Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.27 KB, 69 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử ra đời cùng với sự ra đời của con người và sự phát triển của
loài người. Cũng từ đó bằng nhiều hình thức khác nhau người ta đã tìm
cách lưu giữ những gì đã xảy ra và truyền lại cho thế hệ sau. Điều đó
chứng tỏ từ xa xưa con người đã nhận thức được tầm quan trọng của ngành
sử học đối với cuộc sống và không ai có thể phủ nhận được vai trò của nó,
đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Việc học tập lịch sử giúp các em hiểu rằng
giá trị cuộc sống hôm nay được tạo bởi những hy sinh xương máu trong
lao động và chiến đấu của lớp người đi trước. Đồng thời, quá khứ còn là
bài học quý giá cho hiện tại và tương lai.Từ đó, hình thành niềm tin đạo
đức, chuẩn mực về thái độ và hành vi đúng đắn, xác định nhiệm vụ bản
thân đối với quê hương, đất nước.
Trong các môn học ở trường tiểu học thì môn Lịch sử có một vị trí
rất quan trọng trong việc giáo dục tình cảm, đạo đức, lòng yêu quê hương
đất nước cho học sinh. Bởi vì thông qua các sự kiện, nhân vật lịch sử, học
sinh sẽ thấy được những tấm gương hi sinh của các anh hùng dân tộc, tự
hào về truyền thống bảo vệ và xây dựng đất nước của bao thế hệ cha ông.
Địa phương có một vị trí quan trọng đặc biệt với học sinh tiểu học.
Địa phương vừa bao hàm những yếu tố vật chất như xóm, làng, xã,… vừa
bao hàm những giá trị truyền thống văn hóa, phong tục tập quán. Đối với
mỗi học sinh đây chính là nơi các em sinh ra và lớn lên vì thế những bản
sắc, truyền thống, phong tục tập quán…đã được hằn sâu. Điều này tạo nên
sự khác biệt, nét đặc trưng của mỗi người ở mỗi vùng là khác nhau. Đặc
biệt việc cung cấp những sự kiện, nhân vật lịch sử gắn với làng quê, thôn
xóm, phố phường nơi mà các em đang sống (hay còn gọi là lịch sử địa

1


phương) sẽ có tác động mạnh mẽ đến tình cảm, tư tưởng của học sinh. Vì


vậy, việc đưa lịch sử địa phương vào dạy học trong trường tiểu học với
những hình thức khác nhau là một phương thức gắn học tập lịch sử với đời
sống xã hội. Nó cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử
địa phương giúp các em củng cố, bổ sung, mở rộng và làm phong phú, cụ
thể hóa những kiến thức về lịch sử mà các em đã học và vận dụng hiểu biết
đó vào thực tế cuộc sống. Đồng thời rèn luyện cho học sinh những kỹ năng
cơ bản, tạo hứng thú tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề của lịch sử quê
hương, có ý thức bảo vệ những di tích lịch sử - văn hóa và cách mạng của
địa phương, của dân tộc.
Tuy nhiên tại chính những nơi mà các em đang sống, sinh hoạt, học
tập khi được hỏi về lịch sử hình thành hay truyền thống đấu tranh cách
mạng thì phần đông học sinh không trả lời được. Nguyên nhân là do giáo
viên ở các trường tiểu học còn gặp khó khăn khi thực hiện chương trình,
do thiếu tài liệu để biên soạn bài giảng và quan trọng hơn là chưa hiểu thấu
đáo về những hình thức và phương pháp dạy học lịch sử địa phương. Và
thực tế cho thấy, giáo viên thường không hứng thú khi làm việc với tài liệu
lịch sử địa phương. Hoặc những tiết lịch sử địa phương trong chương trình
của tiểu học được giáo viên thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định thì đa số
chỉ là dạy chiếu lệ và xem nhẹ sau đó biện hộ bằng nhiều lí do khác nhau.
Chính vì thế mà hiệu quả dạy học lịch sử địa phương còn thấp. Ở tỉnh Hà
Nam tôi cũng đã nhận thấy rằng, tình hình dạy học lịch sử địa phương ở
các trường tiểu học chưa đạt hiệu quả vì thiếu tài liệu và phương pháp
giảng dạy. Thậm chí nhiều giáo viên bộ môn còn lấy những tiết dạy lịch sử
địa phương để bù giờ những môn ở công cụ Toán, Tiếng Việt. Xuất phát từ
những lí do trên tôi đã chọn đề tài “Dạy học lịch sử địa phương cho học
sinh tiểu học ở Hà Nam”.

2



2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu việc dạy học lịch sử địa phương trong môn Lịch sử - Địa lí
cho học sinh tiểu học ở Hà Nam, trên cơ sở đó đề xuất nội dung dạy dọc
lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở Hà Nam, đồng thời đưa ra một
số biện pháp dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở Hà Nam.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
 Khách thể nghiên cứu: Nội dung dạy học lịch sử địa phương cho
học sinh tiểu học ở Hà Nam.
 Đối tượng nghiên cứu: Lịch sử tỉnh Hà Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc tìm
hiểu một số vấn đề về dạy học lịch sử địa phương tại tỉnh Hà Nam.
5. Giả thuyết khoa học
 Chất lượng dạy học lịch sử địa phương trong phần Lịch sử của
môn Lịch sử - Địa lí ở trường tiểu học sẽ được nâng cao hơn khi vận dụng
những phương pháp được đề xuất trong đề tài.Nếu xác định mục tiêu, nội
dung, phương pháp dạy học lịch sử địa phương hợp lí sẽ nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
 Tìm hiểu một số vấn đề về dạy học lịch sử địa phương: Mục tiêu,
nội dung, phương pháp, cách kiểm tra đánh giá.
 Đề xuất một số biệm pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
Lịch sử địa phương trong phân môn Lịch sử của môn Lịch sử - Địa lí.
7. Phương pháp nghiên cứu
 Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

