung “cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được” [39, tr.465].
1.1.2. Giáo dục lí luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở
1.1.2.1. Cán bộ cấp cơ sở: Ở nước ta cơ cấu tổ chức của hệ thống
chính trị được chia làm 4 cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố; quận, huyện và cơ
sở. Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) gọi chung là cấp xã, là cấp cuối cùng
trong sự phân cấp hành chính. Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn
bó chặt chẽ trong quan hệ kinh tế, dòng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có một vị
trí rất quan trọng, là nơi giải quyết các mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân, là địa bàn tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, là nơi trực tiếp sản xuất vật chất, là nền tảng vật chất cơ
bản của xã hội, là nơi có thể tổ chức, huy động, phát huy cao độ nội lực quần
chúng nhân dân. Hiện nay cấp cơ sở ở nước ta chủ yếu là địa bàn nông thôn,
nông dân làm nông nghiệp nên có tiềm năng rất lớn về lao động, đất đai,
ngành nghề. Sản xuất ra lương thực, thực phẩm, của cái vật chất dồi dào cho
xã hội. Đồng thời cấp cơ sở cũng là nơi tiêu thụ sản phẩm cũng như cung cấp
nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp, thúc đấy sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, cấp cơ sở là nơi động viên triệt để sức người, sức
của cung cấp cho chiến trường, đảm bảo trật tự xã hội, trở thành hậu phương
vững chắc làm yên lòng các chiến sỹ đang chiến đấu ở tiền tuyến, góp phần
làm nên chiến thắng vĩ đại là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề. Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền
còn khó hơn nhiều. Nhất là trong thời kì đổi mới đất nước, chúng ta chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thì cấp cơ sở lại càng
giữ vị trí quan trọng.
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng việc xây dựng hệ thống chính trị
cấp cơ sở, đã ra nhiều nghị quyết về củng cố, kiện toàn, phát triển toàn diện
cấp cơ sở, chẳng hạn như Nghị quyết 3, 5, 7 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX nhấn mạnh cần
“Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở Cấp cơ sở xã, phường,
19
thị trấn đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước” [17, tr.165], Nghị quyết Trung
ương 4, 5, 6 khoá X cũng nhấn mạnh về công tác cán bộ, đặc biệt là Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 6 khoá Xvề "Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên".
Tuy còn có những quan niệm chưa thật thống nhất, song với cách tiếp
cận nêu trên thì cán bộ cấp cơ sở hiện nay bao gồm các chức danh: Bí thư
Đảng uỷ, Phó Bí thư, Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND,
Phó Chủ tịch UBND, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ, Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ
tịch Hội LHPN, Chủ tịch Hội N.dân, Chủ tịch Hội CCB, Trưởng Công an, Chỉ
huy Trưởng QS, V.phòng-thống kê, Địa chính -NN- XD &MT, Tài chính - kế
toán, Văn hoá - xã hội, Tư pháp - hộ Tịch.
Cán bộ cơ sở là những người giữ chức vụ quan trọng, là lực lượng nòng
cốt trong tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở, là những người giữ cương
vị chính, phụ trách trong một tổ chức, một tập thể, có ảnh hưởng chính, quyết
định và chi phối việc chấp hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương đã đề ra, là những người “đứng
mũi chịu sào”, chịu trách nhiệm chính trước Đảng trước nhân dân.
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở nước ta hiện nay càng có vai trò đặc biệt
quan trọng. Cụ thể là:
Thứ nhất, cán bộ cấp cơ sở là bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị ở nước ta.
Cán bộ cấp cơ sở là đại diện cho nhân dân trong lãnh đạo, quản lí Nhà
nước ở địa phương đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, cụ thể hoá, tổ chức
thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và biến nghị quyết, chủ trương, đường lối, pháp luật đó thành hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân, cũng như tiến hành các chương trình kinh tế
xã hội ở địa phương. Chính họ tạo nên những thành tựu, đúc rút ra những bài
học kinh nghiệm có giá trị góp phần làm quan trọng cho sự phát triển chung
của dất nước.
Thứ hai, cán bộ cấp cơ sở là cầu nối trực tiếp quan trọng giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân.
20
Năng lực của người cán bộ cấp cơ sở là một trong những nguyên nhân
chính quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung, cấp
cơ sở nói riêng. Cán bộ có tài, có đức sẽ thúc đẩy phong trào và ngược lại, nếu
người cán bộ cấp cơ sở bị mất uy tín trước nhân dân là đồng nghĩa với việc
Đảng mất uy tín với nhân dân, dân sẽ không tin Đảng. Trực tiếp, tiếp xúc hàng
ngày với nhân dân nên cán bộ cấp cơ sở là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà
nước và nhân dân; trực tiếp nắm bắt và phản ánh nguyện vọng tâm tư tình cảm
của nhân dân với Đảng, tạo nên mối liên hệ máu thịt thống nhất giữa Đảng và
nhân dân, xây dựng củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “Cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [41, tr.269].
Thứ ba, cán bộ cấp cơ sở là một trong những dự nguồn quan trọng cung
cấp cho cán bộ lãnh đạo cấp trên.
