Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LY

CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ LY

CHÕ §ÞNH DÉN §é TRONG HîP T¸C QUèC TÕ
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Ly


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG
HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......................... 6
1.1.

KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ” ............................. 6

1.1.1.


Sự ra đời và khái niệm dẫn độ .................................................................... 6

1.1.2.

Khái niệm chế định dẫn độ ....................................................................... 13

1.2.

NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ ................................................. 20

1.2.1.

Cơ sở dẫn độ ............................................................................................ 20

1.2.2.

Các nguyên tắc của dẫn độ ....................................................................... 22

1.2.3.

Thủ tục dẫn độ ......................................................................................... 30

1.2.4.

Thẩm quyền thực hiện dẫn độ .................................................................. 32

1.2.5.

Một số quy định khác về dẫn độ ............................................................... 33


1.3.

PHÁP LUẬT MỘT SỐ KHU VỰC VÀ QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI VỀ DẪN ĐỘ .................................................................................. 34

1.3.1.

Pháp luật Châu Âu về dẫn độ ................................................................... 34

1.3.2.

Pháp luật Hoa Kỳ về dẫn độ ..................................................................... 37

Chương 2: CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM ............................................................................................. 39
2.1.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TRƯỚC
NĂM 2003 ............................................................................................... 39

2.2.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DẪN ĐỘ TỪ
NĂM 2003 ĐẾN NAY............................................................................. 44


2.2.1.

Tình hình ký kết các hiệp định và quy định của pháp luật trong nước

về dẫn độ.................................................................................................. 44

2.2.2.

Những nội dung về dẫn độ trong các văn bản pháp luật của Việt Nam ........... 49

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....... 87
3.1.

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DẪN ĐỘ Ở VIỆT NAM ........................ 87

3.1.1.

Tình hình thực hiện các yêu cầu dẫn độ.................................................... 87

3.1.2.

Nguyên nhân hạn chế hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam............ 90

3.2.

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ ......................................... 94

3.2.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp
dụng chế định dẫn độ ............................................................................... 94


3.2.2.

Hoàn thiện pháp luật về dẫn độ ................................................................ 99

3.2.3.

Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ ........................ 105

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 111


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

ĐƯQT:

Điều ước quốc tế

TAND:

Tòa án nhân dân


TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

TTTP:

Tương trợ tư pháp

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 3.1. Thống kê yêu cầu dẫn độ tội phạm ở Việt Nam từ 01/07/2008
đến 30/06/2014

Trang

88


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia đang có chiều hướng gia tăng, diễn
biến phức tạp đe dọa đến an ninh của các quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến hòa
bình trên phạm vi toàn cầu. Trước tình hình đó, nhu cầu hợp tác quốc tế trong đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm cần phải được tăng cường, củng cố. Dẫn độ là một
trong những nội dung quan trọng của hợp tác quốc tế đất tranh, phòng ngừa tội
phạm và được quy định trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia,
thể hiện sự nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Những năm gần đây ở Việt Nam các tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia có
diễn biến phức tạp, theo chiều hướng gia tăng, đặc biệt xuất hiện nhiều tội phạm
mới như các tội phạm về tin học, rửa tiền, tội phạm sử dụng công nghệ cao…,các cơ
quan tố tụng ngày càng phải xử lý nhiều hơn các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài
và các cơ quan bảo vệ pháp luật của nước ngoài cũng phải xử lý nhiều vụ án hình sự
liên quan đến người Việt Nam. Những điều này đã đặt ra nhu cầu hợp tác với các
hoạt động hợp tác quốc tế trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm nâng cao
hiệu quả của việc đấu tranh với tình trạng người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam
và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài, qua đó, góp phần thúc đẩy quá trình hội
nhập giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của Việt Nam đã dành Phần VIII để quy
định vấn đề hợp tác quốc tế, trong đó có chế định dẫn độ. Trước đó, vấn đề dẫn độ
đã được quy định trong các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về dân sự, gia
đình và hình sự giữa Việt Nam với một số nước. Tuy nhiên, những quy định trong
các Hiệp định tương trợ còn nhiều hạn chế, một số nội dung không còn phù hợp với
xu thế và thực tiễn hợp tác quốc tế như: Quy định về dẫn độ, chuyển giao tài liệu hồ
sơ vụ án; Quy định việc giải quyết vấn đề quốc tịch trong lĩnh vực tư pháp; vấn đề
hợp tác có đi có lại... trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những quy định trong Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003 về dẫn độ tội phạm cũng mới chỉ dừng lại ở mức khái
quát, chưa cụ thể nên khó áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan

1


tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các hiệp định đã được ký
kết còn nhiều hạn chế, thiếu các văn bản hướng dẫn cần thiết, chưa có sự quan tâm
chỉ đạo của các ngành chức năng liên quan. dẫn đến tình trạng các quy định về dẫn
độ ở Việt Nam còn mang nhiều tính hình thức; Năng lực, trình độ của cán bộ tiến
hành tố tụng còn hạn chế là một trong những nguyên nhân làm cho việc thực thi
pháp luật về dẫn độ tội phạm ở Việt Nam chưa đạt hiệu quả cao.
Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu chế định dẫn độ tội phạm không
những có ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, xử lý tội phạm; hội nhập
quốc tế; bảo đảm quyền con người; thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp mà còn góp
phần xây dựng lý luận về hợp tác quốc tế trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự. Vì
vậy, em chọn đề tŕi “Chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam” cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu về dẫn độ tội phạm dưới dạng các bài
tạp chí, luận văn thạc sỹ, sách tham khảo… như nghiên cứu về Hoạt động dẫn độ
tội phạm theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước theo Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số 05 năm 2000 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, nghiên
cứu của tác giả Dương Tuyết Miên về “Vấn đề dẫn độ tội phạm” (Tạp chí Tòa án số
10 năm 2006), nghiên cứu của tác giả Nguyễn Giang Nam về “Dẫn độ tội phạm
theo pháp luật hiện hành” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp
luật số 12 năm 2008), Luận văn thạc sỹ của tác giả Đào Thị Hà (2006) về “Vấn đề
dẫn độ trong pháp luật Việt Nam”… Bên cạnh đó một số giáo trình, sách tham khảo
của một số cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam như “Giáo trình Công pháp Quốc tế” do
PGS.TS Nguyễn Bá Diến chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, “Giáo

trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2013, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình
sự quốc tế, Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2011), NXB Chính trị Quốc gia năm
2013, “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt nam”, Nxb Công an nhân dân năm 2008
của trường Đại học Luật Hà Nội cũng đã đề cập đến những nội dung cơ bản của vấn
đề dẫn độ trên cơ sở các văn bản pháp luật.

2


Tuy nhiên, các nghiên cứu phần lớn mới tập trung vào việc tiếp cận vấn đề và
khái quát nội dung của việc dẫn độ tội phạm trên cơ sở quy định của Hiệp định tương
trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước. Một số nghiên cứu chưa thể hiện được tính
ứng dụng vào thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt Nam, đồng thời chưa có nghiên cứu
nào mang tính tổng thể về dẫn độ với tư cách là một chế định của luật hình sự. Vì vậy,
khi nghiên cứu, luận văn sẽ xem xét một cách toàn diện những vấn đề cơ bản liên quan
đến dẫn độ, đồng thời nghiên cứu thực trạng dẫn độ trên cơ sở kiến nghị các biện pháp
nâng cao hiệu quả dẫn độ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm luận giải một cách khoa học cũng như xem xét,
đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc dẫn độ, trên cơ sở đó, đề xuất việc
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động dẫn độ trong
quá trình giải quyết vụ án ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích trên bình diện lý luận về khái niệm dẫn độ, khái niệm về chế định
dẫn độ và làm rõ những nội dung của chế đình này cũng như phân biệt khái niệm
dẫn độ với một số khái niệm khác như “chuyển giao người bị kết án”, “trao đổi tội
phạm”, “trao trả tội phạm”…

- Làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về dẫn độ;
- Nêu thực trạng, phân tích, đánh giá hiệu quả của hoạt động dẫn độ ở Việt Nam;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của
hoạt động dẫn độ tội phạm.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dẫn độ với
tư cách là một chế định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở các quy định
của Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, Luật tương trợ tư pháp năm 2007
và Hiệp định dẫn độ giữa Việt Nam với một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Ốt
– xtrây – lia, Ấn Độ, Indonesia,…

3


4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải
cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới", Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
Trước xu thế quốc tế hóa, việc nghiên cứu luận văn còn được thực hiện
trên tư tưởng tiến bộ của nhân loại về việc đấu tranh phòng chống tội phạm có
tính chất quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn gồm: Phương
pháp lịch sử; Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp so sánh đối chiếu;
Phương pháp tổng kết thực tiễn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn

5.1. Những điểm mới
Luận văn thể hiện những điểm mới của việc nghiên cứu chế định dẫn độ như sau:
Nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề pháp lý liên quan đến dẫn
độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở những hiệp ước quốc tế về vấn đề
dẫn độ được ký kết giữa Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới, đồng thời có sự
đánh giá liên hệ với diễn biến tình hình các tội phạm có tính chất quốc tế.
Nghiên cứu chế định dẫn độ trên cơ sở tương quan so sánh giữa pháp luật
Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới để tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt qua đó đóng góp kiến nghị về sự phù hợp của chế định dẫn độ trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5.2. Đóng góp của luận văn
Việc nghiên cứu sẽ làm rõ hơn, đầy đủ hơn những vấn đề lý luận về dẫn

4


độ, giúp ta có nhận thức một cách khoa học về vấn đề; các kết quả tìm tòi,
nghiên cứu có thể được ứng dụng vào hoạt động dẫn độ ở Việt Nam qua đó nâng
cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm có tính chất
quốc tế. Đồng thời các kiến nghị, giải pháp được đề xuất trong luận văn có thể
được coi là một trong các nguồn tài liệu phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về dẫn độ trên cơ sở nội luật hóa các quy định về dẫn độ của các điều
ước quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chế định dẫn độ trong hợp tác quốc tế
theo luật tố tụng hình sự
Chương 2. Chế định dẫn độ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 3. Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dẫn độ

