Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Dạy học chủ đề tự nhiên trong môn tự nhiên và xã hội lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.16 KB, 68 trang )

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, Ban chủ nhiệm khoa cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Giáo
dục Tiểu học đã dìu dắt và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập,
rèn luyện và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc nhất tới cô giáo - ThS Nguyễn Thị Duyên - Giảng viên khoa Giáo dục
Tiểu học đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên giúp tôi từng bước hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Hậu

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
quả và số liệu trong khóa luận chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức
nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Nguyễn Thị Hậu

2



DANH MỤC VIẾT TẮT

Giáo viên

: GV

Học sinh

: HS

Sách giáo khoa

: SGK

Nhà xuất bản

: NXB

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………

6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN……………...

10


1. Cơ sở lý luận………………………………………………

10

1.1. Vài nét đổi mới phương pháp dạy học…………………

10

1.2. Các phương pháp dạy học ở Tiểu học…………………

17

1.3. Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh…............................................................................
1.4. Chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3…

20
28

1.5. Vai trò của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học chủ đề Tự nhiên môn Tự
nhiên và Xã hội lớp 3…………………………………

31

2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………

33


2.1. Hiểu biết của giáo viên về phương pháp dạy học tích
cực……..........................................................................

33

2.2. Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp dạy học
trong dạy học chủ đề Tự nhiên………………………

34

2.3. Thực trạng của việc sử dụng các hình thức dạy học
trong dạy học chủ đề Tự nhiên…………………………

35

2.4. Thực trạng của việc sử dụng các đồ dùng dạy học trong
dạy học chủ đề Tự nhiên………………………………

36

CHƯƠNG 2: DẠY HỌC CHỦ ĐỀ TỰ NHIÊN TRONG MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3 THEO HƯỚNG PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH……………………………

38

1. Nguyên tắc lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội
lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh…………………………………………………………

1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu……………………
4

38
38


1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức………………………

38

1.3. Nguyên tắc đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh……………………………………

39

1.4. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và cái
trừu tượng………………………………………………

39

1.5. Nguyên tắc khai thác yếu tố tích cực trong các phương
pháp dạy học truyền thống………………………………

40

2. Dạy học các nội dung trong chủ đề Tự nhiên theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh………………………

40


2.1. Dạy học nội dung về “Thực vật và động vật”…………..

40

2.2. Dạy học nội dung về “Bầu trời và trái đất”……………..

47

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………......

53

1. Mục đích thực nghiệm……………………………………

53

2. Đối tượng phạm vi thực nghiệm…………………………

53

3. Nội dung thực nghiệm……………………………………

53

3.1. Lựa chọn bài thực nghiệm………………………………

53

3.2. Công tác chuẩn bị………………………………………


53

3.3. Tiến hành thực nghiệm…………………………………

55

3.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả các phương pháp và hình
thức dạy...........................................................................

55

4. Kết quả……………………………………………………

55

KẾT LUẬN………………………………………………………..

58

1. Kết luận……………………………………………………

58

2. Kiến nghị………………………………………………….

58

PHỤ LỤC………………………………………………………….


60

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..

68

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại của nền văn minh siêu công
nghiệp. Thời đại mà cuộc cách mạnh khoa học - công nghệ phát triển như vũ
bão. Đồng thời cuộc cách mạng xã hội cũng đang có sự biến đổi sâu sắc và
phát triển không ngừng ở cả thế giới lẫn Việt Nam chúng ta. Đặc điểm nổi bật
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay là: chúng ta đã - đang
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đặc điểm này đòi hỏi người lao
động phải có năng lực thích nghi với những biến động của thị trường, vì vậy
họ phải có năng lực thực hành, năng lực tư duy sáng tạo và năng lực giải
quyết vấn đề. Như vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đòi hỏi
ngành Giáo dục và Đào tạo phải không ngừng đổi mới từ mục tiêu, nội dung
đến phương pháp dạy học. Trong xu thế đó, sự đổi mới về phương pháp dạy
học đang được coi là vấn đề nóng bỏng, cần thiết, thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu, các nhà quản lý giáo dục cũng như các giáo viên trực tiếp
đứng lớp. Đổi mới phương pháp dạy học là phải khắc phục cách thức truyền
thụ: “ thầy giảng - trò nghe”; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học.
Trong quản lý giáo dục và quản lý giáo dục ngành Giáo dục Singapo và
Hàn Quốc cách đây cũng rất lâu cũng đề ra một yêu cầu chặt chẽ “cần có cái

gì đấy để để phân biệt một bên là thợ dạy bên kia là thầy giáo, một bên là thợ
học bên kia là học sinh”. Với họ, không thể đánh đồng giữa thợ với thầy, giữa
người học theo lối “cầm tay chỉ việc” với người học theo kiểu tìm tòi nghiên
cứu. Bởi vậy, từ Nhật Bản, Hàn Quốc đến nhiều nước phát triển ở Đông Nam
Á, trong giáo dục người ta chú trọng đến cách học (phương pháp) nhiều hơn
học cái gì nội dung). Với thầy giáo đúng nghĩa, chức năng chính là dạy học
(thay vì truyền đạt nội dung). Với học sinh đúng nghĩa, nhiệm vụ quan yếu là
cách học (thay vì “dùi mài kinh sử”). Trong cách học, họ đề cao hai điều then
6