3



7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
 Trong quá trình tìm hiểu đề tài chúng tôi có nghiên cứu một số
sách về lịch sử, các sách về lịch sử địa phương, cùng rất nhiều các tư liệu
khác.
7.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
 Điều tra về thực trạng dạy và học lịch sử địa phương của giáo
viên, học sinh tại một số trường tiểu học ở Hà Nam.
7.3. Phương pháp quan sát
 Quan sát hoạt động dạy và học lịch sử địa phương của giáo viên
và học sinh trên lớp.
7.4. Phương pháp trò chuyện
 Trò chuyện, trao đổi với với các giáo viên về thực trạng dạy học
lịch sử địa phương.
8. Cấu trúc đề tài
 Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham
khảo, nội dung chính của khóa luận bao gồm:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc dạy học lịch sử địa phương cho
học sinh tiểu học ở Hà Nam
Chương 2: Dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu học ở Hà
Nam

4


PHẦN 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG CHO HỌC SINH TIỂU HỌC Ở HÀ NAM

1.CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Khái niệm
1.1.1. Địa phương
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học biên soạn định
nghĩa như sau: “Địa phương là khu vực, trong quan hệ với những vùng,
khu vực khác của cả nước”, “Vùng, khu vực trong quan hệ với trung ương,
với cả nước”.
Theo Trương Hữu Quýnh: “Địa phương là những gì không phải của
trung ương, cả nước, dân tộc. Địa phương là những vùng riêng rẽ của đất
nước, có mối liên hệ với cả nước, và là một bộ phận cấu thành của đất
nước (quốc gia), nhưng cũng có những nét riêng tạo nên sắc thái của vùng
mình”.
Theo Nguyễn Cảnh Minh: “Địa phương theo nghĩa cụ thể là những
đơn vị hành chính của một quốc gia như: thành phố, tỉnh, huyện, xã, bản,
làng, buôn, ấp, mường… nói một cách khái quát, địa phương là một vùng
đất, khu vực nhất định, được hình thành trong lịch sử có ranh giới tự nhiên
hay địa giới hành chính để phân biệt với địa phương khác”.
Ví dụ: miền Bắc, miền Trung, Việt Bắc, Tây Bắc, Hà Nam, Tây
Nguyên,… đều thuộc phạm vi địa phương.
Theo Phan Ngọc Liên: “Địa phương là một đơn vị hành chính trong
nước như khu, tỉnh, thành phố, huyện, xã… Ở mỗi khu vực này nhân dân

5


gắn bó với nhau trong quá trình lao động và đấu tranh, có truyền thống
chung, có những quan hệ về kinh tế chính trị, văn hóa chung. Ngoài ra,
khái niệm địa phương còn chỉ một đơn vị sản xuất (xí nghiệp, nông trường,
nhà máy,…), một đơn vị lực lượng vũ trang (sư đoàn), một tổ chức chính
trị quần chúng (đảng bộ, hội phụ nữ,…), một đơn vị giáo dục (trường
học)”.

Tóm lại, có thể hiểu khái niệm địa phương: Đó là vùng đất nhất
định, có ranh giới riêng, hình thành từ lâu đời, nhằm phân biệt nó với
những vùng đất tương tự xung quanh nó (ranh giới ở đây chỉ là ranh giới
địa lý tự nhiên). Trong đó nhân dân ở địa phương gắn bó với nhau trên tất
cả các lĩnh vực. Chẳng hạn khi tìm hiểu tỉnh Hà Nam chúng ta tìm hiểu địa
phương các huyện trong tỉnh: Bình Lục, Thanh Liêm, Lý Nhân, Kim
Bảng,…Như vậy, địa phương ở đây không chỉ dùng để chỉ các tỉnh, thành
phố, mà cho các vùng khác nhau trong một tỉnh. Nhằm phân biệt với cả
nước, quốc gia trung ương nói chung, không tính đến ranh giới địa lý hoặc
một ranh giới nào khác.
1.1.2. Lịch sử địa phương
“Lịch sử địa phương” là lịch sử của các địa phương, chẳng hạn như
lịch sử làng, xã, huyện, tỉnh, vùng, miền. Ngoài ra, lịch sử địa phương còn
bao hàm lịch sử các đơn vị sản xuất, chiến đấu, các cơ quan, xí nghiệp.
Tuy nhiên, về mặt chuyên môn, kĩ thuật, có thể xếp nó vào dạng lịch sử
chuyên ngành.
Khái niệm lịch sử địa phương như vậy rất đa dạng, phong phú cả về
nội dung và thể loại. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi nghiên cứu về
lịch sử địa phương với tư cách là lịch sử của địa phương như lịch sử làng,
xã, huyện, tỉnh,… mà không xét nó ở dạng lịch sử chuyên ngành.

6


1.1.3. Mối quan hệ giữa lịch sử địa phương và lịch sử dân tộc
Đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nằm trong cặp
phạm trù “cái chung và cái riêng”. Tri thức lịch sử địa phương là những
biểu hiện cụ thể, sinh động, đa dạng của tri thức lịch sử dân tộc. Lịch sử
địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Lịch sử dân tộc, đất
nước được hình thành, xây dựng và phát triển trên nền tảng khối lượng tri

thức lịch sử địa phương được tổng hợp, khái quát ở mức độ cao.
Bất cứ một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra đều mang tính địa
phương, bởi nó gắn liền với một không gian cụ thể ở một hoặc một số địa
phương nhất định. Tuy nhiên, những sự kiện, hiện tượng đó có tính chất
quy mô, mức độ ảnh hưởng khác nhau. Có những sự kiện, hiện tượng chỉ
có tác dụng, ảnh hưởng ở một phạm vi nhỏ hẹp của một địa phương,
nhưng có những sự kiện, hiện tượng xảy ra có mức độ ảnh hưởng vượt ra
ngoài giới hạn địa phương, mang ý nghĩa rộng đối với quốc gia, gắn liền
với lịch sử cả nước, thậm chí, có những sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra
có ảnh hưởng tới lịch sử của nhiều quốc gia. Không chỉ đối với nhà sử học,
nói chung, mỗi người ở những mức độ khác nhau đều có nhu cầu tìm hiểu
về lịch sử của địa phương mình và lịch sử đất nước, mối quan hệ giữa lịch
sử quê hương và lịch sử dân tộc.Tri thức lịch sử sẽ làm giàu thêm tri thức
cuộc sống con người. Bài học lịch sử luôn luôn là kinh nghiệm để con
người biết cách hành động đúng đắn. Bởi vậy có thể nói rằng: Lịch sử là
“cô giáo của cuộc sống”. Sự am hiểu về lịch sử dân tộc còn bao hàm cả sự
hiểu biết cần thiết về lịch sử địa phương hiểu biết về mối quan hệ giữa lịch
sử địa phương và lịch sử dân tộc.
Nếu nghiên cứu lịch sử địa phương mà tách rời, thoát ly khỏi lịch sử
cả nước tức là tách rời hoàn cảnh lịch sử dân tộc trong từng giai đoạn lịch
sử tương ứng có quan hệ với lịch sử địa phương thì sẽ không sâu sắc, thiếu