trong tố tụng hình sự Việt Nam.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ
TRONG HỢP TÁC QUỐC TẾ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM “DẪN ĐỘ” VÀ “CHẾ ĐỊNH DẪN ĐỘ”
1.1.1. Sự ra đời và khái niệm dẫn độ
1.1.1.1. Sự ra đời của dẫn độ
Dẫn độ được hình thành và phát triển cùng với luật quốc tế, là một bộ phận
của Luật hình sự quốc tế, nó được ra đời khi có nhu cầu trao đổi về tội phạm giữa các
quốc gia thông qua một thỏa ước quốc tế. Các nghiên cứu cho rằng, thời cổ đại qui
chế về dẫn độ đã ra đời, khi người nước ngoài phạm tội chống lại công dân nước
ngoài ở quốc gia sở tại, nơi người phạm tội cư trú. Trong thời kỳ này, đã xuất hiện
các điều ước quốc tế giữa một số quốc gia về dẫn độ, chẳng hạn: Năm 1296 trước
công nguyên, điều ước quốc tế về dẫn độ ở vùng Ai Cập cổ đại có nêu rõ rằng:
Nếu như một ai đó chạy khỏi Ai Cập và tới quốc gia Khettôv, thì vua
Khettôv sẽ không bắt giữ anh ta, mà bắt anh ta quay trở lại Ai Cập. Đặc
điểm của điều ước quốc tế này thể hiện ở chỗ, vấn đề không phải chỉ là các
tội phạm và thời kỳ đó, chế định dẫn độ còn đề cập tới cả người nô lệ da
trắng, đặc biệt là ở Hy Lạp và đế chế La Mã. Đồng thời, có các điều ước
quốc tế về dẫn độ giữa một số quốc gia thành phố của Hy Lạp [42, tr. 341].
Quan điểm này cũng được Christopher L. Blakesley khẳng định:
Trong thực tế, văn bản ngoại giao được biết đến sớm nhất có chứa
một phần quy định về sự lộ diện của những kẻ trốn chạy. Đó là Hiệp ước
về Hòa bình giữa Ramses II, Pharaon của Ai Cập, và vua Hittite Hattusili
III, được ký sau khi các nước cố gắng xâm chiếm Ai cập. Văn bản này
được viết bằng chữ tượng hình, được khắc trên Đền của Ammon ở

Karnak và nó cũng được bảo quản trên những chiếc bàn bằng đất sét ở
Akkodrain trong kho Hittite của Boghazkoi. Văn bản này được coi là các
ví dụ sớm nhất về các thỏa thuận về dẫn độ và những biểu hiện của nó
mà trong đó dẫn độ chỉ là một phần của một văn bản lớn được thiết kế

6


dành cho một mục đích lớn. Đối với các văn bản về dẫn độ đầu tiên của
thời kỳ hiện đại cũng vậy [49, tr.44].
Như vậy, dẫn độ ra đời khá sớm, từ thời kỳ cổ đại chứ không phải cho đến
thời kỳ hiện đại như một số học giả đưa ra. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng qui chế về
dẫn độ thời kỳ cổ đại chưa có đầy đủ các nội hàm và phạm vi như ngày nay chúng ta
quan niệm. Trải qua quá trình lịch sử, sự phát triển của qui chế về dẫn độ gắn liền với
sự phát triển của các quan hệ quốc tế và sự hợp tác trong đấu tranh xử lý tội phạm của
các quốc gia trên thế giới. “Nhiều nhà chức trách ở Pháp và Mỹ đã viết rằng trước
thế kỷ XIX, sự dẫn độ với nghĩa như thời hiện đại không tồn tại” [49, tr.44]. Nội
dung của quy chế dẫn độ đã thay đổi trong quá trình phát triển hợp tác giữa các
quốc gia trong đấu tranh xử lý tội phạm. Những thay đổi này được gắn liền với
những thay đổi của chế định di tản. Trong thời kỳ cổ đại, việc áp dụng chế định dẫn
độ gắn liền với việc tiếp nhận người tản cư. Sự quan hệ phụ thuộc nhau giữa chế độ
dẫn độ và chế độ di tản diễn ra trong nhiều thời đại. Vào năm 1303, Anh và Pháp đã
ký điều ước quốc tế về việc không dẫn độ đối với kẻ thù và người nổi loạn đối với
cả hai nước. Tới đầu thế kỷ thứ XVIII, bắt đầu có việc ký kết các điều ước quốc tế
giữa các quốc gia về việc dẫn độ các tội phạm chính trị và những người thực hiện
các tội phạm hình sự. Sự hợp tác tích cực giữa các quốc gia về dẫn độ diễn ra vào
thế kỷ XVIII. Trong thời gian đó các điều ước quốc tế về dẫn độ được ký kết trước
sự phát triển tiến bộ của khoa học công nghệ. Cũng theo sự phát triển này, một
lượng lớn dân cư từ Châu Âu đã di cư sang Châu Mỹ và các châu lục khác, một
nhóm tội phạm hình sự đã lợi dụng tình hình này để bỏ chạy khỏi tổ quốc của mình

nhằm thoát khỏi sự truy lùng và kết án hình sự. Tình trạng này đã thúc đẩy các quốc
gia với mục đích bảo vệ nền pháp chế tìm kiếm các chế định mới mà một trong các
chế định đó là dẫn độ. Có nhiều điều ước song phương cũng như đa phương về dẫn
độ được ký kết bởi các quốc gia Châu Âu, theo PGS.TS Nguyễn Trung Tín:
Một trong số các điều ước đa phương đầu tiên về dẫn độ là điều
ước Amenski năm 1802 với sự tham gia của Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha và Anh. Sau đó một loạt các điều ước quốc tế được ký kết ở Châu