chốt là tự học và sáng tạo. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết với nhau: sẽ
không có sự sáng tạo nếu không có sự tự học tích cực, sẽ không tự học hiệu
quả nếu không mài sắc trí sáng tạo. Tự học để khám phá nhận thức và khai
phá sáng tạo. Sáng tạo để khẳng định sự tìm tòi siêu thoát trong tự học. Các
nhà giáo dục Nhật Bản và Singapo đều cho rằng đó là những kĩ năng “kép”
cần cho một người học sinh hiện đại, để rút ngắn khoảng cách thua kém và để
trở thành người chủ thực sự của tương lai. Theo đó, họ không có hoặc có rất ít
các bài giảng dài dòng lý thuyết. Hầu hết các giờ lên lớp của họ gồm những
bài dạy theo hướng dẫn tìm tòi và nghiên cứu dựa trên vấn đề hoặc dựa theo
tình huống. Không chỉ ở trên thế giới mà các quốc gia ở Châu ¸ rất quan tâm
đến việc dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Ở Việt
Nam, quan điểm này hiện đang rất được quan tâm và giáo dục Việt Nam đang
hướng tới điều đó.
Môn Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học là một môn học có tính tích hợp cao
những kiến thức của khoa học Tự nhiên và Xã hội, đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành những phẩm chất, năng lực của con người. Để đáp ứng
mục tiêu của hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và Giáo dục Tiểu học nói
riêng, chương trình môn Tự nhiên và Xã hội đã đưa ra những mục tiêu nhằm
cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu và thiết thực về một số sự vật,

hiện tượng tự nhiên, xã hội tiêu biểu trong môi trường sống và mối quan hệ
giữa chúng trong tự nhiên, đời sống, sản xuất; hình thành ở các em những khả
năng như: quan sát, mô tả, thảo luận, phân tích, so sánh, đánh giá,.. đồng thời
giúp các em có thể vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn. Trên cơ sở đó
đòi hỏi việc hướng dẫn của giáo viên phải hướng tới hoạt động chiếm lĩnh
kiến thức và hình thành, rèn luyện kĩ năng của học sinh. Học sinh phải được
hoạt động, tự bộc lộ mình và phát triển tối đa khả năng của mình thông qua
hoạt động học tập. Mục tiêu này đòi hỏi trong quá trình giảng dạy môn Tự
nhiên và Xã hội, giáo viên cần phải tạo ra môi trường học tập khoa học, thân
thiện; phải hướng học sinh tới việc chủ động phát hiện các vấn đề và tìm kiếm
giải phóng để giải quyết vấn đề đó. Phân tích, đánh giá và thu lượm được
7


không chỉ các kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mà cả các con đường để tìm kiếm
được những kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo đó. Để đáp ứng được những đòi hỏi
trên, giáo viên phải xây dựng được các bài giảng nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh trong quá trình dạy học. Và chủ đề Tự nhiên trong Tự nhiên và
Xã hội lớp 3 thể hiện rất rõ điều này.
Thực tế cho thấy, giáo viên vẫn chưa thực sự quan tâm đến môn Tự nhiên
và Xã hội. Có nhiều giáo viên cho rằng môn Tự nhiên và Xã hội không phải
là môn chính, quan trọng; họ chỉ tập trung vào các môn Toán, Tiếng Việt. Vì
vậy, môn Tự nhiên và Xã hội chưa được giáo viên nghiên cứu sâu và tìm ra
các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Chính vì những lí do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu của
mình là: “Dạy học chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Vận dụng các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học để
dạy các nội dung kiến thức ở chủ đề Tự nhiên trong môn Tự nhiên và Xã hội

lớp 3 theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chủ đề Tự
nhiên trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Vận dụng các phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học để
dạy chủ đề Tự nhiên trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh.
- Thực nghiệm dạy một số nội dung trong chủ đề Tự nhiên theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh
4. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: dạy học chủ đề Tự nhiên theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Khách thể nghiên cứu: quá trình dạy học môn Tự nhiên và Xã hội.
8


- Phạm vi nghiên cứu: chủ đề Tự nhiên trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội lớp 3.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học chủ đề Tự nhiên của môn
Tự nhiên và Xã hội lớp 3 sẽ nâng cao chất lượng dạy và học môn Tự nhiên và
Xã hội nói riêng và góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu lí luận.
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê kế toán.
7. Cấu trúc khoá luận

Mở đầu
Nội dung
Kết luận

9


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
1.1. Vài nét đổi mới phương pháp dạy học
1.1.1.Khái niệm phương pháp dạy học
Hêghen có quan niệm: “Phương pháp là cách thức làm việc của chủ thể,
cách thức này phụ thuộc vào nội dung vì phương pháp là sự vận động bên
ngoài của nội dung”.
Thuật ngữ phương pháp dạy học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: Methods có
nghĩa là con đường để đạt được mục đích dạy học. Theo đó phương pháp dạy
học là con đường để dạt được mục đích dạy học
Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng cụ thể quá trình dạy học. Đây là quá trình đặc trưng bởi tính chất hai mặt nghĩa là
bao gồm hai hoạt động: hoạt động của thầy và hoạt động của trò. Hai hoạt
động này tồn tại và được tiến hành trong mối quan hệ biện chứng. Hoạt động
của thầy đóng vai trò chủ đạo - điều khiển, hoạt động của trò đóng vai trò có
vai trò tích cực, chủ động - tự điều khiển, tự tổ chức.
Phương pháp dạy học phải nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học đó là:
Trang bị cho học sinh những tri thức khoa học phổ thông cơ bản, hiện đại,
phù hợp với thực tiễn đất nước và hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Đồng
thời phát triển ở học sinh năng lực hoạt động trí tuệ. Trên cơ sở đó hình thành
ở các em thế giới quan khoa học và những phẩm chất đạo đức của con người
mới.
Như vậy: Phương pháp dạy học là tổ hợp những cách thức hoạt động của
cả thầy và trò trong quá trình dạy học được hình thành dưới vai trò chỉ đạo

của thầy nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập.