7


tính khoa học. Mặt khác, tri thức lịch sử địa phương góp phần quan trọng,
bổ sung cho sự hiểu biết đầy đủ về lịch sử dân tộc, đất nước, bổ sung tư
liệu lịch sử để dạy và học lịch sử dân tộc sinh động, hấp dẫn hơn.
1.1.4. Ý nghĩa của việc dạy học lịch sử địa phương cho học sinh tiểu
học

Dạy dọc lịch sử dân tộc nói chung, dạy học lịch sử địa phương nói
riêng có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Nó là hình ảnh
thiết thực trong việc giáo dưỡng, giáo dục và phát tiển tư duy cho học sinh.
 Thứ nhất, giảng dạy lịch sử địa phương trong nhà trường làm
chiếc cầu nối giữa nhà trường, học sinh, với đời sống xã hội, giữa quá khứ,
hiện tại với tương lai.
 Thứ hai, dạy học lịch sử địa phương trong trường tiểu học là một
phương tiện quan trọng để nâng cao chất lượng kiến thức, hình thành thế
giới quan khoa học và giáo dục cho học sinh lòng yêu đất nước, quê
hương.
Mỗi bài giảng của giáo viên về lịch sử địa phương là góp phần cung
cấp thêm một nguồn tri thức mới cho các em học sinh. Thông qua việc tiếp
xúc với nhiều tài liệu, hiện vật lịch sử của địa phương mình các em sẽ
được trang bị thêm các kiến thức về cuộc sống lao động và truyền thống
của nhân dân địa phương, kính trọng nhân dân lao động từ đó giữ gìn và
phát huy truyền thống tốt đẹp của địa phương mình. Đồng thời cũng góp
phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, lòng nhiệt tình say mê môn
học, yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống, vốn đã được ăn sâu trong
tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam. Nhưng để yêu quê hương, yêu
cuộc sống hơn nữa thì cần phải hiểu sâu sắc thêm tri thức lịch sử địa
phương dân tộc. “Vì vậy, mà nhà giáo dục học nổi tiếng Usinxki đã rất có
lý khi nói đến sự cần thiết tuyệt đối phải đưa việc giảng dạy lịch sử địa

8


phương vào trường phổ thông”. Nhằm tuân thủ theo phương pháp luận của
Lênin về phép biện chứng của sự nhận thức “Cái riêng không tồn tại ngoài
mối liên hệ với cái chung”.
 Thứ ba, giảng dạy lịch sử địa phương đóng vai trò quan trọng để

phát triển tư duy cho học sinh.Việc giảng dạy lịch sử địa phương trong
chương trình lịch sử dân tộc làm cho học sinh hiểu rõ hơn những khái niệm
lịch sử chung và riêng, nhận thức được các hình thái kinh tế xã hội qua
từng giai đoạn phát triển của lịch sử… điều này rất quan trong để phát triển
tư duy cho học sinh. Ngoài ra, nó còn giúp cho học sinh nắm vững hơn nữa
những khái niệm khoa học hiện đại của hệ thống: “Tự nhiên – con người –
xã hội”. Thấy được vai trò của con người tác động đến việc cải tạo và
chinh phục tự nhiên một cách hợp quy luật, không phải là tàn phá thiên
nhiên. Mà học sinh hiểu rằng trong chế độ xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, khi nhân dân thực sự “làm chủ thiên nhiên – làm chủ con
người – làm chủ xã hội” thì việc cải tạo và chinh phục thiên nhiên mới góp
phần tích cực vào việc phát triển lịch sử, đem lại ấm no, hạnh phúc cho
mọi người.
 Thứ tư, dạy học lịch sử địa phương nhằm góp phần vào việc bồi
dưỡng tình cảm, trách nhiệm đối với quê hương. Đối với đất nước ta hiện
nay đang trong thời kì quá độ đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, chúng ta
gặp không ít những khó khăn và thử thách. Nhằm thực hiện lời chỉ đạo của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “giáo dục phổ thông phải gắn liền với lịch
sử, thiên nhiên, xã hội, con người ở địa phương, làm cho việc giảng dạy và
học tập ở nhà trường thấm đượm hơn cuộc đời thật, học sinh ngay từ lúc đi
học, đã sống thật với cuộc sống xung quanh”.
 Thứ năm, dạy học lịch sử địa phương có một vị trí quan trọng
trong việc hình thành cho thế hệ trẻ lòng yêu quê hương đất nước. Thông

9


qua nguồn tri thức mà giáo viên cung cấp, giúp cho học sinh hiểu sâu sắc
hơn về lịch sử tại địa phương mình. Từ đó, học sinh sẽ hình thành, kế thừa
được những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta, sẽ hình thành một nền tư