7


Mỹ, Châu Âu và các Châu lục khác. Việc mở rộng sự hợp tác của các
quốc gia về vấn đề dẫn độ tội phạm được hậu thuẫn bởi sự ra đời và củng
cố các nguyên tắc của chế định dẫn độ tội phạm. Các nguyên tắc “có đi
có lại”, “chuyên môn” và các nguyên tắc khác [42, tr.342].
Trong thời gian ấy, pháp luật về dẫn độ tội phạm có hai mục đích: Một là
công cụ hợp tác của các quốc gia để ngăn chặn tội phạm, hai là công cụ để bảo vệ
chính người bị dẫn độ. Vì vậy, ngay vào các năm 40 của thế kỷ XIX các nước Châu
Âu đã thông qua một nguyên tắc là chỉ dẫn độ các tội phạm hình sự, chứ không dẫn
độ tội phạm chính trị hay những người đào ngũ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, vào năm 1924, “Ủy ban các chuyên viên về pháp điển hóa tiến bộ về luật pháp
quốc tế” của Hội quốc liên đã dự thảo và kiến nghị ký kết các công ước phổ cập
điều chỉnh vấn đề hợp tác quốc tế về dẫn độ tội phạm. Tuy nhiên, dự thảo này chưa
được ký kết thì Hội quốc liên đã ngừng hoạt động do chiến tranh.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Tòa án Nuremberg và tòa án Tokyo xét
xử phát xít đã đề cập đến việc dẫn độ tội phạm, do đó năm 1946 Đại hội đồng liên
hợp quốc đã thông qua Nghị quyết áp dụng các biện pháp truy tìm, bắt giữ và dẫn
độ các tội phạm chiến tranh về quốc gia nơi thực hiện tội phạm để xét xử theo pháp
luật quốc gia sở tại. Năm 1947, Đại hội đồng liên hợp quốc tiếp tục thông qua Nghị
quyết về nghĩa vụ của các quốc gia trong việc dẫn độ và chuyển giao tội phạm chiến

tranh cho tòa án xét xử. Trong quá trình phát triển, hàng loạt các công ước quốc tế
về chống tội phạm có tính chất xuyên quốc gia ra đời, trong đó phần quan trọng là
các qui định về dẫn độ tội phạm, như: Công ước về khủng bố, trẻ em, buôn bán ma
túy, buôn bán người…Bên cạnh đó, năm 1990 Đại hội đồng Liên hợp quốc còn
thông qua điều ước mẫu về dẫn độ tội phạm làm cơ sở để các quốc gia tham gia, ký
kết các điều ước quốc tế về đấu tranh chống tội phạm nói chung và dẫn độ tội phạm
nói riêng. Trên cơ sở đó, những điều ước quốc tế đa phương mang tính toàn cầu, các
khu vực cũng đã ký kết các điều ước khu vực, mà tiêu biểu là Công ước quốc tế về
dẫn độ tội phạm châu Âu năm 1957…
Như vậy, cùng với sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, qui chế

8


dẫn độ ngày càng được hoàn thiện, phát triển bảo đảm cho việc dẫn độ tội phạm có
hiệu quả, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn cầu cũng như
ở từng quốc gia, khu vực. Sự phát triển, hoàn thiện này thể hiện ở sự gia tăng các
điều ước quốc tế về dẫn độ, trong đó đã cụ thể hóa nhóm người thuộc diện dẫn độ
tội phạm, các phạm trù và các căn cứ dẫn độ cũng được xác định cụ thể hơn. Trong
đó, một nguyên tắc về dẫn độ tội phạm được hình thành và ngày càng được thừa
nhận rộng rãi là nguyên tắc mà theo đó những người thực hiện các hành vi vì động
cơ chính trị và vì thế phải rời khỏi tổ quốc của mình thì không thuộc diện bị dẫn độ.
1.1.1.2. Khái niệm dẫn độ tội phạm
Trong khoa học pháp lý, có nhiều khái niệm về dẫn độ được đưa ra căn cứ
vào phạm vi và cách tiếp cận khác nhau, GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm
dẫn độ khá cơ mở, hàm chứa nhiều nội dung:
Dẫn độ người phạm tội là một chế định của luật hình sự nhằm
tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc đấu tranh phòng và
chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc gia, được thể hiện
trong việc: một quốc gia này (nước được yêu cầu) căn cứ vào các quy

định của Hiệp ước quốc tế về tương trợ tư pháp hình sự đã được ký kết
(hoặc các quy phạm pháp luật quốc tế trong trường hợp Hiệp định tương
ứng chưa được ký kết) chuyển giao người phạm tội đang ở trên lãnh thổ
của nó theo đề nghị của quốc gia kia (nước yêu cầu) mà trên lãnh thổ có
việc thực hiện tội phạm hoặc có người phạm tội là công dân của mình
(nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt
với người ấy [11, tr.230].
Định nghĩa này không chỉ nêu lên đặc điểm của dẫn độ mà còn bao gồm
cả những nội hàm của khái niệm “Chế định dẫn độ” nên nội dung của nó khá
phong phú do tác giả tiếp cận dẫn độ với tư cách là một chế định pháp lý hình sự.
Tuy nhiên, trong giới hạn của việc đưa ra khái niệm “dẫn độ” của luận văn này,
tác giả luận văn chỉ tham khảo những đặc điểm về dẫn độ tội phạm mà định
nghĩa đã nêu ra.

9


Từ điển Oxford đã đưa ra khái niệm “Dẫn độ tội phạm là việc dẫn độ một
người bị buộc tội hoặc bị kết án đối với một tội phạm” [23, tr.14]. Định nghĩa này
về dẫn độ đã thiếu đi tính thuyết phục khi giải thích khái niệm dẫn độ bằng việc lặp
lại chính cụm từ “dẫn độ” (dẫn độ là dẫn độ). Đồng thời, định nghĩa này mới chỉ đề
cập đến đối tượng của dẫn độ mà chưa chỉ ra được chủ thể tiến hành dẫn độ, nguyên
tắc, thủ tục và mục đích của dẫn độ. Đặc biệt, định nghĩa chưa làm rõ được bản chất
của dẫn độ là một quá trình hướng tới mục đích chuyển giao người phạm tội để truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án giữa các quốc gia trong đấu tranh xử
lý tội phạm ở phạm vi toàn cầu.
Từ điển Tiếng Việt cũng đưa ra định nghĩa về dẫn độ, theo đó:“dẫn độ là
việc đưa phạm nhân người nước ngoài bị bắt ở nước mình giao cho cơ quan tư
pháp ở nước ngoài đó xét xử” [23, tr.15]. Tuy nhiên, đây được coi là cách giải thích
chưa hoàn chỉnh về dẫn độ bởi chỉ đề cập đến một nội dung của dẫn độ người phạm