10


1.1.2. Quan niệm về đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Theo PGS - TS Đỗ Đình Hoan thì đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu
học được hiểu là: “ Đưa các phương pháp mới vào nhà trường Tiểu học trên
cơ sở phát huy mặt tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống để
nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao hiệu quả giáo dục đào tạo”.
Theo Đào Quang Trung thì việc đổi mới phương pháp dạy học phải làm
sao phát huy được tính tích cực trong học tập của học sinh. Phương pháp dạy
học thích hợp không chỉ giúp học sinh lĩnh hội mà phải tổ chức hoạt động tạo
môi trường cho học sinh tích cực học tập. Vì vậy phương pháp dạy học vừa
phải phù hợp với trình độ, đặc điểm tâm lý đạo đức, nhận thức có thực của
học sinh, vừa phải tổ chức môi trường học tập để học sinh tham gia. Do đó
phương pháp dạy học cần huy động sức làm việc của tập thể, sử dụng các quy
luật lây lan cảm xúc, sự bắt chước, góp phần nâng cao tính tích cực chủ động
của học sinh.
Phương pháp dạy học tích cực theo Đào Quang Trung: Là một hệ thống
các phương pháp dạy học nhằm đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mục tiêu
giáo dục tổng quát, có khả năng định hướng cho việc tổ chức trong quá trình
tự học, quá trình kết hợp cá nhân xã hội hóa việc học tập.
Phương pháp dạy học tích cực bao giờ cũng nổi lên đặc điểm quan trọng:
Trẻ em là người hoạt động tích cực - là diễn viên, người thầy là đạo diễn tổ
chức. Trẻ em học bằng hoạt động của mình. Đây là một quan niệm rất đúng
đắn phù hợp với quan niệm mới.
Trong chương trình Tiểu học, đổi mới phương pháp dạy học được thực
hiện một cách cụ thể như sau: Tập trung vào dạy cách học đặc biệt là giúp
học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học. Khuyến khích dạy học cá nhân

và hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng học của từng học
sinh và để tận dụng môi trường giáo dục. Coi trọng và khuyến khích dạy học
trên cơ sở hoạt động sáng tạo của học sinh, giúp học sinh tự phát hiện và tự
giải quyết các vấn đề của bài học. Do đó học sinh có thể tự chiếm lĩnh kiến

11


thức và biết cách vận dụng với sự hỗ trợ hợp lý của giáo viên và môi trường
giáo dục.
Một trong những dấu hiệu của đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học là
học sinh phải được hoạt động và hoạt động đó phải hướng tới sự phát triển
năng lực cá nhân của học sinh. Để có thể tổ chức các hoạt động như vậy đòi
hỏi người học phải tự tìm tòi khám phá, chiếm lĩnh và vận dụng tri thức.
Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các phương pháp dạy học truyền thống và
hiện đại để phát huy tối đa mặt mạnh của từng phương pháp, nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh, học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề và tự
chiếm lĩnh kiến thức mới.
1.1.3. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề được toàn Đảng, toàn dân và toàn
xã hội quan tâm. Đổi mới phương pháp dạy học không phải là sự thay thế các
phương pháp cũ bằng hàng loạt các phương pháp mới. Về bản chất, đổi mới
phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành phương pháp trên cơ sở khia
thác triệt để ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và vận dụng các
phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học, giúp người học đạt được năng lực mong muốn.
a. Cơ sở lý luận của đổi mới phương pháp dạy học
Dựa vào những thành tựu nghiên cứu về lĩnh vực khoa học giáo dục
- Tiếp cận hệ thống: Nghiên cứu đối tượng như một hệ thống toàn vẹn,
phát triển sinh động, tự hình thành và phát triển thông qua những việc giải

quyết mâu thuẫn nội tại, do sự tương tác hợp quy luật của các nhân tố tạo ra.
Mối quan hệ thầy - trò, phương tiện, điều kiện dạy học, mục đích, nội dung,
phương pháp với quá trình kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học có quan
hệ phụ thuộc lẫn nhau.
- Quá trình tiếp cận nhân cách: Thầy và trò là chủ thể của mối quan hệ
trong quá trình dạy học. Quá trình dạy học muốn phát triển nhân cách phải
qua sự thống nhất ba mặt đó là: tính riêng biệt, độc đáo của cá nhân, hòa đồng
12