tưởng chính trị của thời đại mới, cũng như tinh thần lao động và óc thẩn
mỹ ở học sinh. Bởi vì nguồn gốc của lòng yêu tổ quốc có từ thuở ấu thơ, từ
lòng yêu quê hương của mình. Học sinh tự hào về chiến công của ông cha
đã làm nên ngay tại làng xóm thân yêu trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
xâm lược. Học sinh cũng tự hào về những thành tựu kinh tế, văn hóa, xã
hội của địa phương từ xưa đến nay, đặc biệt trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Không những thế, các em càng tự hào về những ngành nghề
thủ công truyền thống, về sự tài giỏi, sự khéo léo của những người thợ thủ
công, chính họ đã tạo nên những sản phẩm nổi tiếng cho địa phương nói
riêng và cả nước nói chung. Qua đó, giáo dục cho học sinh ý thức bảo vệ
và phát triển những nghề truyền thống. Đây là một trong những nội dung
giáo dục hướng nghiệp của bộ môn lịch sử.
Bên cạnh đó, giảng dạy lich sử địa phương ở nhà trường phổ thông
có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết. Giáo sư Phan Ngọc Liên
đã nhấn mạnh “ Việc đưa lịch sử địa phương vào chương trình dạy học ở
phổ thông là điều kiện cần thiết và có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục lớn cả
về mặt lý luận cũng như thực tiễn”. Công việc này đã góp phần thực hiện
lời dạy của Bác Hồ về việc dạy và học lịch sử ở nước ta nói chung và ở địa
phương nói riêng.
 Thứ sáu, việc dạy học lịch sử địa phương có tác dụng tích cực
trong việc rèn luyện khả năng thực hành cho học sinh cùng với các môn
học khác và các hoạt động khác của nhà trường, góp phần phát huy tác
dụng trung tâm văn hóa, khoa học kĩ thuật của nhà trường đối với quê
hương, gắn nhà trường với đời sống xã hội.

10


 Đối với giáo viên, sinh viên việc nghiên cứu lịch sử địa phương
giúp chúng ta hiểu sâu sắc lịch sử của một địa phương, hiểu những đặc

trưng văn hóa truyền thống đấu tranh cách mạng của từng địa phương cụ
thể. Nó góp phần cho việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc.Ngoài ra, còn giúp cho sinh viên,
giáo viên khả năng tự rèn luyện và bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa
học, phù hợp với yêu cầu, trình độ của họ. Điều đó được thể hiện thông
qua những chuyến đi thực tế chuyên môn để tìm hiểu nghiên cứu lịch sử ở
những địa phương. Qua đó, giúp chúng ta có những nhận xét, suy nghĩ về
những sự kiện ở mỗi địa phương.
 Với những ý nghĩa trên, giúp cho giáo viên và học sinh thấy rõ tầm
quan trọng của việc dạy học lịch sử địa phương Chỉ khi chúng ta hiểu biết
được lịch sử địa phương thì mới có cách nhìn nhận về mối quan hệ giữa
lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu, dạy học
lịch sử địa phương cần được quan tâm hơn nữa, tiếp tục đổi mới phương
pháp dạy học một cách tích cực, chủ động, sáng tạo cho cả người dạy lẫn
người học.
Có như vậy mới thật sự làm cho tiết học lịch sử thêm phong phú và
sinh động. Học sinh mới cảm thấy hứng thú khi học tập lịch sử dân tộc nói
chung, của địa phương nói riêng, mới thật sự không bị lãng quên, ngày
càng làm cho nhiều người nghiên cứu và tìm hiểu.
Tóm lại, việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương ở bậc tiểu
học có ý nghĩa quan trọng, có tác dụng lớn, trực tiếp về giáo dưỡng và giáo
dục, rèn luyện, phát triển các kỹ năng tư duy lịch sử cho học sinh.
1.1.5. Dạy học
Nhiều tác giả cho rằng: “Dạy học là toàn bộ các thao tác có mục
địch nhằm chuyển các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các giá trị văn hóa mà

11


nhân loại đã đạt được hoặc cộng đồng đã đạt được vào bên trong con

người”. Quan niệm này lí giải đầy đủ cách mà nền giáo dục đang cố gắng
đào tạo những con người thích ứng những nhu cầu hiện đại của xã hội. Tuy
nhiên quan niệm này làm cho nền giáo dục luôn đi sau sự phát triển của xã
hội. Bởi vì nó chỉ có nhiệm vụ tái hiện lại các giá trị tinh thần xã hội đã
dược vật chất hóa bằng cách nào đó để trở lại thành giá trị tinh thần bên
trong người học. Quan niệm này đi ngược lại quan niệm của Socrate về
giáo dục trong đó giáo dục có nhiệm vụ “đỡ đẻ” các ý niệm vốn có trong
mỗi con người, để cho ý niệm đó được khai sinh và và trở thành giá trị tinh
thần chung của nhân loại. Quan niệm đó cũng hạn chế nền giáo dục hướng
đến một phương pháp giáo dục giúp cho người học trở thành những con
người sáng tạo, vượt qua được những giá trị tinh thần hiện có của xã hội.
Thời đại của chúng ta, và hơn nữa xã hội của chúng ta đang hướng tới một
xã hội tri thức. Một xã hội mà tri thức con người đang được số hóa với một
tốc độ cực lớn, làm cho tri thức dễ dàng nhanh chóng trở thành tài sản
chung. Tuy nhiên xã hội tri thức không chỉ có nhiệm vụ tích hợp các kiến
thức mà con người đã đạt được trong các phương tiện lưu trữ dung lượng
cực lớn, trong các cơ sỡ dữ liệu khổng lồ mà con người có nhiệm vụ từ đó
nhân lên khối lượng kiến thức này thành các kiến thức mới có chất lượng
cao hơn nữa.
Như vậy có lẽ hợp lí hơn nếu cho rằng: “Dạy học là một quá trình
gồm toàn bộ những thao tác có tổ chức và định hướng giúp người học
tường bước có năng lực tư duy và năng lực hành động với mục đích chiếm
lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kĩ năng, các giá trị văn hóa mà
nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải quyết được các bài
toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học”
1.2. Nguyên tắc dạy học lịch sử