tội để xét xử, trong khi đó, theo pháp luật quốc tế thì việc dẫn độ tội phạm còn
nhằm mục đích đưa người bị kết án trở về nước được yêu cầu để thi hành hình phạt.
Đồng thời, cũng giống như định nghĩa của Từ điển Oxford, định nghĩa này chưa nêu
được nguyên tắc, thủ tục và bản chất của dẫn độ.
Với cách tiếp cận tổng thể, xem xét dẫn độ tội phạm là một hiện tượng xã
hội, một quá trình xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đấu tranh xử lý tội phạm giữa các
quốc gia, những định nghĩa về dẫn độ trong các điều ước quốc tế hoặc định nghĩa
do các học giả nước ngoài đưa ra ngắn gọn, đi vào bản chất hơn. Theo Interpol thì
dẫn độ là một quá trình, theo đó một nước (nước được yêu cầu) chuyển giao cá
nhân có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác (nước yêu cầu) khi nước này
muốn xét xử hoặc thi hành bản án đã được tuyên đối với anh ta [23, tr.15]. Theo
Marjorie Whiteman, một chuyên gia về luật hình sự quốc tế của Mỹ thì: “dẫn độ là quá
trình mà theo đó người mà bị kết tội hoặc bị kết án tù về hành vi phạm tội trái với pháp
luật của một quốc gia và được tìm thấy ở một quốc gia khác sẽ được đưa trở về quốc
gia ban đầu để xét xử hoặc tuyên án” [49, tr.40].

10


Cũng theo xu hướng này, Giáo trình Công pháp quốc tế của Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã định nghĩa “Dẫn độ tội phạm là hành vi chuyển giao thể
nhân đang hiện diện trên lãnh thổ nước mình cho quốc gia yêu cầu nhằm mục đích
tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành phán quyết hình sự đã có hiệu
lực pháp luật đối với thể nhân này” [21, tr.324]. Định nghĩa này khẳng định việc
dẫn độ chỉ áp dụng đối cá nhân người phạm tội (thể nhân) chứ không áp dụng đối
với pháp nhân là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế về dẫn độ.
Đồng thời, định nghĩa đã nêu được mục đích của dẫn độ không chỉ để truy cứu trách
nhiệm hình sự mà còn để thi hành hình phạt, thông qua đó phần nào phản ánh được
bản chất của dẫn độ. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng chưa nêu được đầy đủ nội hàm
của dẫn độ như nguyên tắc, thủ tục…

Trong cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật hình sự quốc tế”,
PGS.TS Nguyễn Trung Tín đưa ra định nghĩa: “Dẫn độ trong luật hình sự quốc tế
được hiểu là việc một quốc gia chuyển trao người bị cáo phạm tội hoặc người bị kết
án (quốc gia nơi những người đó có mặt) cho một quốc gia khác (thường là quốc
gia nơi tội phạm gây ra hoặc là quốc gia đã kết án người đó” [42, tr.335]. Đây là
định nghĩa tuy có cụ thể hơn nhưng mới dừng lại ở việc chỉ ra mục đích của dẫn độ
và phần nào phản ánh được bản chất dẫn độ mà còn thiếu đi những nội dung quan
trọng của dẫn độ.
Từ những phân tích, đánh giá các định nghĩa (nêu trên) về dẫn độ, tác giả
luận văn với cách tiếp tổng thể, dựa vào quy định pháp luật và thực tiễn dẫn độ đưa
ra định nghĩa sau: “Dẫn độ là một quá trình, theo đó, một nước (nước được yêu
cầu) chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước
khác (nước yêu cầu) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt
đối với người đó theo các nguyên tắc, thủ tục được qui định trong điều ước quốc
tế và pháp luật quốc gia”.
Định nghĩa này khắc phục được những hạn chế của các định nghĩa đã nêu
trên, do vậy nó phản ánh được đầy đủ bản chất của dẫn độ với các nội hàm sau:
Thứ nhất, mục đích dẫn độ: Định nghĩa nêu trên đã chỉ ra mục đích của dẫn

11


độ là truy cứu trách nhiệm hình sự và thi hành hình phạt đối với người phạm tội.
Hai mục đích này quyết định các nguyên tắc, thủ tục, trình tự dẫn độ trong các điều
ước quốc tế và cũng còn để phân biệt dẫn độ với các khái niệm liên quan, liền kề
trong luật quốc tế, như chuyển giao tội phạm đã bị kết án; chuyển giao vật chứng,
tài liệu hồ sơ vụ án...
Thứ hai, đối tượng của dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội đang có
mặt ở một quốc gia (quốc gia được yêu cầu dẫn độ) về quốc gia (quốc gia yêu cầu
dẫn độ) để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt. Cũng cần lưu ý là