các mối quan hệ liên nhân cách, ảnh hưởng của cá nhân đến xã hội, cộng
đồng.
- Quá trình dạy học theo cách tiếp cận hoạt động: Quá trình dạy học phải
coi là bản chất, giáo viên tổ chức các hoạt động cho học sinh để các em tự
mình hoạt động và lĩnh hộ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đồng thời hình thành
nhân cách cho học sinh.
- Công nghệ dạy học: Tư tưởng công nghệ dạy học được thực hiện ở ba
điểm sau: chuyển hóa vào thực tiễn dạy học - thành tựu mới nhất của khoa
học công nghệ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
thông qua xử lý về mặt sư phạm, sử dụng tối đa, tối ưu phương tiện kỹ thuật
hiện đại đa kênh đa hình vào dạy học. Thiết kế được kế hoạch dạy học mới,
vận dụng nguyên lý dạy học mới đó là hệ dạy học “ Tự động hóa - cá thể hóa
- được trợ giúp”.
- Thuyết dạy học cộng tác: Dạy có chức năng thiết kế, tổ chức, chỉ đạo,
kiểm tra quá trình dạy học. Hai hoạt động này thống nhất với nhau nhờ sự
cộng tác.
b. Cơ sở thực tiễn
Sự phát triển của khoa học công nghệ đang diễn ra vô cùng manh mẽ. Việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ sẽ làm thay đổi hiệu quả
sử dụng phương pháp dạy học.

- Về mục tiêu: Trong chương trình đổi mới phương pháp dạy học, mục tiêu
được cụ thể hóa thành kế hoạch hoạt động sư phạm bao gồm những mục đích
cuối cùng (thể hiện ở cấp bậc mục tiêu: bậc học, môn học, chủ đề, bài học).
- Về nội dung: Nội dung chương trình được soạn thảo hiện đại, thiết thực,
cập nhật sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế xã hội. Tăng cường
thực hành vận dụng, gắn bó với thực tiễn Việt Nam, tiến kịp trình độ phát
triển năng lực của số đông học sinh và của từng học sinh. Từ đó hình thành,
phát triển những năng lực phẩm chất của con người Việt Nam.
- Phương pháp: Đổi mới phương pháp là nội dung hết sức quan trọng trong
việc nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học.
13


1.1.4. Một số định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Đảng và nhà nước ta đã xác định: “Đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng
đầu”. Phát triển giáo dục là nền tảng đào tạo nhân lực chất lượng cao, là yếu
tố quan trọng góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đồng thời bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh đặc biệt ngay từ
lứa tuổi Tiểu học. Do vậy Đảng và nhà nước ta đã nêu rõ trong nghị quyết
TW2 là: Nâng cao chất lượng toàn diện ở Tiểu học. Bộ giáo dục đã đề ra yêu
cầu của việc dạy học hiện đại là tăng cường hoạt động tích cực, độc lập, sáng
tạo của học sinh “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học thông
qua việc đổi mới chương trình sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5”. Đó là yêu
cầu tất yếu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường trong tình hình
hiện nay.
Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy và học là hướng tới hoạt động chủ
động, chống lại thói quen học thụ động. Muốn vậy cần áp dụng phương pháp
dạy học tích cực, trên cơ sở vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học truyền
thống để phát huy hết mặt tích cực của nó. Đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn
với phương pháp dạy học hiện đại sao cho vừa đạt được mục tiêu dạy học vừa

phù hợp với đối tượng thực tế của cuộc sống.
Đổi mới phương pháp dạy học là lấy hoạt động của học sinh làm trung
tâm, tăng cường hoạt động học tập của cá nhân. Qua đó kích thích động cơ
bên trong của người học, làm tăng tính chủ động, tự tin, phát triển năng lực tư
duy, tự phát hiện kiến thức.
Trong xu hướng đổi mới phương pháp hiện nay các phương pháp dạy học
tích cực đang được quan tâm vận dụng đó là: Phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp kiến tạo, phương pháp dạy học phân
hóa, phương pháp dạy học theo hợp đồng...
Để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực cần có một môi trường
với tiến trình, nhịp độ khẩn trương và mức độ tư duy cao. Trong đó học sinh
lĩnh hội kiến thức bằng con đường tìm kiếm, phát hiện và giải quyết vấn đề
với tinh thần tự giác.
14


Không có phương pháp nào là toàn năng cả mà cần phối hợp sử dụng các
phương pháp dạy học khác nhau nhằm phát huy mặt mạnh, hạn chế nhược
điểm của các phương pháp, qua đó phát huy mặt tích cực của học sinh góp
phần nâng cao hiệu quả quá trình dạy học.
1.1.5. Một số định hướng để lựa chọn phương pháp dạy học ở Tiểu
học
a. Phương pháp dạy học phụ thuộc nội dung dạy học
Trong trường Tiểu học, học sinh được lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo thông qua các môn học. Do đó cần phải vận dụng nhiều phương pháp
dạy học khác nhau để phù hợp với nội dung từng môn học hay nói cách khác
nội dung dạy học mang tính toàn diện. Chương trình Tiểu học hiện nay được
soạn thảo có tính chất phân hóa học sinh, nghĩa là bên cạnh việc trình bày nội
dung cơ bản dành cho mọi học sinh còn có nội dung nâng cao dành cho học
sinh khá giỏi. Vì vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học cũng cần phải chú ý