12



1.2.1. Đảm bảo tính tư tưởng
Tính tư tưởng là nguyên tắc hàng đầu của dạy học nói chung và dạy
học lịch sử nói riêng. Trong dạy học lịch sử giáo viên phải khơi dạy cho
học sinh lòng tự hào dân tộc, lòng yêu quý, biết ơn đối với quần chúng
nhân dân, lòng yêu hòa bình và ghét sự bất công, tàn bạo, chiến tranh… Từ
đó các em thấy được trách nhiệm của bản thân trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài
người. Vì vậy, khi dạy học lịch sử giáo viên cần tôn trọng lịch sử, tức là
phản ánh đúng những gì đã xảy ra chứ không nên phủ nhận quá khứ đồng
thời đưa ra những thông tin sai lệch làm người học hiểu sai về những gì đã
xảy ra.
1.2.2. Đảm bảo tính hệ thống
Quá trình phát triển của lịch sử được thực hiện trong sự thống nhất
đa dạng, đầy mâu thuẫn, hợp với quy luật của tiến trình lịch sử. Trong quá
trình hình thành tri thức lịch sử cho học sinh giáo viên cần đảm bảo tính hệ
thống, logic của sự phát triển bản thân lịch sử. Trình bày sự kiện lịch sử
phải theo đúng trình tự thời gian xảy ra sự kiện, kiến thức của bài học
trước phải là cơ sở để lĩnh hội kiến thức ở bài học sau, hoặc giữa các kiến
thức trong một bài học cũng có tính hệ thống.
Nếu tính hệ thống trong dạy học không được đảm bảo sẽ làm cho sự
hiểu biết lịch sử của học sinh thiếu hệ thống, không theo trình tự thời gian
diễn ra và các sự kiện của quá khứ và không hiểu sâu sắc bản chất sự kiện.
1.2.3. Đảm bảo tính khoa học
Lịch sử là bản thân cuộc sống mà loài người, dân tộc trải qua. Hiện
thực lịch sử là khách quan do vậy các sự kiện lịch sử được khái quát dựa
vào bài dạy phải chính xác, khoa học, tránh trường hợp đưa vào bài dạy

13



những sự kiện sai lệch, xuyên tạc, bóp méo lịch sử. Tính khoa học cũng
được thể hiện rõ ở việc trình bày nội dung sự kiện lịch sử đúng với bản
thân quá khứ đồng thời cũng phải cung cấp lượng thông tin phù hợp.
1.2.4. Đảm bảo tính vừa sức
Trong quá trình học tập của học sinh tính vừa sức thể hiện trong việc
lựa chọn nội dung hình thức phù hợp với đối tượng học sinh. Tính vừa sức
làm cho học sinh hứng thú, tạo diều kiện cho các em vươn lên ngang trình
độ chương trình, các em khá giỏi vươn lên trong phạm vi trình độ quy
định. Do đó giáo viên chú ý khi cung cấp các sự kiện lịch sử và chú ý các
tình huống các hoạt động phù hợp với trình độ của học sinh tránh sự quá
tải hoặc hạ thấp kiến thức.
Tính khoa học còn gắn liền với tính vừa sức. Những kiến thức mà
giáo viên cung cấp phải vừa sức với việc lĩnh hội kiến thức vừa đủ, trình
bày ngắn gọn, xúc tích, không rườm rà, không quá sức tiếp thu của học
sinh.
1.3. Một số vấn đề về môn Lịch sử - Địa lí ở trường tiểu học nói chung
và phần lịch sử nói riêng
1.3.1. Môn Lịch sử - Địa lí ở tiểu học
1.3.1.1. Quan điểm xây dựng chương trình môn Lịch sử - Địa lí
Chương trình chọn yếu tố cốt lõi là hoạt động của con người và
những thành tựu của hoạt động đó trong không gian và thời gian. Vì vậy,
chương trình gồm 2 phần cơ bản sau:
 Thời gian và tiến trình lịch sử dân tộc: những hiểu biết cơ bản, ban
đầu về một số sự kiện, hiện tượng và những nhân vật lịch sử điển hình,
một số thành tựu văn hóa tiêu biểu đánh dấu sự phát triển của lịch sử dân
tộc (phần lịch sử)

14



 Không gian với những điều kiện và hoạt động chủ yếu của con
người hiện nay. Những hiểu biết ban đầu, cơ bản về dân cư, điều kiện
sống, các hoạt động văn hóa của địa phương, đất nước Việt Nam và một
vài đặc điểm tiêu biểu của một số quốc gia, châu lục trên thế giới (phần
Địa lí)
Gắn với địa phương: Chương trình dành khoảng 10-15% tổng số
thời gian học cho nội dung tìm hiểu địa phương. Những nội dung này có
thể được thực hiện như sau:
 Với những bài Lịch sử - Địa lí có nội dung phản ánh những đặc
trưng của địa phương giáo viên nên dành thời gian cho học sinh tìm hiểu,
liên hệ thực tế kĩ hơn so với học sinh nơi khác.
 Tạo điều kiện cho học sinh đi tham quan một số địa điểm ở địa
phương để các em có thể thu hoạch được những thông tin cần thiết cho bài
học Lịch sử và địa lí. Trường hợp giáo viên không thể đưa học sinh đi
tham quan nên mời người có am hiểu về lĩnh vực kiến thức liên quan tới
nội dung bài học nói chuyện với học sinh.
1.3.1.2. Mục tiêu của chương trình môn Lịch sử -Địa lí
Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản ban đầu thiết thưc
về:
 Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời
gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nay.
 Các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở Việt
Nam và một số quốc gia trên thế giới
Bước đầu hình thành và phát triển ở học sinh những kỹ năng
 Quan sát sự vật hiện tượng và thu thập thông tin, tư liệu lịch sử và
địa lí từ các nguồn khác nhau.

