Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Bắc Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.32 KB, 94 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trên thềm thiên niên kỷ mới- thiên niên kỷ với công nghệ cao và cạnh
tranh quyết liệt trong xu thế toàn cầu hoá, mọi nên kinh tế không thể hoạt
động đơn độc, khép kín, hoạt động kinh tế thế giới ngày càng sôi động.
Trong những năm qua cùng với sự ổn định và phát triển của mọi nền kinh tế
hoạt động ngân hàng nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng đã có nhiều
đóng góp tích cực thúc đẩy đời sống kinh tế xã hội nước ta.
Cùng với sự phát triển của nên kinh tế theo xu hướng mở cửa, hội
nhập. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam từng bước tiếp cận với
những nghiệp vụ tiên tiến của hệ thống ngân hàng quốc tế. Với mục tiêu
vững chắc trong tăng trưởng, chất lượng an toàn trong kinh doanh và có hiệu
quả, hệ thống ngân hàng thương mại đã không ngừng hoàn thiện nghiệp vụ,
hoạt động ngân hàng là một hoạt động đặc biệt chứa đựng nhiều rủi ro tiềm
ẩn do đó việc chú trọng đến mọi nghiệp vụ của ngân hàng nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động là điều cần thiết nhất là đối với hoạt động thẩm định dự
án đầu tư.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng ĐT & PT Bắc Hà Nội. Nhận
thức được tầm quan trọng của hoạt động thẩm định dự án đầu tư đối với
công cuộc đầu tư phát triển và hoạt động của ngân hàng em đã nghiên cứu
và chọn đề tài:
“ Thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Bắc Hà
Nội”
Trên cơ sở thực tiễn thẩm định tại ngân hàng em đưa ra một số kiến
nghị nhằm nâng cao hơn hiệu quả của hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại
Ngân hàng ĐT & PT Bắc Hà Nội đáp ứng nhu cầu đầu tư ngày một lớn của
nền kinh tế.
Đề tài của em gồm 3 phần:
Chương I: Những lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư


Chương II: Thực trạng thẩm định dự án đầu tư ở chí nhánh Ngân hàng


ĐT & PT Bắc Hà Nội
Chương III: Một số kiến nghị.
Do điều kiện thời gian có hạn và trình độ hạn chế đề tài không thể
tránh khỏi sai sót em kinh mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và
các bạn.
Sinh viên

Lê Duy Đích


CHƯƠNG 1: NHỮNG LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ
THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I.

KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

1.Khái niệm về đầu tư.
1.1. Khái niệm đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng
tiềm lực của nền kinh tế nói chung cũng như tiềm lực sản xuất của từng đơn
vị nói riêng, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của các thành
viên trong xã hội. Bất kỳ một quốc gia nào khi muốn tăng tiềm lực nền kinh
tế thì đều phải tiến hành hoạt động đầu tư. Xuất phát từ phạm vi phát huy tác
dụng của các kết quả đầu tư mà chúng ta có thể có những cách hiểu khác
nhau về đầu tư.
Ta có thể hiểu về đầu tư như sau: đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các
kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra, để đạt được
các kết quả đó.
Nguồn lực ở đây, đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao

động và trí tuệ. Những kết quả của đầu tư có thể là sự tăng thêm các tài sản
tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà cửa, đường xá...), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hoá chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ
điều kiện làm việc có năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong
các kết quả đạt được thì các kết quả tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồnn
hân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi. Hoạt động
đầu tư không chỉ mang ý nghĩa đối với nhà đầu tư là lợi nhuận mà nó còn có
ý nghĩa đối với cả nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài
chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm
trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ
sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của nghành,


của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, các cơ quan quản lý nhà nước và
xã hội nói riêng.
1.2. Phân loại đầu tư.
Đứng dưới các góc độ khác nhau, chúng ta có các cách hiểu khác nhau
về đầu tư. Tuy nhiên đứng dưới góc độ nền kinh tế xuất phát từ lợi ích mà
đầu tư mang lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây:
Đầu tư phát triển (đầu tư tài sản vật chất và sức lao động): là hoạt động
sử dung các nguồn lực tài chính, lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa
nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt, bồi dưỡng đào
tạo nguồn nhân lực... thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt
động của các hoạt động này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao
đời sống của mỗi thành viên trong xã hội.
Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trị, để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết
kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt

động sản xuất của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực
này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với
sự hoạt động của các hình thức đầu tư tài chính vốn bỏ ra đầu tư được lưu
chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm,
chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích
người có tiền bỏ ra đầu tư. Để giảm rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi,
mỗi nơi mỗi ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển.
Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và khi bán. Đầu tư thương mại không làmtăng tài sản cho
xã hội nhưng hoạt động của đầu tư này đã thúc đẩy quá trình lưu thông của
cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng


thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ
nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Như vậy, đầu tư có thể được hiểu là đầu tư tài chính, đầu tư phát triển,
đầu tư thương mại. Đứng trên góc độ nền kinh tế có ba loại hình thức đầu tư
này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, làm tiền đề cho nhau cùng phát
triển. Để có thể tiến hành đầu tư phát triển thì phải có vốn đó là các hoạt
động đầu tư tài chính những người có tiền, bỏ tiền ra tiến hành đầu tư và
hưởng lợi nhuận dựa trên lãi suất của hoạt động sản xuất kinh doanh. Một
khâu quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển đó là khâu tiêu thụ
những sản phẩm đó chính là hoạt động đầu tư thương mại. Khi thu được tiền
ở khâu thương mại thì tạo nguồn cho đầu tư tài chính hoạt động.
2. Khái niệm về thẩm định dự án đầu tư.
2.1. Dự án đầu tư
Hoạt động đầu tư đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, để đảm bảo

cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục mong
muốn đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt
công tác chuẩn bị. Mọi sự xem xét tính toán và chuẩn bị này được thể hiện
trong dự án đầu tư. Có thể nói, dự án đầu tư là kim chỉ nam, là cơ sở vững
chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế
– xã hội mong muốn.
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ. Về mặt hình thức dự
án đầu tư là một tập hợp hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ
thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả
và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ kế hoạch: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm
tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động
kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoách hoá nền kinh tế nói
chung.