để khai thác hết nội dung chương trình.
b. Phương pháp dạy học phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý của
người học
Học sinh là đối tượng của giáo viên, là thực thể có ý thức, là một nhân
cách. Do đó phương pháp dạy học của giáo viên hiệu quả ở mức độ nào còn
phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý của người học. Ở mỗi thời điểm khác
nhau học sinh có hai trình độ:
+ Trình độ hiện tại: Là những tri thức của học sinh đã tiếp thu được.
+ Trình độ phát triển gần nhất: Là khả năng tiếp thu những tri thức mới,
tri thức cũ gần gũi với cái đã có trong kinh nghiệm của bản thân học sinh.
Hoạt động dạy của giáo viên là sự tạo ra cái mới trong tâm lý học sinh.
Nghĩa là hoạt động dạy nhằm vào trình độ phát triển gần nhất. Ở mỗi học sinh
hai trình độ này là khác nhau, do đó giáo viên phải nắm vững hai trình độ này
ở học sinh để đảm bảo nguyên tắc dạy học sát đối tượng. Việc lựa chọn các

15


phương pháp dạy học tích cực vào dạy học tạo điều kiện để giáo viên thực
hiện nguyên tắc này.
c. Phương pháp dạy học ở Tiểu học phụ thuộc vào vị trí, vai trò của
nhà sư phạm
Thầy cô có vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học. Để thực hiện
mục tiêu mục tiêu các môn học, các định hướng đổi mới trong dạy học trong
đó có đổi mới phương pháp dạy học phụ thuộc chặt chẽ vào năng lực của giáo
viên. Người giáo viên trước hết phải có trình độ chuyên môn vững chắc, am
hiểu sâu sắc bản chất của các phương pháp dạy học thích hợp và hiệu quả.
Ngoài ra người giáo viên nhất là giáo viên Tiểu học thì ngoại hình, giọng nói
tốt là thế mạnh để giờ giảng thành công.
d. Phương pháp dạy học phụ thuộc vào các yếu tố khác

Phương tiện dạy học tác động không nhỏ tới hiệu quả sử dụng các phương
pháp dạy học ở Tiểu học. Điều này phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất và đồ
dùng dạy học ở mỗi nhà trường. Giáo viên cần sử dụng tối đa các phương
tiện, đồ dùng dạy học kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực để giờ
học đạt hiệu quả cao nhất.
Những định hướng đổi mới phương pháp dạy học chỉ ra con đường cho
các nhà sư phạm xây dựng và lựa chọn các phương pháp dạy học mới, tích
cực hiện đại. Những phương pháp dạy học đó phải đảm bảo dạy học sát đối
tượng, phải chỉ ra cách thức hoạt động để đạt được mục tiêu, nội dung của
từng bậc học, lớp học, môn học.
Mục tiêu của môn Tự nhiên và Xã hộ nói chung và của môn Tự nhiên và
Xã hội lớp 3 nói riêng là nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức sơ giản
về thế giới tự nhiên, xã hội và con người. Rèn luyện cho học sinh những kỹ
năng quan sát, phân tích, tổng hợp, thực hành,...phục vụ cho việc học và cho
cuộc sống sau này.
Bản thân môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3 cũng có những nội dung khó dễ
khác nhau, có những nội dung liên quan đến kinh nghiệm cá nhân học sinh.
Trong cùng một lớp trình độ, kinh nghiệm của học sinh là khác nhau. Do vậy
16


việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, đặc biệt là phương pháp dạy
học tích cực chủ đề Tự nhiên trong Tự nhiên và Xã hội lớp 3 để đạt hiệu quả
cao là rất cần thiết.
1.2. Các phương pháp dạy học ở Tiểu học
1.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp giáo viên tổ chức cho học sinh sử dụng các giác
quan khác nhau để tri giác các sự vật, hiện tượng một cách có mục đích, có kế
hoạch, có trọng tâm, qua đó rút ra được những kết luận khoa học.
Đối với học sinh Tiểu học thì tư duy trực quan cụ thể còn chiếm ưu thế.

Các em khi suy nghĩ cần dựa trên những hình ảnh cụ thể. Vì vậy quan sát là
phương pháp mang lại hiệu quả cao. Thông qua việc tổ chức cho học sinh
quan sát mới hình thành ở các em những biểu tượng và những khái niệm đầy
đủ, chính xác, sinh động về thế giới Tự nhiên - Xã hội xung quanh. Qua đó,
phát triển năng lực quan sát, năng lực tư duy và ngôn ngữ cho các em.
1.2.2. Phương pháp kể chuyện
Kể chuyện là cách dùng lời nói trình bày một cách sinh động, có hình ảnh
và truyền cảm đến người nghe về một nhân vật,một sự kiện lịch sử, một phát
minh khoa học, một vùng đất xa lạ… để hình thành một biểu tượng, một khái
niệm với niềm tim sâu sắc.
1.2.3. Phương pháp thảo luận
Thảo luận là phương pháp dạy học giáo viên tổ chức cuộc đối thoại, trao
đổi ý kiến giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau về một vấn đề
học tập hoặc một vấn đề của cuộc sống để rút ra kết luận khoa học.
1.2.4. Phương pháp trò chơi trong học tập
Trong xu hướng phát triển của giáo dục hiện đại, người ta đang nghiên cứu
việc sử dụng trò chơi để giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và các
kỹ năng hoạt động sáng tạo điển hình. Trò chơi trong học tập ở Tiểu học có
17