Cán bộ cấp cơ sở đã có nhiều đóng góp, trưởng thành trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trải qua thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trước đây cũng như hiện nay, họ luôn có bản lĩnh chính trị vững
vàng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo và thực hiện nhiệm
vụ chính trị, có khả năng sáng tạo, tính nhạy bén và năng động cao. Chính vì
vậy, cán bộ cấp cơ sở là một trong những dự nguồn quan trọng cung cấp cán
bộ cho cấp trên, vì cơ sở chính là trường học, là nơi rèn luyện, trưởng thành
của đội ngũ cán bộ. V.I Lênin cũng đã từng khẳng định vai trò to lớn của
người cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách mạng: “Trong lịch sử, chưa hề
có một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [23, tr.473]. Nhấn mạnh vai
trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở không có nghĩa họ là người quyết
định tất cả trong tiến trình sự nghiệp cách mạng, mà cán bộ nói chung, cán bộ
cấp cơ sở nói riêng chỉ là một khâu quan trọng, một mắt xích, giữ vị trí then chốt.
Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước những hoàn cảnh và tình thế mới, đòi
21
hỏi đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải có trình độ và hiểu biết toàn diện. Đó không
chỉ là trình độ chuyên môn, trình độ lí luận chính trị mà còn phải có kiến thức
về quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước trên từng lĩnh vực cụ thể: Văn hoá,
chính trị xã hội … Có kiến thức, có trình độ mọi mặt sẽ nâng cao khả năng
tiếp nhận và xử lý thông tin phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo
thực tiễn ở cơ sở. Đồng thời sẽ quy tụ được quần chúng tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, của chính quyền địa phương.
1.1.2.2 Nội dung giáo dục lí luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Trước hết,
phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các cấp uỷ và chi bộ tổ chức, hướng
dẫn và kiểm tra Đảng viên học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ
chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lý và
công tác vận động nhân dân …”. [16, tr.53].
Theo từ điển tiếng Việt, trình độ là “Mức độ về sự hiểu biết, về kỹ năng
được xác định hoặc đánh giá theo tiêu chuẩn nhất định nào đó”, là “Trình độ
khá cao trong một lĩnh vực nào đó” [50, tr.1001].
Như vậy, trình độ lí luận chính trị có thể được hiểu là mức độ hiểu biết,
mức độ nhận thức, khả năng vận dụng lí luận chính trị vào trong thực tiễn
cuộc sống. Ở nước ta hiện nay, đối với cán bộ Đảng viên, trong đó có cán bộ
cấp cơ sở, có trình độ lí luận chính trị có nghĩa là phải có thế giới quan khoa
học, phương pháp luận đúng đắn nhờ được trang bị những kiến thức cơ bản,
tương đối có hệ thống lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lí luận về xây dựng Đảng, Nhà nước và quản lý Nhà nước, công tác dân vận,
các quan điểm cơ bản về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, những nội dung cơ bản về nhiệm vụ công tác Đảng, chính
quyền, đoàn thể. Từ đó củng cố, nâng cao niềm tin vững chắc vào mục tiêu, lí
tưởng cộng sản chủ nghĩa, vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Kiên định và
trung thành với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hiểu
đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và thực tiễn công tác. Đồng thời góp
22
phần nâng cao phẩm chất đạo đức và lối sống của người cán bộ, Đảng viên,
cán bộ cấp cơ sở: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, có tình cảm cách
mạng trong sáng. Có ý thức tổ chức và kỷ luật, tinh thần đấu tranh phê và tự
phê bình, có quan hệ mật thiết với quần chúng. Trình độ lí luận chính trị giúp
cho việc nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực hoạt động thực tiễn, có ý
thức tự giác và tích cực trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Phải nắm rõ các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, người cán bộ cấp cơ sở mới có khả năng vận dụng sáng tạo lí
luận đó vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể từng lĩnh vực, từng địa phương mình
phụ trách. Qua đó, góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú thêm đường
lối, chính sách của Đảng bằng những kết luận mới được rút ra trong quá trình
hoạt động thực tiễn. Bác Hồ dã dạy: Đã lựa chọn đúng cán bộ còn cần phải
dạy bảo lí luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lí luận cũng như có
một mắt sáng, một mắt mờ. Người còn chỉ rõ: “Có học tập lí luận Mác - Lênin
mới cũng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu
biết và trình độ chính trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình” [44,
tr.247]. Đối với cán bộ chủ chốt, Bác càng nhấn mạnh sự cần thiết phải không
ngừng học tập, nghiên cứu lí luận Mác - Lênin và đó là lí luận thiết thực, chỉ
đạo cho hành động. Nắm lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin không phải “để
trang sức” mà nắm cái tinh thần xử trí đối với việc, đối với người, đối với
mình để “sống với nhau có tình có nghĩa”, là nắm những chân lí phổ biến của
chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta.
Việc truyền đạt, giải thích chính sách của Đảng và Nhà nước cho nhân
dân, nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng của họ thì yêu cầu người cán bộ cấp
cơ sở phải vượt lên khỏi nhận thức kinh nghiệm để khái quát hoá, trừu tượng
hoá, có khả năng phân tích, tổng hợp, nhất là đối với các vấn đề chính trị. Và
họ trở thành “hạt nhân” của phong trào, phát huy được thế mạnh, sức mạnh
của địa phương, cơ sở.