Xét về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau, được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc
tạo ra những kết quả cụ thể trong một thơì gian nhất định, thông qua việc sử
dụng các nguồn lực xác định.
Như vậy, một dự án đầu tư bao gồm bốn thành phần chính:
-

Mục tiêu của dự án: thể hiện ở mục tiêu phát triển và những lợi

ích kinh tế – xã hội mà dự án đem lại và mục tiêu trước mắt là các mục đích
cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án
-


Các kết quả: kết quả này có thể định lượng được hoặc không

định lượng được được tạo ra từ hoạt động của hoạt động của dự án.
-

Các hoạt động là những nhiệm vụ hoặc những hành động được

thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định.
-

Các nguồn lực: về vật chất, tài chính và con người cần thiết để

tiến hành các hoạt động của dự án. giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này
chính là vốn đầu tư cần cho dự án.
Trong bốn thành phần trên thì các kết quả được coi là một mốc đánh
dấu tiến độ của dự án. Theo dõi xem xét đánh giá các hoạt động của dự án là
điều kiện tốt để đạt được kết quả mong muốn. Những hoạt động này có liên
quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là chủ yếu phải được
đặc biệt quan tâm.
Có thể minh hoạ trình tự hình thành của một dự án đầu tư như sau:
Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi
Thực hiện dự án

Dự án đầu tư khả thi


Nghiên cứu cơ hội đầu tư: đó là bước nghiên cứu sơ bộ nhằm xác định
triển vọng đem lại hiệu và sự phù hợp với thứ tự ưu tiên trong chiến lược

phát triển kinh doanh của ngành, của nền kinh tế vùng đất nước.
Nghiên cứu tiền khả thi: Đây là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ về các yếu
tố cơ bản của dự án như vị trí quy mô, thiết bị công nghệ, thị trường, nhu cầu
về vốn cũng như tổ chức thực hiện của dự án. kết quả của giai đoạn này là
cơ sở cho việc ra quyết định tiếp tục hoặc chấm dứt việc nghiên cứu của giai
đoạn tiếp theo.
Nghiên cứu khả thi: ở giai đoạn này phải khẳng định cơ hội đầu tư có
khả thi hay không. Trong giai đoạn này cần phải nghiên cứu toàn diện, chi
tiết và có hệ thống tính vững chắc của dự án trong các mặt kinh tế – xã hội,
thị trường, kĩ thuật, tổ chức quản lí, tài chính. Nghiên cứu khả thi được thực
hiện trên cơ sở thông tin chi tiết có độ chính xác cao hơn trong giai đoạn
nghiên cứu tiền khả thi. Đây là quyết định triển khai thực hiện dự án thực tế.
Như vậy, một dự án được coi là có cơ sở thực hiện phải trải qua nhiều
bước nghiên cứu để có thể xác định được chính xác các yếu tố ảnh hưởng
thuận lợi cũng như thách thức mà dự án gặp phải và phương án khắc phục để
có thể triển khai dự án trên thực tế.
2.2. Thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan
có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính
khả thi thực hiện dự một dự án từ đó ra quyết đinh đầu tư và cho phép đầu
tư.
Đây là một quá trình kiểm tra và đánh giá các nội dung của dự án một
cách độc lập tách biệt với qúa trình soạn thảo dự án. thẩm định dự án đã tạo
ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ
quá trình là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu
tư và cho phép đầu tư
* Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết đối với mọi công cuộc đầu tư.


Để một lượng vốn lớn bỏ ra ở hiện tại và chỉ có thể thu hồi vốn dần

trong tương lai khá xa, thi trước khi chi vốn vào các công cuộc đầu tư phát
triển, các nhà đầu tư đều tiến hành soạn thảo dự án. soạn thảo và thực hiện
dự án là công việc rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều
lĩnh vực... nên phải huy động sực lực trí tuệ của nhiều người nhiều tổ chức,
việc lắp ghép trí tuệ, phối hợp các hành động của nhiều thành viên, tổ chức
trong tiến hành đầu tư khó tránh khỏi những bất đồng, mâu thuẫn hay sai
sót, và vậy cần phải theo dõi điều chỉnh lại.
Thẩm định đầu tư là sự cần thiết khách quan:
Quá trình soạn thảo dự án đầu tư dù có chuẩn bị kĩ càng đến mấy cũng
vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người thẩm định thường
khách quan hơn trong việc nhìn nhận đánh giá dự án. Khi soạn thảo và giải
trình chi tiết dự án có thể có những sai sót, các ý tưởng có thể mâu thuẫn,
không phù hợp, không lô gíc thậm chí có thể gây ra tranh chấp giữa các đối
tác tham gia dự án đầu tư, thẩm định sẽ xem xét lại những vấn đề đó .
Dự án đầu tư cần huy động một nguồn lực lớn, liên quan đến nhiều
thành phần khác nhau nên cần có sự phối hợp hài hoà giữa các đối tác tham
gia đầu tư thẩm định chính là để phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
các đối tác tham gia đầu tư.
Thẩm định được tiến hành với tất cả các dự án thuộc mọi thành phần
kinh tế. Tuỳ thuộc vào yêu cầu, nội dung, quy mô, tính chất của dự án mà
thẩm định có những mức độ chi tiết khác nhau.
Tuy nhiên, mục đích chung của thẩm định là:
 Đánh giá tính phù hợp của dự án: mục tiêu của dự án phải phù
hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của ngành, của đia
phương.
 Đánh giá tính hợp lí và thống nhất của dự án: tính hợp lí được
biểu hiện tổng hợp trong tính hiệu quả, tính khả thi, từng nội dung và cách
tính toán của dự án.