15



 Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông
tin để giải đáp.
 Nhận biết đúng các sự vật, hiện tượng lịch sử và địa lí.
 Trình bày lại kết quả học tâp bằng lời nói, bài viết, biểu đồ, hình
vẽ, sơ đồ,...
 Vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống
Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen
 Ham học hỏi, ham hiểu biết về thế giới xung quanh
 Yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu quê hương đất nước
 Tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa gần gũi với
học sinh
1.3.1.3. Cấu trúc của chương trình môn Lịch sử - Địa lí
Chương trình môn Lịch sử - Địa lí bao gồm 2 phần là lịch sử và địa
lí. Cấu trúc như vậy nhằm làm rõ đặc trưng của lịch sử và địa lí. Khi tiến
hành bài học của chương trình này giáo viên cần tăng cường kết hợp nội
dung gần nhau của hai phần có thể bằng nhiều cách.
 Thay đổi thứ tự nội dung của một trong hai phần ví dụ: ở nội dung
“làm quen với bản đồ, bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam” của phần địa lí sẽ
được học trước khi học phần lịch sử.
 Liên hệ những kiến thức gần gũi nhau giữa hai phần, chẳng hạn,
khi dạy học nội dung: “thiên nhiên và hoạt động của con người ở miền
đồng bằng” giáo viên có thể liên hệ với nội dung: “Nhà Lí dời đô ra Thăng
Long” hay khi dạy học nội dung: “Thủ dô Hà Nội” giáo viên có thể liên hệ
nội dung: “Nhà Lí dời đô ra Thăng Long”.
 Ghép nội dung trùng nhau của hai phần lịch sử và địa lí vào một
bài, chẳng hạn khi dạy học nội dung: “Kinh thành Huế” bài 28 (phần Lịch
sử) với bài 27 “Thành phố Huế” (phần Địa lí).

16



 Viêc tích hợp như trên đã được gợi ý trong sách giáo viên và cần
được giáo viên quán triệt, vận dụng linh hoạt trong quá trình dạy học.
 Bên cạnh những sự vật, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu
phán ánh những thành tựu của dân tộc trong quá trình giữ nước chương
trình còn tăng cường những nội dung về lịch sử kinh tế, lịch sử văn hóa.
 Chương trình địa lí tập trung hơn vào việc tìm hiểu về đất nước
qua việc tăng cường thời lượng cho phần địa lí Việt Nam, còn phần địa lí
các châu lục và châu đại dương trong chương trình chỉ lựa chọn những nội
dung tiêu biểu qua từng châu lục và đại dương.
1.3.1.4. Nội dung chương trình
Sách giáo khoa Lịch sử - Địa lí lớp 4, 5 ở Tiểu học gồm các chủ đề
Số bài học
Sách giáo khoa

mới/ số tiết

Số bài ôn tập,
tổng kết, kiểm
tra

Tổng số tiết

Phần mở đầu

3/3 tiết

0


2

Lịch sử

26/26 tiết

6

32

Địa lí

29/29 tiết

6

35

Lớp

Lịch sử

28/28 tiết

7

35

5


Địa lí

29/29 tiết

6

35

Lớp
4

1.3.2. Phần Lịch sử trong môn Lịch sử - Địa lí
1.3.2.1. Mục tiêu dạy học phần lịch sử lớp 4,5
Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản ban đầu về:
 Hoàn cảnh ra đời, địa phận, thời gian ra đời và tồn tại của nhà
nước tên vua, tên nước, nơi kinh đô đóng…
 Hiểu đơn giản về tổ chức bộ máy nhà nước

17


 Biết những nét chính về đời sống kinh tế, vật chất, văn hóa tinh
thần của con người trong xã hội.
 Biết và hiểu về công lao và những đóng góp của một số nhân vật
đối với lịch sử dân tộc.
 Thời gian và địa điển diễn ra các cuộc khởi nghĩa, chiến thắng,
chiến dịch… và những nét chính về diễn biến, ý nghĩa của các thắng lợi
đó.
 Học sinh biết và hiểu một số thàng tựu trong lĩnh vực văn hóa,
khoa học điển hình của dân tộc qua các thời kì lịch sử.

Hình thành và phát triển ở học sinh một số kĩ năng
 Vẽ hoặc mô tả đơn giản bộ máy chính quyền nhà nước.
 So sánh ở mức độ thấp tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
của các triều đại hoặc các giai đoạn lịch sử khác nhau.
 Học sinh có khả năng kể lại hoặc mô tả một cách khái quát những
đóng góp của các nhân vật lịch sử đã học hoặc sưu tầm những câu chuyện
về họ.
 Tường thuật, miêu tả những nét chính của cuộc khởi nghĩa hay
chiến dịch đã học.
 Kể mô tả những nét chính khái quát nhất về các thành tựu văn học
– khoa học.
Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen:
 Có ý thức tìm hiểu lịch sử qua các triều đại thông qua phim ảnh,
các câu chuyện lịch sử.
 Ghi nhớ công ơn của các nhân vật lịch sử đã học.
 Có thái độ biết ơn những người đã làm nên những sự kiện vĩ đại
của dân tộc và có ý thức bảo vệ những thành quả của cách mạng.

18


 Có ý thức trân trọng giữ gìn và bảo vệ những thành tựu văn hóa,
khoa học của dân tộc.

1.3.2.2.

Nội dung phần Lịch sử lớp 4, 5

Phần lịch sử (1tiết/tuần x 35 tuần = 35 tiết)
Một số sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của dân tộc qua các thời kì:

 Buổi đầu dựng nước và giữ nước (Từ khoảng năm 700 TCN đến
năm 179 TCN)
 Hơn một nghìn năm đấu tranh giành lại độc lập (từ năm 179 TCN
đến năm 938).
 Buổi đầu độc lập (từ năm 938 đến năm 1009).
 Nước Đại Việt thời Lý(từ năm 1009 đến năm 1226)
 Nước đại việt thời Trần (từ năm 1226 đến năm 1400).
 Nước Đại Việt buổi đầu thời Hậu Lê (Thế kỷ XV).
 Nước Đại Việt (thế kỷ XVI-thế kỷ XVII).
 Thời Tây Sơn (cuối thế kỉ XVIII).
 Buổi đầu thời Nguyễn (từ năm 1802 đến năm 1858).
Lớp 5
Phần lịch sử (1 tiết /1tuần + 35 tuần = 35 tiết).
Một số sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu của lịch sử dân tộc qua
các thời kì.
 Hơn tám mươi năm chống thực dân Pháp xâm lược và đô hộ
(1858 - 1945).
 Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kỳ kháng chiến chống pháp
(1945 - 1954).
 Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất
nước nhà (1954 - 1975).
1.4. Phần lịch sử địa phương trong môn Lịch sử và Địa lí lớp 4, 5
1.4.1. Mục tiêu dạy học lịch sử địa phương

19


Bài học lịch sử địa phương là bài học nội khóa, do vậy phải tuân thủ
đầy đủ những yêu cầu về nội dung, cấu trúc, hình thức thể hiện của một bài
học lịch sử.