nhiều loại: trò chơi sắm vai, trò chơi trí tuệ, trò chơi nghệ thuật… Phương
pháp này thường được sử dụng khi giảng dạy nhiều môn học như: Tiếng Việt,
Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội, Toán,…
Tùy theo nội dung bài học và đặc điểm lứa tuổi của các em theo từng năm
học ở Tiểu học mà các nhà sư phạm khai thác, sử dụng các trò chơi với ý
nghĩa học tập tối đa. Trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn, lôi
cuốn học sinh vào học tập tích cực, vừa chơi vừa học và học có kết quả.
Phương pháp này được nhà tâm lý học người Thụy Sĩ (J.Piaget) rất quan tâm
và có ủng hộ: “Thông qua hoạt động vui chơi để tiến hành hoạt động học

tập”.
1.2.5. Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề
Dạy học giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học giáo viên hoặc học sinh
tạo ra những tình huống có vấn đề, giáo viên điều khiển học sinh hoặc học
sinh tự phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo để
giải quyết vấn đề, thông qua đó nắm được kiến thức mới lẫn phương pháp đi
tới kiến thức đó, đồng thời phát triển năng lực tư duy sáng tạo và hình thành
thế giới quan khoa học.
1.2.6. Phương pháp hỏi đáp
Hỏi đáp là phương pháp dạy học giáo viên tổ chức cuộc đối thoại giữa
giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau dựa trên hệ thống câu hỏi nhằm
dẫn dắt học sinh đi đến những kết luận khoa học, hoặc vận dụng hiểu biết của
mình để tìm hiểu những vấn đề về học tập, cuộc sống Tự nhiên - Xã hội xung
quanh.
1.2.7. Phương pháp thực hành
Thực hành là phương pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức cho học
sinh được trực tiếp thao tác trên đối tượng nhằm giúp học sinh hiểu rõ và vận
dụng lý thuyết vào thực hành, luyện tập, hình thành kỹ năng.

18


1.2.8. Phương pháp tranh luận
Tranh luận có nghĩa là thảo luận bàn cãi có phân tích, lí lẽ để tìm ra lẽ
phải.
Tranh luận là phương pháp dạy học giáo viên tổ chức cho học sinh thảo
luận và tranh cãi về một vấn đề mà có ít nhất là hai quan điểm trái ngược
nhau. Học sinh ở các phe cùng thảo luận, phân tích để biện hộ cho ý kiến của
mình, hoặc là đối đáp với câu hỏi bổ xung của phe đối lập. Kết quả cuối cùng
là phe nào bảo vệ được ý kiến của mình và thuyết phục được phe đối lập sẽ

thắng cuộc, hoặc có thể có kết quả dung hòa giữa hai phe.
1.2.9. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là cách tổ chức cho học sinh tham gia giải quyết
một tình huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách
diễn xuất một cách ngẫu hứng, có thể không cần kịch bản hoặc luyện tập
trước.
1.2.10. Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp dạy học, trong đó giáo viên tổ chức và hướng dẫn
học sinh tìm hiểu một vấn đề và sau đó dựa trên các thông tin thu thập được
tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp và khái quát để rút ra các giải pháp
hoặc kiến nghị.
1.2.11. Dạy học hợp tác nhóm nhỏ
Việc tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm là quan trọng, kể cả đối với
học sinh mới bắt đầu vào lớp 1, bởi nhiều lí do: Trước hết, nó cho phép học
sinh có nhiều cơ hội hơn để khám phá và diễn đạt ý tưởng của mình, mở rộng
suy nghĩ, hiểu biết và rèn kĩ năng nói. Nó cũng cho phép học sinh có thể học
hỏi từ các bạn, phát huy vai trò trách nhiệm. Điều đó làm phát triển kĩ năng
giáo tiếp và tính cách của trẻ, gồm cả việc hợp tác, phối hợp với các bạn khác.

19


Giáo viên căn cứ vào mục tiêu, nội dung và các hoạt động cụ thể của từng
bài học để chia nhóm cho phù hợp (chia nhóm theo cặp, theo nhóm nhỏ từ 3
đến nhiều nhất là 6 học sinh...).
Giáo viên cần chỉ dẫn cho học sinh biết vai trò, công việc của từng em
trong nhóm một cách rõ ràng, cặn kẽ, chi tiết. Từ nhóm trưởng đến các thành
viên, ai cũng có thể nhắc nhiệm vụ của mình (sẽ phải làm gì) trước khi nhóm
bắt đầu làm việc, có như vậy các nhóm mới hoạt động tốt.
1.3. Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

1.3.1. Khái niệm
Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện
đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy - học hoặc nhấn
mạnh lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Chúng tôi cho rằng, cho
dù các phương pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài
khía cạnh mà người dạy và người học chưa khai thác hết. Chính vì thế mà
không có một phương pháp giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một
phương pháp đều có ưu điểm của nó do vậy người thầy nên xây dựng cho
mình một phương pháp riêng phù hợp với mục tiêu, bản chất của vấn đề cần
trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học, các nguồn lực, công cụ dạy học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của mình.
Theo chúng tôi, phương pháp giảng dạy được coi là tích cực nếu hội tụ
được các yếu tố sau:
- Thể hiện rõ vai trò của nguồn thông tin và các nguồn lực sẵn có.
- Thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học.
- Thể hiện rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động.
- Thể hiện rõ được vai trò của người học, người dạy, vai trò của các mối
tương tác trong quá trình học.
- Thể hiện được kết quả mong đợi của người học.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải
thay đổi cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một
20


chiều “đọc - chép”, giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm
trung tâm hay còn được gọi là dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học
sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo
nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và người học. Dạy và học tích cực là
điều kiện tốt khuyến khích sự tham gia chủ động, sáng tạo và ngày càng độc
lập của học sinh vào quá trình học tập.
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người sản xuất