 Đánh giá tính hiệu quả của dự án:hiệu quả của dự án được xem
xét trên 2 phương diện là hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
 Đánh giá tinhd khả thi, tínhhiện thực của dự án:Đây là mục đích
hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lí và có hiệu quả
cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hợp lí và hiệu quả là 2 điều kiện quan
trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội
dung và phạm vi rộng hơn của dự án (kế hoạch hoá tổ chức thực hiện, môi
trường pháp lí của dự án...)
2.3 Các chủ thể thẩm định dự án đầu tư .
Dự án đầu tư là cơ sở của mọi công cuộc đầu tư. Mọi đối tác tham gia
đầu tư đều quan tâm trước hết đến dự án đầu tư. Dự án đầu tư sẽ được thực
hiện khi đã được tất cả các đối tác thông qua. Moị đối tác đều có quyền thẩm
định đối với dự án đầu tư vì họ sẽ phải bỏ vốn, bỏ sức, cho nên họ cần biết
dự án có khả thi hay không.
2.3.1 Cơ quan nhà nước quản lí vĩ mô.
Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá
trình lựa chọn các dự án đầu tư. Mọi dự án đều cần đến nguồn vốn, nguồn
vốn đó có thể là trong nước hoặc nước ngoài. Dự án thực hiện trong nước thì
nó ảnh hưởng đến đời sống nhân dân trong nước về môi trường, mức sống
điều kiện sống...cho nên với mỗi dự án, nhà nước thẩm định để quyết định
đầu tư, cho phép đầu tư và quy định về đầu tư như: Bộ kế hoạch và đầu tư,
Bộ tài chính, Bộ xây dựng, các bộ chuyên nghành, UBND cấp tỉnh, huyện,
xã hướng đầu tư theo chiến lược phát triển quy định của đất nước, đồng thời
khuyến khích các dự án mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao như giải quyết
việc làm, giảm tệ nạn xã hội, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội. Thông
qua thẩm định nhà nước tài trợ vốn cho các dự án tránh lãng phí nguồn vốn,
tăng tính hiệu quả của nguồn vốn bỏ ra.
2.3.2 Chủ đầu tư.
Chủ đầu tư là người đưa ra dự án đầu tư, là người chiụ trách nhiệm về
dự án, tham gia bỏ vốn và kêu gọi những nguồn vốn khác cho dự án. Để



khẳng định được quyết định của mình là đúng đắn và có hiệu quả thì việc
xem xét lại dự án là công việc không thừa một chút nào. Việc thẩm định dự
án, xem xét tính hiệu quả, tímh khả thi, tính hiện thực của dự án sẽ làm cho
chủ đầu tư thu được kết quả tốt hơn.
Một nhà đầu tư giỏi là người biết tìm cơ hội, tạo cơ hội, thu hút đầu tư
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó do đó việc thẩm định các dự án đầu tư
tạo ra sự an toàn trong hoạt động đầu tư của chủ đầu tư.
2.3.3 Các tổ chức tài chính (ngân hàng, quỹ tín dụng, tổng cục đầu
tư ..).
Các tổ chức này là nơi cung cấp nguồn vốn cho các dự án. Các tổ chức
sẽ tài trợ cho các dự án khi thấy sự hiệu quả của dự án đem lại cho mình. Để
đảm bảo là nguồn vốn đầu tư có hiệu quả thì quá trình thẩm định sẽ giúp các
tổ chức tài chính có những quyết định đúng đắn cho việc tài trợ các dự án
đầu tư cũng như đầu tư vào các dự án.Thẩm định để tài trợ cho các dự án là
để phục vụ nhu cầu của nền kinh tế nhưng cũng vì lợi ích của chính các tổ
chức tài chính vì ở đây diễn ra hoạt động kinh doanh tiền tệ, đi vay tiền để
cho vay. Chính vì thế sử dụng vốn hiệu quả thì các tổ chức tài chính mới thu
hút được vốn để hoạt động và như thế mới tồn tại được.
Như vậy, mọi đối tượng tham gia đầu tư đều cần thiết thẩm định dự án
đầu tư. Quá trình thẩm định có một ý nghĩa rất lớn đảm bảo cho việc sử
dụng có hiệu quả đồng vốn đầu tư va lợi nhuận đem lại.
II.

THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1. Ngân hàng thương mại chức năng và vai trò.
Theo quy định của Việt nam trong luật ngân hàng ra đời năm 1999:
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức kinh doanh tiền tệ, trong

đó nó được phép thực hiện mọi hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác
có liên quan đến tiền tệ .
Về mặt bản chất, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh trên một lĩnh vực đặc biệt là tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân
hàng. Như vậy phạm vi hoạt động của ngân hàng thương mại là rất rộng.


Chức năng của ngân hàng thương mại .
* Chức năng làm trung gian tín dụng.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa người có vốn và người vay vốn.