Căn cứ vào yêu cầu chung của môn học, của khóa trình lịch sử, nội
dung cụ thể ở lớp học để xác định rõ mục đích (dạy để làm gì?), trình bày
nội dung (dạy cái gì?) và lựa tìm phương pháp (dạy như thế nào?). Một
cách ngắn gọn, mục đích của bài học cần đạt được những điều sau:
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, tiêu biểu, điển
hình của lịch sử địa phương. Trên cơ sở đó học sinh biết so sánh lịch sử địa
phương với lịch sử dân tộc, thấy được mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ giữa
các sự kiện, hiện tượng , rút ra những kết luận khái quát về quy luật phát
triển chung của lịch sử dân tộc và nét đặc thù riêng của lịch sử địa phương.
-

Giáo dục niềm tự hào chân chính về những đóng góp của quê

hương đối với đất nước, có ý thức trân trọng, giữ gìn, bảo quản di tích lịch
sử địa phương. Dạy và học lịch sử địa phương về những làng, xã, thôn,
bản, phố phường cụ thể, sẽ có tác dụng làm cho thầy trò có nhận thức cụ
thể, sinh động về truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất, lao động cần
cù, sáng tạo, đoàn kết, vượt khó khăn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất
nước của nhân dân ta, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua các tổ chức Đảng ở địa phương. Từ đó góp phần giáo dục cho
thế hệ trẻ nhận thức đúng về vai trò của quần chúng nhân dân, của Đảng
Cộng sản Việt Nam, củng cố thêm niềm tin đối với Đảng, đối với tương lai
tươi sáng của dân tộc…
- Rèn luyện năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, bồi dưỡng những kỹ
năng sưu tầm, nghiên cứu lịch sử địa phương biết vận dụng kiến thức lịch
sử vào thực tiễn, có khả năng tham gia các hoạt động công ích xã hội ở địa
phương.

20



1.4.2. Nội dung dạy học lịch sử địa phương
Nội dung nghiên cứu và giảng dạy lịch sử địa phương bao gồm:
Thứ nhất: Đó là lịch sử các đơn vị hành chính. Hay nói đúng hơn là
quá trình hình thành và phát triển của địa phương trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hôi, giáo dục. Từ đó, thấy được bề dày lịch
sử địa phương, thấy được mặt mạnh và mặt yếu của từng địa phương qua
từng thời kỳ. Để tìm hiểu kỹ vấn đề này, chúng ta tìm hiểu thông qua lịch
sử Đảng, lịch sử đấu tranh cách mạng, lịch sử xây dựng kinh tế, văn hóa ở
từng địa phương…
Thứ hai: tìm hiểu các sự kiện lịch sử riêng rẽ, nhưng có liên quan
đến biến cố chung của lịch sử dân tộc. Ví như: một cuộc khởi nghĩa, một
giai đoạn kháng chiến, một vụ thảm sát tại một vùng quê,… nó góp phần
bổ sung hoặc đính chính vào lịch sử dân tộc, góp phần làm cho lịch sử dân
tộc thêm phong phú và chính xác.
Như vậy, nội dung giảng dạy lịch sử địa phươngkhông chỉ có các
vấn đề về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm, mà còn phải chú ý đến
những vấn đề về kinh tế - xã hội, các ngành nghề thủ công truyền thống,
phong tục tập quán về truyền thống văn hóa – giáo dục ở địa phương.
Trong phân bố chương trình Lịch sử và Địa lí lớp 4 và lớp 5, có bố
trí 2 tiết giảng dạy lịch sử địa phương cho mỗi lớp.
Mặc dù trước đây chưa có chủ chương đưa lịch sử địa phương vào
dạy học cho học sinh tiểu học, nhưng ở các trường đều có dành một quỹ
thời gian nhất định cho việc tổ chức cho học sinh tham quan di tích, bảo
tàng hoặc phòng truyền thống, hay nghe giới thiệu về truyền thống của địa
phương, đồng thời giới thiệu cho các em tương đối cặn kẽ và sinh động
một vài sự kiện nổi bật nhất của lịch sử địa phương trong mối quan hệ với
bài học lịch sử dân tộc ở thời gian tương ứng.

21



Tuy trong phân bố chương trình có quy định số tiết về giảng dạy lịch
sử địa phương nhưng không có quy định cụ thể về nội dung từng tiết lịch
sử địa phương cụ thể, sách giáp khoa lịch sử cũng không cung cấp tài liệu
cho các bài học, đây là “phần mềm” cho nên người giáo viên phải chủ
động biên soạn bài giảng lịch sử địa phương giáo viên sẽ gặp nhiều khó
khăn và phải tự mình đi sưu tầm tài liệu và lựa chọn nội dung để soạn bài.
 Lớp 4: ngoài 4 tiết phần mở đầu trình bày sơ lược về nội dung,
yêu cầu và một số kiến thức chung khi dạy học môn Lịch sử và Địa lý,
phần Lịch sử gồm 33 tiết, trình bày những sự kiện, nhân vật lịch sử phản
ánh những cột mốc đánh dấu sự phát triển của các giai đoạn lịch sử, những
thành tựu trong sự nghiệp dựng nước (kinh tế, chính trị, văn hóa…) và giữ
nước của cha ông ta từ buổi đầu dựng nước và giữ nước đến buổi đầu nhà
Nguyễn.
Chương trình không quy định các tiết lịch sử địa phương riêng,
nhưng trong từng sự kiện lịch sử dân tộc, chúng ta có thể lồng ghép, liên
hệ với các kiên thức lịch sử địa phương nhất là các sự kiện diễn ra hoặc
liên quan với địa phương.
 Phần Lịch sử ở lớp 5 gồm 35 tiết (1 tiết/tuần), trình bày những sự
kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, phản ánh những dấu ấn về sự phát triển của
các giai đoạn lịch sử, những thành tựu trong sự nghiệp dựng nước (kinh tế,
chính trị, văn hóa…) và giữ nước (chống xâm lược) của nhân dân ta từ nửa
cuối thế kỉ XIX đến nay.
Chương trình quy định 2 tiết lịch sử địa phương (bài 29), nội dung
do các trường tự chọn, nhưng chủ yếu là giới thiệu về truyền thống tốt đẹp,
các sự kiện lớn, các di tích lịch sử văn hóa, các sự kiện nhân vật lịch sử
tiêu biểu của địa phương. Các sự kiện lịch sử dân tộc nhưng diễn ra ở địa