gần đây, vào những năm 60 của thế kỷ 20 xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều
quy định chủ thể tội phạm là pháp nhân trong luật hình sự quốc gia. Tuy nhiên, quy
chế dẫn độ tội phạm trong luật quốc tế, cho đến hiện nay chỉ thừa nhận dẫn độ đối
với thể nhân (cá nhân) người phạm tội, không dẫn độ đối với pháp nhân.
Thứ ba, dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc được xác định do
các bên thỏa thuận trong điều ước quốc tế. Dẫn độ được thực hiện trên cơ sở sự tự
nguyện, thỏa thuận của các quốc gia, nhưng qua quá trình hình thành và phát triển
của chế định này cũng cho thấy việc dẫn độ được thực hiện trên cơ sở các nguyên
tắc được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế về dẫn độ. Những nguyên tắc
này được các quốc gia thừa nhận và xác định trong các điều ước quốc tế và nó giữ
vai trò nền tảng, định hướng cho toàn bộ quá trình dẫn độ, cũng như đối với việc
giải quyết các vấn đề pháp lý cụ thể có liên quan trực tiếp đến dẫn độ, như: Các
trường hợp dẫn độ, trường hợp không tiến hành dẫn độ và điều kiện dẫn độ tội
phạm… Ở mức độ khái quát nhất, những nguyên tắc dẫn độ sau được thừa nhận
rộng rãi và mang tính phổ biến như nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc có
đi có lại, nguyên tắc không dẫn độ công dân của mình, nguyên tắc tội phạm kép,
nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị…
Thứ tư, dẫn độ tội phạm là một quá trình với các thủ tục pháp lý của các bên
liên quan. Dẫn độ liên quan đến pháp luật của các quốc gia và những thỏa thuận
giữa họ với nhau tạo ra hệ thống các thủ tục tố tụng chặt chẽ trong quá trình dẫn độ.
Thủ tục này khác với thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự thông thường ở chỗ,

12


ngoài việc tuân theo thủ tục tố tụng hình sự chung, còn phải thực thi những thủ tục
tố tụng được thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan về dẫn độ. Do đó, thủ tục dẫn
độ là một trong những đặc điểm, những nội hàm của khái niệm dẫn độ.
1.1.2. Khái niệm chế định dẫn độ
Nếu như khái niệm “dẫn độ” dùng chỉ quá trình chuyển giao người phạm

tội để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đối với người đó (như đã
phân tích ở phần trên) thì “chế định dẫn độ” là khái niệm pháp lý để chỉ hệ thống
các quy phạm pháp lý điều chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia với nhau
trong quan hệ quốc tế. Chế định pháp luật hay định chế pháp luật hoặc chế định là
tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh nhóm
quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế
định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các
yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy
phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Trong các giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của các cơ sở
đào luật ở Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa về chế định pháp luật: “Chế định pháp
luật là nhóm những quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội
cùng loại có liên hệ mật thiết với nhau” [46, tr.335] hoặc “Chế định pháp luật bao
gồm một số quy phạm có những đặc điểm chung giống nhau, nhằm điều chỉnh một
nhóm quan hệ xã hội tương ứng” [39, tr 195]… Trên cơ sở cách tiếp cận này thì chế
định dẫn độ tội phạm được hiểu là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan
hệ dẫn độ tội phạm giữa các quốc gia, chỉ ra phạm vi tồn tại của các quy định làm
cơ sở cho việc dẫn độ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Do đặc trưng của
hoạt động dẫn độ thể hiện nội dung ngoài biên giới của các quốc gia nên chế định
dẫn độ tội phạm mang tính tổng hợp vừa bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tế
vừa bao gồm các quy phạm của quốc gia.
Trong khoa học luật hình sự và khoa học luật quốc tế, các nhà khoa học còn
có nhiều cách hiểu khác nhau về chế định dẫn độ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là
chế định thuộc ngành luật nhà nước hoặc ngành luật hành chính, vì quyết định về

13


vấn đề dẫn độ thường không phải là Toà án, mà là Chính phủ hoặc một cơ quan
hành pháp nào đó của Chính phủ. Có quan điểm cho rằng, dẫn độ là chế định thuộc

luật tố tụng hình sự, vì khi dẫn độ người phạm tội cho một nước khác, các cơ quan
chức năng phải tuân thủ những bảo đảm nhất định về mặt tố tụng. Có quan điểm lại
cho rằng, dẫn độ là một bộ phận hợp thành của luật hình sự, vì thuộc chế định thi
hành hình phạt . Hiểu dẫn độ theo những quan điểm này là chính xác. Bởi lẽ, dẫn
độ không chỉ nhằm mục đích thi hành hình phạt mà còn nhằm xét xử người bị dẫn
độ. Từ phân tích này GS.TSKH Lê Văn Cảm khẳng định: “Dẫn độ người phạm tội
là một chế định của luật hình sự nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia
trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm quốc tế và các tội phạm xuyên quốc
gia”… [11, tr.230].
Khái niệm khoa học về chế định dẫn độ nêu trên của GS.TSKH Lê Văn Cảm
tương đối đầy đủ, phản ánh được bản chất, nội dung chủ yếu của dẫn độ và nguồn
pháp luật điều chỉnh hoạt động dẫn độ trong hợp tác quốc tế. Chia sẻ cách tiếp cận
này của GS.TSKH Lê Văn Cảm, tác giả luận văn cho rằng những nội hàm của khái
niệm “chế định dẫn độ” gồm: Thứ nhất, dẫn độ không đơn thuần là chế định thuộc
luật hình sự mà là chế định mang tính chất liên ngành của luật hình sự, luật TTHS,
Luật hành chính và Luật quốc tế. Theo quan niệm truyền thống, luật hình sự được
hiểu một cách chung nhất là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan
đến tội phạm và các biện pháp trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, dẫn độ là một quá
trình mang tính động, liên quan đến việc chuyển giao người phạm tội từ nước này
(nước được yêu cầu) đến nước khác (nước yêu cầu) nhằm xét xử hoặc thi hành án.
Do vậy, bên cạnh các qui định về tội phạm và hình phạt của luật hình sự được dùng
làm căn cứ để xác định những tội phạm trong phạm vi dẫn độ còn có các quy định
về thẩm quyền (cơ quan nào có thẩm quyền dẫn độ, phạm vi và mức độ thẩm quyền
của các cơ quan tham gia vào hoạt động dẫn độ ở một quốc gia), quy định về thủ
tục, trình tự, thời hạn dẫn độ… Những quy định này không thuộc phạm vi điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật hình sự mà thuộc về luật hành chính, luật TTHS
nên dẫn độ là chế định liên ngành chứ không phải chỉ chế định của luật hình sự. Thứ
hai, căn cứ để dẫn độ không chỉ là các quy định trong các điều ước quốc tế về dẫn