Thông qua việc huy động các khoản tiền nhànhà nước rỗi ngân hàng
hình thành nên quỹ cho vay và cho vay lại đối với nền kinh tế cả ngắn hạn
và dài hạn. Với chức năng này ngân hàng vừa đóng vai trò là người đi vay
và cho vay, góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
-Đối với người gửi tiền: Họ thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi của
mình do ngân hàng trả lãi tiền gửi cho họ.
-Đối với người đi vay: sẽ thoã mãn nhu cầu về vốn kinh doanh rất tiện
lợi chắc chắn và hợp pháp.
-Đối với ngân hàng thương mại: họ sẽ tìm được lợi nhuận từ chênh lệch
lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới.
-Đối với nền kinh tế: chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu vốn để đảm quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất.
* Chức năng trung gian thanh toán.
Với việc giữ tiền của khách hàng. Ngân hàng thực hiện thanh toán theo
yêu cầu của khách hàng thông qua tài khoản như: trích tiền từ tài khoản tiền
gửi của họ để thanh toán tiền hang, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
của khách hàng những khoản thu theo lệnh của họ. Ngân hàng thực hiện
chức năng thanh toán dựa trên cơ sở thực hiện chức năng tín dụng. Chức

năng này làm lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu
chuyển vốn do đó góp phần tăng trưởng kinh tế, các chủ thể tiết kiệm được
nhiều chi phí lao động, thời gian nhanh và được đảm bảo thanh toán an toàn.
* Chức năng tạo tiền.


Trên cơ sở hai chức năng trên chức năng tạo tiền được hình thành. Đó
chính là việc làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, vong quay của tiền khi đưa vào
nền kinh tế.
Vai trò của ngân hàng đối với hoạt động của nền kinh tế.
Ngân hàng là đầu mối của bên đi vay và bên cho vay. Khi nền kinh tế
càng phát triển thì nhu cầu vốn của doanh nghiệp cho đầu tư càng lớn. Ngân
hàng với chức năng chuyên môn hoá của mình trong hoạt động kinh doanh
tiền tệ đã huy đọng được một lượng lớn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để
đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
Ngân hàng đã góp phần quan trọng taọ ra những chuyển biến lớn của
nền kinh tế. Về vĩ mô thực hiện các chính sách tiền tệ , đó là nền kinh tế tăng
trưởng từ 8%-9%/năm. Về cụ thể, tạo ra những thay đổi lớn về cung cầu của
nhiều mặt hàng trên thị trường xã hội, kim nghạch xuất nhập khẩu không
ngừng tăng lên...thúc đẩy hoạt động cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh và
tiêu thụ hàng hoá thúc đẩy sự phân công lao động trong xã hội nhờ có vốn
đầu tư kịp thời.
2. Vị trí, vai trò của thẩm định dự án đầu tư đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
1. Vị trí của thẩm định đầu tư đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Để có thể cho vay có hiệu quả ngân hàng thực hiện theo một quy trình
cho vay:
Bước 1:hướng dẫn khách hàng nộp hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính đầy đủ,
hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ.
Bước 2: Thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ.

Bước 3: Quyết định cho vay.
Bước 4: Giải ngan, kiểm tra giám sát.
Bước 5: Thu nợ, thu lãi, phi và xử lí phát sinh.
Bước 6: Kết thúc hợp đồng tín dụng.
Như vậy thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ dự án là khâu đầu tiên
trong việc thực hiện nghiệp vụ cho vay của ngân hàng (gồm: khả năng vay,


chi trả của người vay và khả năng bảo đảm vay tín dụng ) và khi ngân hàng
cung cấp tiền vay, ngân hàng phải có cơ sở để tin rằng khách hàng sẽ trả nợ,
nếu như ngân hàng không có cơ sở thì quan hệ tín dụng không xaỷ ra.
2.2 vai trò của thẩm định trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
Thực chất của việc thẩm định là để xem xét khách hàng vay vốn có thể
trả nợ tiền vay, tiền lãi và các khoản khác kịp thời hay không, dự án đầu tư
có hiệu quả hay không. Tất cả những điều còn lại chỉ là những đặc trưng bên
ngoài của hợp đồng tín dụng mà mục đích chính là thu được lợi ích tối đa.
Có thể thấy, thẩm định dự án đầu tư đóng vai trò trong các bước thực
hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhờ khâu thẩm định dự án mà
ngân hàng có thể đưa ra các quyết định đúng đắn để cho vay cũng như
không cho vay các dự án đầu tư vì hầu như toàn bộ là tiền của dân, các tổ
chức khác cho ngân hàng vay. Vai trò của thẩm định được thể hiện trên các
mặt sau:
-Thông qua thẩm định ngân hàng có cơ sở quan trọng để quyết định chủ
trương bỏ vốn đầu tư đúng đắn, đảm bảo hiệu quảcủa vốn đầu tư. Sau khi
thẩm định ngân hàng sẽ tiến hành tài trợ cho các dự án có khả năng trả cả lãi
và gốc, đồng thời từ chối các dự án không có khả năng hoàn trả.
-Thẩm định giúp ngân hàng giải ngân được nguồn vốn từ đó làm giảm
lượng vốn tồn đọng trong ngân hàng làm tăng vòng quay của vốn ngân hàng,
tăng lợi nhuận.
-Thông qua thẩm định ngân hàng đã tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử

dụng vốn đúng mục đích đối tượng, ngân hàng sẽ thực hiện kiểm tra trước
trong và sau khi phát vaycc khoản tiền vay để đảm bảo việc sử dụngvốn
đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm vốn.
-Thẩm định giúp cho ngân hàng xác định được hiệu quả đầu tư của dự
án đây là cơ sở tương đối vững chắc để xác định khả năng thanh toán hoàn
trả vốn cũng như hoàn trả nợ.