Phải biết vận dụng sáng tạo lí luận chính trị trong điều kiện cụ thể ở địa
phương mình. Qua học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ lí luận chính trị lí
luận chính trị, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở phải có thế giới quan, phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và có khả
23
năng vận dụng, chuyển hoá chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước thành hiện thực trực tiếp ở địa phương, cơ sở. Bởi vì tư duy
lí luận không có mục đích tự thân mà hướng vào thực tiễn để hiện thức hoá
mình. Tư duy luôn hoạt động theo hướng chuyển thành hành động, tìm biện
pháp để làm cho sự sáng tạo ý thức thành sự sáng tạo trong thực tiễn. Cho
nên, khả năng cụ thể hoá, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước
đối với cán bộ cơ sở là yêu cầu cấp bách. Đồng thời cũng đòi hỏi người cán bộ
cấp cơ sở phải có niềm tin vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, có lập trường
kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trước những luận
điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch và của chủ nghĩa cơ hội,
xét lại, họ biết tỏ rõ dũng khí của mình, bảo vệ sự thật, bảo vệ chân lý, tuyệt
đối trung thành với lý tưởng của Đảng của dân tộc, vững vàng trước mọi biến
cố của thời đại. Không những thế, người cán bộ cấp cơ sở cần phải tuyên
truyền giáo dục lí luận chính trị, nâng cao được ý thức, lòng tự hào dân tộc,
phát huy truyền thống yêu nước, giữ gìn những giá trị nhân văn của dân tộc
cho quần chúng nhân dân địa phương mình quản lý. Kiên quyết đấu tranh
chống âm mưu “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ dưới các chiêu bài “dân
chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta cuả các thế lực thù địch.
Không ngừng học tập để nâng cao trình độ lí luận chính trị, nâng cao sự
hiểu biết, nâng cao nhận thức, khă năng vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước vào trong công việc, trong cuộc sống là nghĩa vụ, là
trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi của mọi cán bộ Đảng viên nói chung, cán
bộ cấp cơ sở nói riêng. Đó cũng là thước đo phẩm chất chính trị, phẩm chất
đạo đức của người cán bộ Đảng viên, nhất là cán bộ cấp cơ sở trong tình hình
cách mạng hiện nay.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay ngày càng mở rộng và phát triển
theo chiều sâu, những biến đổi trên thế giới ngày càng phức tạp, đặt ra nhiều
vấn đề mới mẻ, cần phải giải đáp, trong khi đó: “Thoái hoá, biến chất về chính
trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách
nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài chưa được đẩy lùi…, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
24
Đảng. Đó là nguy cơ liên quan đến sự sống còn của Đảng và chế độ” [Tr. 263264 Văn kiện ĐH X ]. Do vậy, công tác lí luận càng trở nên đặc biệt quan trọng.
Thực tế đã chứng minh rằng, muốn nâng cao bản lĩnh chính trị, khả
năng nhanh nhạy, phân tích, tổng kết thực tiễn, có thể đưa ra những quyết
sách đúng đắn, phù hợp thực tế thì mọi cán bộ, đảng viên cần phải học tập,
nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ lí luận chính trị. Một trong những
điều kiện quyết định sự thành công trong công tác lãnh đạo của Đảng là đội
ngũ cán bộ Đảng viên của Đảng phải không ngừng được nâng cao về trình độ
lí luận chính trị, tức là nâng cao khả năng nhận thức, khả năng tư duy lí luận
đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng. Vì vậy,
trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, quyết định quan trọng
trong việc giáo dục, học tập lí luận chính trị nhằm nâng cao trình độ lí luận
chính trị trong Đảng. Tổ chức hệ thống các trường Đảng từ trung ương đến
địa phương, kết hợp mở các lớp dài ngày, ngắn ngày coi hình thức học tập tại
chức là chính.
Nâng cao trình độ lý luận cần phải nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị; tổng kết thực tiễn; quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ, tất cả các khâu
đó phải được làm chặt chẻ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ về mọi mặt.
1.2. Thực trạng công tác giáo dục lí luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở ở Hà Tĩnh
* Đặc điểm tình hình của tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên 6.055,7 km², nằm cách Hà Nội 340 km, ở
phía đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông.
Phía tây tỉnh là những dãy núi cao 1.500 m, phía dưới là vùng đồi thấp giống
bát úp; tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển; sau cùng là những bãi
cát ven biển cùng với nhiều vũng, vịnh, tiêu biểu là cảng biển nước sâu Vũng
Áng và bãi biển Thiên Cầm. Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ngoài ra
Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp của miền Bắc và miền
Nam, với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa
đông giá lạnh của miền Bắc, nên thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Hà Tĩnh có
1.227.554 người (điều tra dân số ngày 01/04/2009). Dân tộc chủ yếu sống tại
Hà Tĩnh là người Kinh và một dân tộc thiểu số khác cùng nhóm với người
25