14



độ, mà các quốc gia còn tiến hành dẫn độ cho nhau dựa trên nguyên tắc có đi có lại
khi chưa hoặc không thể ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến dẫn độ. Vì vậy,
bên cạnh các điều ước quốc tế về dẫn độ giữa các quốc gia còn có các quy phạm
pháp luật quốc tế chung được sử dụng làm cơ sở cho các thỏa thuận dẫn độ đối với
từng trường hợp cụ thể khi giữa các quốc gia chưa có hiệp định về dẫn độ.
Từ phân tích trên có thể định nghĩa chế định dẫn độ như sau: Chế định dẫn
độ là tổng hợp các quy pháp phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia điều
chỉnh hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia, trong đó, một nước (nước được yêu cầu)
chuyển giao người phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước khác
(nước yêu cầu) để nước được chuyển giao tiến hành xét xử hoặc thi hành hình phạt
đối với người đó.
Định nghĩa này phản ánh những đặc trưng sau của chế định dẫn độ:
a. Chế định dẫn độ bao gồm tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia
Trong khoa học pháp lý quốc tế có những quan điểm khác nhau về nguồn
của chế định dẫn độ tội phạm, nói cách khác là cơ sở của dẫn độ. Đây là vấn đề
phức tạp và chỉ khi xác định được rõ cơ sở của dẫn độ thì mới xác định được một
quốc gia có nghĩa vụ dẫn độ khi có yêu cầu hay không. Các nhà nghiên cứu về vấn
đề này đã đưa ra nhiều quan điểm về cơ sở của dẫn độ. Nhóm quan điểm thứ nhất
cho rằng cơ sở của dẫn độ chính là các điều ước quốc tế. Theo đó, các quốc gia
không có quyền cũng như nghĩa vụ phải dẫn độ người phạm tội nếu không có một
văn bản pháp lý quốc tế do quốc gia đó ký kết hoặc thừa nhận quy định quốc gia
đó có trách nhiệm trong việc dẫn độ tội phạm. Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng,
cơ sở của dẫn độ tội phạm là pháp luật của mỗi quốc gia. Trong hệ thống pháp luật
của mỗi nước, các quốc gia tự xây dựng cho mình những quy định về dẫn độ,
trong đó chỉ ra những tội phạm bị dẫn độ, các trường hợp dẫn độ và từ chối dẫn
độ, trình tự, thủ tục của việc dẫn độ… Khi có các vấn đề về dẫn độ tội phạm phát
sinh, các quốc gia sẽ dựa vào những quy định này để giải quyết các yêu cầu liên

quan đến dẫn độ tội phạm.

15


Thực tế cho thấy, dẫn độ là quyền thuộc chủ quyền của mỗi quốc gia, tức là một
quốc gia hoàn toàn có quyền tự quyết định việc có hay không dẫn độ người phạm tội
theo yêu cầu của một nước khác. Tuy nhiên, mỗi một quốc gia bất kỳ đều quan tâm tới
việc trấn áp tội phạm mà pháp luật của mình đã ghi nhận. Trong trường hợp tội phạm
như vậy có mặt ở lãnh thổ quốc gia khác thì việc bắt giữ người phạm tội và dẫn độ về
quốc gia trên chỉ có thể thực hiện khi có điều ước quốc tế giữa hai quốc gia hữu quan,
bởi vì điều ước thường ghi nhận quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các bên. Đối với những
quốc gia chưa ký kết điều ước quốc tế về dẫn độ thì việc dẫn độ có thể được thực hiện
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về dẫn độ được ghi nhận trong pháp luật quốc tế.
Trong trường hợp này, các quy phạm của luật quốc gia về dẫn độ mặc dù không phải là
cơ sở pháp lý trực tiếp để quốc gia thực hiện việc dẫn độ nhưng nó là cơ sở để quốc gia
yêu cầu dẫn độ quốc tế thực hiện yêu cầu của mình với điều kiện phù hợp với luật quốc
tế. Đây cũng là cơ sở để các quốc gia ký kết hay gia nhập các điều ước quốc tế về dẫn
độ tội phạm. Như vậy, cơ sở của dẫn độ tội phạm gồm có: các điều ước quốc tế, pháp
luật quốc gia và các nguyên tắc quốc tế về dẫn độ tội phạm.
b. Chế định dẫn độ điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ
Là tổng hợp các qui phạm pháp luật quốc tế và quốc gia, chế định dẫn độ
tội phạm điều chỉnh các nội dung của quan hệ giữa các quốc gia về dẫn độ, đó là:
Nghĩa vụ dẫn độ, đối tượng dẫn độ, điều kiện, thủ tục dẫn độ và những vấn đề
khác có liên quan…
Nghĩa vụ dẫn độ
Trong quan hệ quốc tế, nghĩa vụ dẫn độ là một trong những nội dung quan
trọng của các điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ. Theo đó, các điều ước này
hướng các quốc gia tới việc coi hoạt động dẫn độ như là một nghĩa vụ phải thực hiện
giữa các quốc gia thành viên. Khi phát sinh nhu cầu dẫn độ giữa hai nước thì nước