Thẩm định đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng không chỉ có ý
nghĩa về nghiệp vụ cho vay mà còn có ý nghĩa về đầu tư của dự án mà ngân
hàng tham gia tài trợ.
3. Phân cấp thẩm định.
Để hoạt động thẩm định phục vụ tốt hơn nhu cầu hợp lí của khách hàng
trong hoạt động tín dụng thì việc phân chia các bước thực hiện, xác định
người thực hiện và trách nhiệm người thực hiện là rất quan trọng. Trong hoạt
động thẩm định cho vay tín dụng trung dài hạn của ngân hàng Thương mại
được chia làm hai cấp: thẩm định tại hội sở chính và chi nhánh.
3.1 Thẩm định tại hội sở chính.
Việc thẩm định với những dự án trọng điểm,có sự tham gia của nhiều
ngân hàng có quy mô vốn lớn và tái thẩm định những dự án do cấp dưới
chuyển lên, thẩm định những nội dung tương tự như ở chi nhánh.
Ở ngân hàng Đầu tư & Phát triển Hà Nội phân quyền thẩm định ở hội
sở chính được quy định theo công văn số 650 ngày 13/11/2001. Hội sở chinh
được quyền thẩm định những dự án có quy mô sau.
Loại hình khách Doanh nghiệp Doanh

Tư nhân cá thể,

hàng nhà nước và nghiệp


hộ kinh tế gia

Khoản cấp

DNNN đã cổ ngoài quốc đình

Tín dụng

phần hoá

doanh

Tín dụng ngắn hạn

>30 tỷ VND

>5 tỷ VND

>500 triệu VND

>3 tỷ VND

>500 triệu VND

>5 năm

>5 năm

>5 tỷ VND


>1 tỷ VND

Tín
trung

dụng Mức cho vay >5 tỷ VND
dài vốn

hạn

Thời gian cho >5 năm
vay

Bảo lãnh

>30 tỷ VND


Thời gian quyết định cho vay được quy định cho hội sở chính là 12
ngày kể từ khi nhận được đày đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin chi tiết
của khách hàng và chi nhánh .
3.2 Thẩm định ở chi nhánh.
Tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng thương
mại mà việc thẩm định của chi nhánh được phân cấp cho những dự án có
quy mô khác nhau. Cán bộ thẩm định có trách nhiệm thẩm định những dự án
trong phạm vi được phân cấp, uỷ quyền thường xuyên kiểm tra, kiểm soát
chặt chẽ phát hiện và đưa ra hành động khắc phục kịp thời. Việc quyết định
cho vay là do Giám đốc chi nhánh hay người được uỷ quyền hợp pháp theo
quy định của ngân hàng.
Trong hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thì phân quyền

thẩm định ở chi nhánh được quy định theo công văn mới nhất số 642 ngày
12-11-2001 Giám đốc được duyệt hạn mức tín dụng cao nhất với từngnghiệp
vụ và từng ngân hàng như sau:
đơn vị triêu đồng
Tín dụng ngắn hạn

Tín dụng trung dài

Bảo lãnh

Quốc

Ngoài



hạn <= 5 năm
Quốc Ngoài



Quốc

Ngoài

doanh

Quốc

nhân


doanh

Quốc

nhân

doanh

Quốc

15.00

doanh
3.000

cá thể
300

3.000

doanh
1.000

cá thể
300

15.000

doanh

3.000

0
Thời gian xem xét cho vay được quy định không quá 25 ngày làm việc
đối với dự án nhóm A và 18 ngày đối với dự án nhóm B, 12 ngày đối với
những dự án còn lại kể từ khi chi nhánh nhận được Hồ sơ vay vốn hợp lệ và
thong tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của chi nhánh, chi nhánh
phải ra quyết định cho vay hay không.


4. Quy trình thẩm định ở Ngân hàng thương mại.
Ngày nay các ngân hàng và các định chế tài chính cho vay khác thành
lập các quy trình tín dụng để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình.
Việc xây dựng quy trình hợp lí sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi.
4.1 Trình tự thẩm định dự án đầu tư.
Nhằm thoã mãn nhu cầu hợp lí của khách hàng trong quan hệ với ngân
hàng, đồng thời giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa
học,phòng ngừa hạn chế rủi ro và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng
thẩm định cần được thực hiện theo trình tự rõ rãng.
Khi một dự án muốn vay vốn của ngân hàng thì nơi tiếp nhận hồ sơ
chính là phòng tín dụng. Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh
hồ sơ, bổ xung hồ sơ. Khi đủ hồ sơ thì giao hồ sơ cho cán bộ thẩm định.
Cán bộ thẩm định tổ chức xem xét, thẩm định dự án đầu tư và khách
hàng xin vay vốn. Nếu cần thiết thì cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng bổ
xung thông tin hoặc giải trình rõ thêm về việc vay vốn để đầu tư.
Sau khi thẩm định hoàn tất thì cán bộ thẩm định lập báo cáo thẩm định
dự án trình trưởng phòng thẩm định xem xét trong đó nêu đủ nội dung về
khách hàng vay vốn và dự án vay vốn, kết quả thẩm định dự án đầu tư, biện
pháp bảo đảm tiền vay, biện pháp giảm thiểu rủi ro, tổng hợp đánh giá dự án

trên hai mặt: những thuận lợi và khó khăn của dự án đầu tư.
Trên công nghệ cơ sở báo cáo thẩm định của cán bộ thẩm định, trưởng
phòng thẩm định kiểm tra, kiểm soát về nghiệp vụ, thông qua hoặc yêu cán
bộ thẩm định chỉnh sửa, làm rõ các nội dung.
Cán bộ thẩm định hoàn chỉnh nội dung báo cáo thẩm định, trình trưởng
phòng thông qua và lưu hồ sơ gửi cho phòng tín dụng để thực hiện tiếp qui
trình tín dụng của ngân hàng.
4.2. Nội dung thẩm định dự án đầu tư.
Một dự án chỉ đựơc chấp nhận cho vay khi ngân hàng đã tin tưởng chắc
chắn vào thái độ sẵn sàng trả nợ của khách hàng. Để có được quyết định