ra của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại, phát triển của xã hội, sáng tạo ra
nền văn hóa mỗi thời đại.
Tính tích cực của con người biểu hiện trong các hoạt động. Học tập là hoạt
động chủ đạo ở lứa tuổi đi học. Tính tích cực trong hoạt động học tập là tính
tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Lĩnh hội những tri thức của loài
người đồng thời tìm kiếm “khám phá” ra những hiểu biết mới cho bản thân.
Qua đó sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động chủ
động, nỗ lực của chính mình.
Tính tích cực nhận thức trong học tập liên quan với động cơ học tập. Động
cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác
là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh ra nếp tư duy
đọc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo và ngược lại.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như: hăng hái, chủ động,
tự giác tham gia các hoạt động học tập, thích tìm tòi khám phá những điều
chưa biết dựa trên những cái đã biết. Sáng tạo vận dụng kiến thức đã học vào
thực tiễn cuộc sống.
Tính tích cực được biểu hiện qua các cấp độ:
- Bắt chước: cố gắng thực hiện theo các mẫu hành động của thầy, của
bạn,…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một vấn đề.
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới độc đáo hữu hiệu.
21


Như vậy: Phương pháp dạy học tích cực là tổ hợp các cách thức hoạt động
tương hỗ của người dạy và người học trong quá trình dạy học, chủ động, sáng
tạo của người học nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
1.3.2. Bản chất của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của

học sinh
Trong các yếu tố cấu thành quá trình giáo dục, dạy học thì phương pháp
bao giờ cũng là yếu tố năng động và trực tiếp quyết định kết quả của quá
trình.
Sự lựa chọn, ra đời của mỗi phương pháp giáo dục, dạy học phụ thuộc vào
mục đích giáo dục của mỗi thời đại, vào trình độ, phương thức của mỗi nền
sản xuất. Mục tiêu của phương pháp dạy học tích cực do thời đại đòi hỏi thì
đã rõ. Song, nội dung cụ thể và đặc biệt là lộ trình của phương pháp đó như
thế nào thì các nhà lý luận dạy học hiện nay, kể cả trong và ngoài nước chưa
khám phá được đầy đủ, chưa xây dựng được.
Xét theo vai trò của người dạy, người học thì các nhà lý luận gọi đây là
phương pháp lấy người học làm “trung tâm” hay “làm gốc”. Còn xét theo yêu
cầu của phương pháp thì bảo đó là phương pháp phát huy tính tự giác, tích
cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Cả hai cách nói đó đều chung chung, mơ
hồ, người dạy không rõ con đường (lộ trình) để đạt được mục tiêu, yêu cầu đó
như thế nào nên rất lúng túng. Một số giáo viên giỏi ở các ngành học, bậc học
hiện nay chỉ thực hiện được yêu cầu: phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập
của người học với việc xây dựng được một hệ thống câu hỏi theo kiểu chương
trình hóa, còn yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện năng lực sáng tạo thì rất ít giáo
viên làm được. Có chăng chỉ là sự sáng tạo theo kinh nghiệm trong những
tình huống quen thuộc, cụ thể chứ chưa có được phương pháp luận của hoạt
động sáng tạo nói chung, trong dạy học nói riêng. Trong khi đó sáng tạo lại là
yêu cầu quan trọng, cốt lõi của phương pháp dạy học tích cực.
Sở dĩ có những bất cập trên là do chúng ta chưa khám phá được đầy đủ
bản chất, chưa xây dựng được lộ trình của phương pháp dạy học tích cực. Sai
22


lầm lớn nhất trong lý luận và thực tiễn dạy học của ta hiện nay là mới làm cho
người học tiếp cận tài liệu ở trạng thái tĩnh chứ chưa ở trạng thái vận động

theo hệ thống. Tiếp cận ở trạng thái đó, người dạy, người học không thể khám
phá được đầy đủ bản chất cũng như không nắm được quy luật vận động của
vấn đề trong tài liệu học tập. Do tiếp cận tài liệu học tập ở trạng thái tĩnh nên
nội dung là một hệ thống đóng (kín). Người học chỉ được thông hiểu, ghi nhớ
và vận dụng. Cung cách đó vô hình chung đã biến tài liệu học tập xơ cứng,
thầy trò không được phép sửa chữa, thay đổi.
Trong khi đó xu hướng của nền giáo dục hiện đại phải là một hệ thống mở
- mở ở tất cả các thành tố cấu thành quá trình giáo dục, dạy học: từ mục đích,
nội dung, phương tiện, hình thức tổ chức cho đến cả khâu đánh giá kết quả…
Cũng do quá trình dạy học hiện nay chỉ làm cho người học tiếp cận tài liệu
học tập ở trạng thái tĩnh nên không thể bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho
người học trong quá trình dạy học được. Bởi vì theo quan điểm cấu trúc hệ
thống thì mọi sự vật hiện tượng từ vi mô, đến vĩ mô, từ tự nhiên đến xã hội và
tư duy dều có cấu trúc hệ thống. Tính hệ thống phản ánh trình độ phát triển
của chính sự vật, hiện tượng.
Từ đây chúng ta suy ra: sáng tạo là việc tạo ra một hệ thống cấu trúc mới
từ các thành tố cấu trúc của các sự vật, hiện tượng tương ứng đã có. Đó có thể
là sự thêm, bớt, thay đổi cấu trúc của sự vật hiện tượng cũ hay tạo ra một sự
vật hiện tượng hoàn toàn mới từ sự tổng hợp các bộ phận của những sự vật
hiện tượng tương ứng đã có. Ví dụ: hình tượng con rồng là kết quả của trí
tưởng tượng sáng tạo hoàn toàn mới. Nó không có trong hiện thực. Nhưng
nếu tách từng bộ phận trên cơ thể nó ra thì đầu nó giống đầu sư tử, mình
giống mình rắn, vảy giống vảy cá, chân giống chân cá sấu, thằn lằn…
Để cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp tích
cực đạt kết quả, cần làm cho người dạy hiểu đầy đủ bản chất và nắm vững lộ
trình của phương pháp đó. Về bản chất của phương pháp tích cực ngoài
những dấu hiệu mà ta đã biết là làm người học: tự giác, tích cực, độc lập, sáng
tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức thì điều quan trọng cần biết thêm là việc tiếp
23