được yêu cầu sẽ tiến hành dẫn độ một cá nhân đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia
mình cho nước yêu cầu nhằm thực hiện việc xét xử hoặc thi hành bản án đã có hiệu
lực pháp luật đối với cá nhân đó theo pháp luật của quốc gia đưa ra yêu cầu. Như đã

16


phân tích, dẫn độ được hình thành từ nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia trong việc
đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo đó, các quy định về dẫn độ thường thể hiện
tính ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa các quốc gia trong hoạt động dẫn độ. Hiện
nay, các quy định của pháp luật về dẫn độ vừa tồn tại trong pháp luật quốc tế vừa tồn
tại trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự của quốc gia. Như vậy, nghĩa vụ dẫn độ
là một trong những nội dung điều chỉnh của chế định dẫn độ.
Đối tượng của dẫn độ
Việc quy định về đối tượng dẫn độ sẽ giúp các quốc gia thành viên trong các
điều ước quốc tế đưa ra yêu cầu dẫn độ phù hợp với loại tội phạm mà các quốc gia
đã xác định trong các điều ước. Thông thường các điều ước quốc tế chuyên môn sẽ
quy định đối tượng dẫn độ cụ thể là các loại tội phạm liên quan đến lĩnh vực chuyên
môn đó. Còn các điều ước quốc tế khác cũng sẽ ghi nhận đối tượng dẫn độ theo sự
thoả thuận của các quốc gia thành viên.
Điều kiện dẫn độ
Tuy dẫn độ tội phạm là nghĩa vụ quốc gia, nhưng khi tiến hành nó phụ thuộc
vào những điều kiện chung của pháp luật quốc tế cũng như những điều kiện trong
thỏa thuận riêng giữa các quốc gia. Những điều kiện đó thể hiện tập trung rõ nét
nhất ở các nguyên tắc của dẫn độ, như: Nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nguyên tắc
có đi có lại, nguyên tắc tội phạm kép, nguyên tắc không dẫn độ công dân nước
mình, nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị… Ngoài ra, trong mỗi điều ước
quốc tế song phương, đa phương cụ thể về dẫn độ, các quốc gia còn đưa ra những
trường hợp mà quốc gia được yêu cầu có quyền từ chối dẫn độ như không dẫn độ
người phạm tội quân sự, người bị buộc tội hoặc kết án hay bất kỳ tội nào khác mà vì

đó người này bị giam giữ hoặc xét xử, có hình phạt tử hình theo pháp luật của nước
yêu cầu; người bị dẫn độ có thể bị tra tấn bởi nước yêu cầu….
Thủ tục dẫn độ
Thủ tục dẫn độ là một trong những vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan
tâm. Thực tiễn cho thấy, các quy định về trình tự, thủ tục dẫn độ thường thuộc nội

17


dung điều chỉnh của pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, việc đưa ra các quy định này
trong các văn bản pháp luật của quốc gia và việc đáp ứng nhỏ lẻ, riêng rẽ như vậy
đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các quốc gia khác trong việc đưa ra yêu cầu về dẫn
độ. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện dẫn độ, các quốc gia đã thừa nhận những
thủ tục chung của yêu cầu dẫn độ tội phạm trong các điều ước quốc tế đa phương về
dẫn độ nhằm giúp cho hoạt động dẫn độ giữa các quốc gia thuận lợi, có hiệu quả.
c. Phân biệt chế định dẫn độ với các chế định khác có liên quan
- Chuyển giao tội phạm đã bị kết án
Chuyển giao tội phạm đã bị kết án và dẫn độ là hai chế định pháp lý khác
nhau về điều kiện, thủ tục và mục đích thực hiện. Chuyển giao tội phạm đã bị kết án
là việc cho phép các phạm nhân bị kết án ở nước ngoài được trở về nước nơi họ
mang quốc tịch hoặc nơi họ có mối quan hệ thân thiết để thi hành bản án đã có hiệu
lực pháp luật. Nhu cầu chuyển giao tội phạm đã bị kết án xuất phát từ nhiều lý do
khác nhau như việc thi hành bản án đối với phạm nhân là người nước ngoài thường
gây ra rất nhiều khó khăn cho nước sở tại về điều kiện thi hành bản án; quan hệ đối
ngoại giữa các nước; trách nhiệm của các nhà chức trách nước ngoài đối với công
dân của mình; vấn đề giáo dục người bị kết án tại cộng đồng sau khi đã thi hành
xong bản án... Quan điểm chung được thừa nhận trong cộng đồng quốc tế là việc
chuyển giao người phạm tội đã bị kết án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn
lương và tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội nhanh hơn khi họ thụ án ở
nước kết án.

Trong khuôn khổ luật quốc tế đã có Công ước về chuyển giao cá nhân bị kết
án tù giam được thông qua năm 1978 tại Beclin, Công ước Châu Âu về chuyển giao
tù phạm thông qua năm 1983, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã thông qua hiệp
ước quốc tế mẫu về chuyển giao từ phạm nước ngoài năm 1985 [21, tr.342]. Theo
các văn bản này, việc chuyển giao phạm nhân quốc tế cần đảm bảo các điều kiện
sau: thứ nhất, phạm nhân phải là công dân của nước nơi anh ta sẽ chuyển về; thứ
hai, phạm nhân đã có bản án có hiệu lực pháp luật; thứ ba, việc chuyển giao chỉ
được thực hiện khi có sự đồng ý của nước có tòa án đưa ra phán quyết và nước mà

18


×