chính xác trong việc cấp tín dụng ngân hàng tiến hành thẩm định những nội
dung sau:
Kiểm tra hồ sơ vay vốn
Các tài liệu gửi đến ngân hàng phải là bản chính trừ trường hợp khách
hàng chỉ có một bản chính duy nhất thì ngân hàng nhận bản sao có công
chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền như các tài liệu chứng minh năng lực
pháp luật, năng lực hành vi dân sự, tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ,
khả năng tài chính và người bảo lãnh. Hồ sơ dự án bao gồm:
+ Đơn xin vay vốn.
+ Quyết định thành lập doanh nghiệp.
+ Giấychứng nhận đăng kí kinh doanh.
+ Giấy phép hành nghề đối với những nghành nghề cần giấy phép.
+ Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 3 năm gần nhất.
+ Dự án khả thi hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật.
+ Giải trình hiệu quả kinh tế dự án của các đơn vị.
+ Quyết định phê duyệt dự án đầu tư của cấp có thẩm quyền.
+ Các văn bản khác: thiết kế kinh tế kỹ thuật và tổng dự toán, các quyết
định, văn bản chỉ đạo, các văn bản liên quan ưu đãi các cấp các ngành có

liên quan như:
 phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường, phòng cháy
chữa cháy.
 tài liệu đánh giá chứng minh nguồn nguyên vật liệu, thị trường
của dự án.
 quyết định giao đất, cho thuê đất, hợp đồng thuê đất, thuê nhà
xưởng để thực hiện dự án.
 Các văn bản liên quan đến việc đền bù, giải phóng mặt bằng,
chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
 Thông báo kế hoạch đầu tư năm của các cấp có thẩm quyền.
 Tài liệu chứng minh về vốn đầu tư hoặc các nguồn vốn tham gia
đầu tư dự án.


 Các văn bản có liên quan đến quá trình Đấu thầu thực hiện dự án:
phê duyệt kế họach Đấu thầu, kết quả Đấu thầu, hợp đồng giao
nhận thầu.
 Hợp đồng thi công xây lắp, cung cấp thiết bị, phê duyệt hợp đồng
nhập khẩu thiết bị.
 Các tài liệu có liên quan đến dự án (nếu có).
Thẩm định khách hàng vay vốn
Ngân hàng thương mại phân biệt hai nhóm khách hàng vay vốn: khách
hàng đã thiết lập mối quan hệ với ngân hàng và khách hàng mới quan hệ lần
đầu với ngân hàng. Nhìn chung những thông tin mà ngân hàng cần để thẩm
định bao gồm:
Năng lực pháp lý của khách hàng: việc xác định trách nhiệm và quyền
hạn của mỗi bên trong quan hệ tín dụng là rất quan trọng. Năng lực pháp lý
sẽ phản ánh vị trí, quyền hạn trách nhiệm của khách hàng trong việc thực
hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này đảm bảo cho ngân hàng
xác định rõ đối tác trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng đúng theo qui

định của pháp luật. Năng lực pháp lý của doanh nghiệp được thể hiện ở
quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép đầu tư, đăng kí kinh doanh,
thời gian hoạt động, tổ chức của doanh nghiệp.
Thẩm định năng lực và uy tín của khách hàng: năng lực hoạt động cảu
doanh nghiệp được phản ánh thông qua:
Ngành nghề kinh doanh: kiểm tra sự phù hợp ngành nghề kinh doanh
trong đăng kí kinh doanh với nghành nghề kinh doanh hiện tại của doanh
nghiệp và phù hợp với dự án dự kiến đầu tư.
Mô hình tổ chức, bố trí lao động: phản ánh qui mô hoạt động của doanh
nghiệp, cơ cấu tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
trình độ quản lý, tay nghề, thu nhập của người lao động.
Quản trị điều hành của lãnh đạo: năng lực chuyên môn, quản trị điều
hành, phẩm chất tư cách đạo đức, uy tín của lãnh đạo trong và ngoài doanh
nghiệp, khả năng nắm bắt thị trường.


Quan hệ của khách hàng với tổ chức tín dụng: quan hệ tín dụng, quan
hệ tiền gửi, thanh toán.
Trên cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức bố trí lao
động, quan hệ của khách hàng, ngân hàng tiến hành nhận xét về khả năng
làm việc, hiệu quả làm việc, uy tín của khách hàng trong quan hệ với bạn
hàng khác, đặc biệt là trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng khác.
Tình hình sản xuất kinh doanh: việc tính toán xác định các chỉ số đánh
giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng cần phải được
thực hiện qua nhiều năm. Ngân hàng tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá và so
sánh với thực tế sản xuất kinh doanh của khách hàng để việc đánh giá được
chính xác và toàn diện. Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng phản
ánh khả năng của khách hàng trong việc thực hiện dự án.
Việc xác định nhu cầu vay tín dụng, xác định qui mô hợp lý là rất quan
trọng. Tuỳ theo hoạt động của khách hàng mà ngân hàng xác định nhu cầu

vay vốn hợp lý, tuỳ theo qui mô về vốn cần thực hiện mà ngân hàng xác
định số vốn nên tham gia.
Hồ sơ bảo đảm tiền vay: có thể bảo đảm bằng tài sản cầm cố thế chấp
của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Cũng có thể bảo
đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Một số chỉ tiêu đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của
khách hàng:
Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động:
Doanh thu thuần
 Vòng quay vốn lưu động =
Tài sản lưu động bình quân
Chỉ số này cho biết số lần toàn bộ số vốn đầu tư chuyển thành thanh
toán thương mại. Chỉ số này thấp thì vốn đầu tư không được sử dụng một
cách có hiệu quả và có khả năng khách hàng dự trữ hàng hoá quá nhiều hay
tài sản không được sử dụng có hiệu quả hoặc đang vay mượn quá mức.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời:


 khả năng sinh lời của tổng tài sản:
Lợi nhuận trước thuế
=
Tổng tài sản
Chỉ số này xác định được khả năng sinh lời của tổng tài sản, tỷ lệ này
càng cao càng tốt.
 Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu:
Lợi nhuận sau thuế
=
vốn chủ sở hữu
Chỉ số này cho biết lợi nhuận thực tế đạt được trên vốn chủ sở hữu của
khách hàng, đánh giá khả năng kinh doanh thực sự của doanh nghiệp, chỉ số

này càng cao càng tốt, ít nhất phải cao hơn lãi suất vay trong kì.
 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (tỷ suất lợi nhuận ròng)