cận tài liệu học tập phải từ trạng thái tĩnh rồi chuyển sang trạng thái vận động
theo hệ thống. Đồng thời có sự phê phán khách quan với tài liệu học tập về
cấu trúc, nội dung theo logic vận động hợp lý, tối ưu và theo một cấu trúc
toàn diện cho vấn đề.
1.3.3. Đặc điểm của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh
Phương pháp dạy học tích cực không phải là phương pháp dạy học cụ thể,
chuyên biệt nào đó, cũng không phải là sự phủ nhận các phương pháp dạy học
truyền thống mà là muốn nhấn mạnh một hướng khái thác mặt tích cực của
các phương pháp dạy học hiện có, thể hiện ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất, dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh. Nét đặc thù của hoạt động dạy học là: Học sinh vừa là đối tượng vừa là
chủ thể của quá trình dạy học. Học sinh không chỉ tiếp thu những kiến thức từ
người dạy mà phải thông qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh nó và làm biến
đổi bản thân. Tâm lý học sư phạm cũng khẳng định rằng: nhân cách của trẻ
em được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức của chủ
thể. Vì vậy có thể nói, hoạt động học là cách tốt nhất để làm biến đổi chính
người học. Dạy học không còn là sự truyền thông tin từ thầy sang trò, thầy
không còn là người truyền thông tin mà phải là người tổ chức, hướng dẫn,
điều khiển các hoạt động học tập của học sinh.
Thứ hai, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học hơn là việc truyền thụ
kiến thức. Câu nói: “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo
giỏi dạy cách tìm ra chân lý” là hoàn toàn chính xác. Rèn luyện cho học sinh
phương pháp tự học không chỉ là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Con người được đào tạo trước hết phải là con
người năng động, có tính tích cực, có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự
hoàn thiện mình. Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trường phổ thông
không thể kịp trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết trong kho tàng
kiến thức của nhân loại đang ngày một phong phú thêm. Do vậy, người thầy

24


phải tìm cách hình thành ở học sinh phương pháp và năng lực tự học, tự
nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến thức và hoàn thiện bản thân sau này.
Thứ ba, tăng cường tính tự lực của cá nhân học sinh đồng thời chú trọng
phối hợp tương tác thầy và tương tác nhóm. Phương pháp dạy học tích cực
đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi học sinh trong quá trình tự chiếm lĩnh
kiến thức mới. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của từng cá nhân trong hoạt
động dạy học. Tuy nhiên, vai trò cá nhân chỉ có thể phát huy tốt thông qua sự
tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh và tương tác
giữa cá nhóm với nhau, đó chính là phương pháp học tập hợp tác. Trong
phương pháp này, người ta đề cao vai trò giao tiếp giữa học sinh và học sinh.
Để phát huy vai trò của học sinh người ta thường tổ chức việc học tập hợp tác
theo nhóm, tổ từ 4 đến 6 người. Học tập nhóm, tổ tạo cho học sinh có nhiều
cơ hội bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết và thái độ của mình, cũng như biết cách bảo
vệ ý kiến của mình. Đó là cách tốt nhất để hình thành cho học sinh tính tích
cực, độc lập và sáng tạo trong suy nghĩ cũng như hành động.
Thứ tư, kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh. Quá
trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học, với hai chủ thể giáo viên và
học sinh. Trong quá trình này luôn có sự điều chỉnh và tự điều chỉnh. Vì vậy,
ngoài sự đánh giá của giáo viên, phải có tự đánh giá của học sinh. Qua tự
đánh giá, học sinh sẽ đưa ra những nhận định về bản thân và tự điều chỉnh
cách học của mình cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Trong
phương pháp dạy học tích cực, người ta chú trọng đến việc dạy học cho học
sinh cách tự học đi kèm theo là năng lực tự đánh giá của học sinh. Thiếu năng
lực này học sinh không thể tự điều chỉnh cách học của mình và không hoàn
chỉnh được phương pháp tự học. Như vậy, năng lực tự học luôn gắn liền với
năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh, mà tự học là dấu hiệu của phương pháp
tích cực. Do vậy, khả năng rèn luyện năng lực tự đánh giá của học sinh cũng

là một dấu hiệu của phương pháp dạy học tích cực.
* Ưu điểm của đổi mới phương pháp dạy học tích cực.

25


×