Lợi nhuận sau thuế
=
Doanh thu bán hàng
Chỉ số này được tính để biết được năng lực kinh doanh, cạnh tranh
của khách hàng trong việc tạo ra lợi nhuận, tỷ suất càng cao càng tốt.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn:
 Hệ số nợ.
Tổng số nợ phải trả
=
Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp
Chỉ số này phản ánh số nợ của doanh nghiệp so voéi tổng nguồn vốn.
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt.
Tài sản lưu động


 Cơ cấu nguồn vốn =
Tổng tài sản
Chỉ số này cho biết được cơ cấu nguồn vốn có hợp lí hay không. Tuỳ
thuộc vào từng nghành nghề khác nhau mà xác định được tỷ số nào là hợp lí,
tỷ số nào sẽ lớn ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và
nhỏ ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nhóm chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng của khách hàng:
 Tốc độ tăng trưởng, tăng doanh thu:
Doanh thu kỳ hiện tại
=
Doanh thu kỳ trước
 Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận:

Lợi nhuận kỳ hiện tại
=
Lợi nhuận kỳ trước
Hai chỉ tiêu trên thể hiện tốc độ tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận
của khách hàng, tốc độ tăng trưởng càng cao càng tốt.
Thẩm định dự án đầu tư :
Ngân hàng tiến hành thẩm định dự án đầu tư trên các khía cạnh: kinh tế
xã hội, tài chính, thi trường, kỹ thuật, tổ chức quản lí nhưng sẽ tập trung phát
tích đánh giá về khía cạnh hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án,
các khía cạnh còn lại sẽ được đề cập tới tuỳ theo đặc điểm và yêu cầu của
từng dự án . Các nội dung chính khi thẩm định dự án cần tiến hành gồm:
1. Đánh giá sơ bộ các nội dung chính của dự án. Đó chính là việc xác
định mục tiêu đầu tư của dự án, sự cần thiết đầu tư dự án,quy mô đầu tư,
công suất thiết kế, giải pháp công nghệ, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ đầu ra
của dự án,phương án tiêu thụ sản phẩm. Quy mô vốn, cơ cấu vốn đầu tư theo
các tiêu chí khác nhau (xây lắp, thiết bị, chi phí khác, lãi vay trong thời gian
thi công và dự phòng phí, vốn cố định và vốn lưu động), phương án nguồn


vốn để thực hiện nguồn vốn sở hữu: vốn tự có, vốn được cấp, vốn vay, vốn
liên doanh liên kết…Dự kiến tiến độ, triển khai dự án.
2.Thẩm định nguồn vốn và tính khả thi của phương án nguồn vốn:
Vốn là yếu tố quan trọng để tiến hành đầu tư. Để trách việc vốn đầu tư
tăng lên hoặc giảm đi so với dự kiến ban đầu dẫn đến không cân đối được
nguồn vốn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Trên cơ
sở tổng vốn đầu tư được duyệt ngân hàng xác định mức vốn tài trợ tối đa mà
ngân hàng nên tham gia vào dự án, tiến độ thực hiện dự án, tiến độ rót vốn.
Cân đối nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn
thực hiện dự án. Đây là một nội dung làm cơ sở cho việc thẩm định hiệu quả
tài chính sau này.

Tổng vốn đầu tư: Xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế sẽ là cơ sở
để tính toán hiệu quả tài chính và dự kiến khả năng trả nợ của dự án. Tổng
vốn đầu tư được xem xét ở các khía cạnh tính toán, đúng đủ các khoản mục
cần thiết, yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lượng, dự
phòng việc thay đổi tỷ giá hối đoái nếu dự án có sử dụng ngoại tệ. Trên cơ
sở đó cán bộ thẩm định đưa ra cơ cấu đầu tư hợp lí mà vẫn đảm bảo mục tiêu
dự kiến ban đầu của dự án.
Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án: dự án có
nhiều hạng mục công trình không thể tiến hành cùng một lúc. Để đảm bảo
nguồn vốn được sử dung đúng mục đích, việc đánh giá về tiến độ thực hiện
dự án và nhu cầu vốn cho từng giai đoạn như thế nào, có hợp lí hay không là
rất quan trọng. Kiểm tra tính hiện thực của vốn tự có và vốn huy động khác,
tránh tình trạng đơn vị kê khai vốn tự có cao để đảm bảo đủ tỷ lệ tham gia
nhưng thực tế không có đủ vốn. Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn trong từng
giai đoạn thực hiện dự án để đảm bảo tiến độ thi công. Việc xác định tiến độ
thực hiện dự án, nhu cầu vốn làm cơ sở cho việc dự kiến tiến độ giải ngân,
tính toán lãi vay trong thời gian thi công và xác định thời gian vay trả.
Nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn tham gia tài trợ cho dự án. Khả năng
tham gia của từng loại nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa dự án


vào hoạt động. Cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia tài trợ
của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của các nguồn vốn tham
gia thực hiện dự án.
3.Thẩm định tính khả thi của dự án :
Tính khả thi của dự án được thể hiện ở các mặt sau:
Đầu vào của dự án: là yếu tố quyết định tính kịp thời, thông suốt trong
quá trình thực hiện dự án. Nếu sản phẩm đầu vào ít, nhiều sẽ ảnh hưởng đến
chi phí và tiến độ dự án. Do đó thẩm định xem xét các mặt sau:
-Khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào: với quy mô sản xuất của

dự án, xét giải pháp cho đầu vào của dự án, chi phí vận chuyển bốc dỡ, có
nhập khẩu hay không, giá cả có hợp lí với đầu ra hay không, nhà cung cấp,
sự ổn định và kịp thời trong việc cung cấp nguyên vật liệu đầu vào.
Việc phân tích này nhằm xác định: dự án có chủ động được nguồn
nguyên vật liệu đầu vào không. Những thuận lợi, khó khăn đi kèm để có thể
chủ động được nguồn nguyên liệu đầu vào.
-Địa điểm xây dựng dự án. Đó là sự xem xét cơ sở vật chất, hạ tầng
hiện có của địa điểm xây dựng có thuận khó khăn gì cho việc thực hiện dự
án. Sự thuận lợi về mặt giao thông hay khó khăn đến việc cung cấp nguyên
vật liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
-Kỹ thuật công nghệ: Đay là yếu tố quyết định quy mô, tính chất của dự
án, thời gian hoạt động của dự án. Công gnhệ có đảm bảo công suất dự kiến
của dự án, phù hợp với lực lượng sản xuất hiện có của doanh nghiệp. Đối
với những thiệt bị mới cần thuê tư vấn chuyên nghành để thẩm định được
chính xác cụ thể. Công nghệ thường chiếm một tỷ lệ vốn lớn trong tổng vốn
đầu tư. Đây là công cụ thực hiện dự án. Ngân hàng đánh giá công nghệ trên
các mặt công tác hoạt động, công dụng của thiết bị trong hoạt động kinh
doanh của dự án cũng như của doanh nghiệp, dặc biệt là giá cả của công
nghệ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của dự án.
-Tổ chức quản lí thực hiện dự án: dự án có khả thi hay không và thực
hiện Đấu thầu được không nhỏ vào quá trình tổ chức và quản lí dự án. Do đó


ở khâu này cần xem xét năng lực, uy tín của các nhà thầu, thi công cung cấp
thiết bị, công nghệ …đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối
với việc tiếp cận, điều hành công nghệ thiết bị mới, đánh giá về nguồn nhân
lực của dự án.
Thị trường và khả năng tiêu thụ đầu ra:
Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án đóng vai trò
quan trọng, quyết định việc thành bại của dự án. Vì vậy, cán bộ thẩm định

cần xem xét, đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định dự án. Các nội
dung chính cần xem xét, đánh giá bao gồm:
-

Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm dự án: nhu cầu của sản

phẩm thể hiện qua quan hệ cung cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra. Tình
hình sản xuất tiệu sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định. Trên
cơ sở xác địnhnhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu trong tương lai đối với
sản phẩm,dịch vụ đầu ra, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị
trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm dự án trong đó lưu ý liên hệ
với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng ssản phẩm dự án có thể bị thay thế
bởi các sản phẩm khác cùng công dụng.
-

Đánh giá các nguồn cung câpsanr phẩm: ngân hàng xem xét ở

các khía cạnh sau.
Năng lực sản xuất, ung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản
phẩm dự án, các nhà sản xuất trong nước đáp ứng được bao nhiêu phần trăm,
phải nhập khẩu bao nhiêu. Việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa
đáp ứng được hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn.
Những biến động của thi trường trong tương lai khi có các dự án khác,
đối tượng khác cùng tham gia vào thi trường sản phẩm dịch vụ đầu ra của dự
án.
Trong những năm qua sản lượng nhập khẩu sản phẩm dự án là bao
nhiêu, từ đó dự kiến khả năng nhập khẩu trong thời gian tới.
-

Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh sản phẩm của dự án.



Trên cơ sở đánh giá tổng quan hệ cung cầu sản phẩm của dự án, xem
xét dánh giá về thị trường mục tiêu của sản phẩm dịch vụ đầu ra của dự án
thay thế hàng nhập khẩu, xuất khẩu hay chiếm lĩnh thị trường nội địa của các
nhà sản xuất khác hay không. Việc định hướng thị trường này có hợp lí
không. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá cả, mẫu mã, chất lượng…
khi gia nhập thị trường.
-Phương thức tiêu thụ và mạng lưới phân phối: Đây là một mặt rất quan
trọng nó ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án. Dự án sản xuất ra sản phẩm
cần phải được tiêu thụ theo phương thức nào, có cần hệ thống phân phối hay
không. Mạng lưới phân phối của sản phẩm dự án đã được xác lập hay chưa.
Cán bộ thẩm định cũng phải ước tính chi phí thiết lập mạng lưới khi tính
toán hiệu quảcủa dự án. Những biện pháp để có thể cạnh tranh với những
sản phẩm khác trên thị trường như quảng cáo, khuyến mại, tiếp thị…
-

Đánh giá dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩmcủa dự án trên cơ sở

đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm của dự án. Cán bộ tín dụng xác định sản lượng sản xuất, tiêu thụ
hàng năm, sự thay đổi cơ cấu sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm:
diễn biến giá sản phẩm, dịch vụ đầu ra hàng năm. Việc dự đoán này làm cơ
sở cho việc tính toán đánh giá hiệu quả tài chính của dự án.
4. Thẩm định hiệu quả dự án đầu tư: hiệu quả của dự án đầu tư thể
hiện tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Việc xác định hiệu quả tài chính
của dự án có chính xác hay không tuỳ thuộc rát nhiều vào việc đánh giá và
đưa ra các giả địmh ban đầu: nguồn vốn, thị trường đầu vào, đầu ra, công
nghệ …
Kiểm tra việc tính toán giá thành chi phí sản xuất: dự án đã đủ các yếu

tố chi phí vào giá thành chưa, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân
công,quản lí, vận chuyển… kiểm tra sự hợp lí các định mức tiêu haonguyên
vật liệu, năng lượng….so với dự án cùng loại. Tỷ lệ trích khấu hao để đưa
vào giá thành có hợp lí hay không, các chi phí khác có điểm nào không phù
hợp không.


×