22



phương hoặc có liên quan đến địa phương, thì có thể và cần thiết lồng
ghép, liên hệ với các kiến thức lịch sử địa phương như ở lớp 4.
 Chương trình cũng đặt ra yêu cầu các trường cần vận dụng tối đa
các điều kiện cụ thể, dành từ 10- 15% tổng số thời lượng dành cho nội tìm
hiểu địa phương.
Ngoài các giờ nội khóa, nhà trường cần tổ chức các giờ học lịch sử
địa phương ngoài lớp như: cho học sinh đi tham quan những cảnh đẹp, các
di tích lịch sử - văn hóa, nhà bảo tàng, nhà truyền thống, gặp gỡ các nhân
chứng đã trực tiếp tham gia vào các sự kiện lịch sử, các nhà hoạt động xã
hội.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Thực trạng việc dạy học lịch sử địa phương tại một số trường
trên địa bàn tỉnh Hà Nam
Qua kết quả khảo sát (hỏi, phỏng vấn) các giáo viên và học sinh về
tình hình dạy học lịch sử địa phương trên địa bàn tỉnh Hà Nam, em có
những nhận xét sau:
Đối với giáo viên
Nhìn chung, các trường trên địa bàn tỉnh Hà Nam đều nhận thức tầm
quan trọng của việc giảng dạy lịch sử địa phương. Vì vậy, đã đạt những kết
quả:
Em nhận thấy nhiều giáo viên đều hiểu trách nhiệm và nghiên cứu,
tổ chức cho học sinh sưu tầm tài liệu hiện vật. Nhằm góp phần xây dựng
lịch sử địa phương mình. Đồng thời thường xuyên sử dụng tài liệu lịch sử
địa phương trong dạy học các bài học lịch sử dân tộc. Nhiều giáo viên ở
một số trường cũng có những thành tựu đáng kể trong việc giáo dục lịch sử
địa phương cho học sinh. Nhân những ngày lễ lớn của dân tộc hoặc của địa
phương, nhiều giáo viên kết hợp với ban ngành ở địa phương, mời các nhà


23


nghiên cứu hoặc nhân chứng lịch sử đến gặp gỡ nói chuyện với học sinh về
truyền thống đấu tranh cách mạng của địa phương, hoặc nói về một sự kiện
lịch sử của địa phương. Hoặc tổ chức cho các em đi tham quan những di
tích lịch sử. Qua đó các em thể hiện cảm nhận của mình trong bài thu
hoạch.
Tuy nhiên vấn đề dạy học lịch sử địa phương chưa được thực hiện
đồng bộ trong toàn tỉnh. Tùy theo sự phân công kế hoạch của nhà trường
mà kết quả dạy học lịch sử địa phương của mỗi trường đều không giống
nhau. Có những trường thực hiện tốt công tác lịch sử địa phương nhưng
cũng có những trường chưa coi trọng vấn đề này. Vì vậy giáo viên gặp
nhiều khó khăn trong giảng dạy.
Chẳng hạn, nhiều trường chỉ khái quát lịch sử địa phương cho học
sinh nắm sơ lược vào dịp đầu mỗi năm học. Nhiều trường chỉ tiến hành
công tác ngoại khóa bằng cách hướng dẫn học sinh đi tham quan khu di
tích lịch sử. Có những trường không tiến hành bài giảng lịch sử địa
phương. Vì vậy, nhiều học sinh khi được hỏi thì các em đều trả lời không
biết, chưa hề được học tiết lịch sử địa phương.
Theo em được biết, vì nhà trường không quan tâm đến vấn đề này,
nên giáo viên không mấy hứng thú trong việc giảng dạy lịch sử địa
phương. Vì vậy, số giáo viên chưa từng dạy tiết lịch sử địa phương nào
còn nhiều. Có trường giáo viên cho học sinh nghỉ tiết lịch sử địa phương
hoặc sử dụng giờ học này đề học những môn khác như toán, tiếng việt,…
Một số giáo viên cố gắng tổ chức nói chuyện về lịch sử địa phương song
chủ yếu nhắc lại nội dung trong cuốn Lịch sử Đảng bộ hoặc truyền thống
của địa phương chứ không sưu tầm biên soạn thành bài giảng riêng. Trong
đó, một số giáo viên cho học sinh đi tham quan khu di tích lịch sử địa


24


phương song không chuẩn bị chu đáo và chưa hướng dẫn cho học sinh tìm
hiểu, nghiên cứu một cách sâu sắc.
Để giải thích cho tình trạng này, những giáo viên được khảo sát nêu
ra những lí do sau: “không có tài liệu, nhà trường không có kinh phí,
không có thời gian…”. Giáo viên chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn
diện ý nghĩa, tác dụng của việc dạy học lịch sử địa phương trong việc bồi
dưỡng – giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Việc chỉ đạo của các
cấp lãnh đạo giáo dục, đặc biệt là cung cấp tài liệu có những hạn chế, nên
chưa phát huy đầy đủ những kiến thức đã học và năng lực bản thân trong
công tác sưu tầm, nghiên cứu tài liệu lịch sử địa phương đề sử dụng trong
dạy học. Ngoài hai nguyên nhân trên, những khó khăn trong đời sống của
giáo viên, do ảnh hưởng, tác động của nền kinh tế - xã hội của đất nước, sự
thiếu thốn về cơ sở vật chất, kinh phí của nhà trường cũng là trở ngại cho
việc thực hiện chương trình lịch sử địa phương đã quy định.
Trước thực trạng này, chúng ta nên giải quyết như thế nào?
Theo em được biết, vào đầu mỗi năm học, Bộ giáo dục đều có
những công văn cho Sở lên kế hoạch cho các trường tiến hành công tác
lịch sử địa phương. Tuy nhiên, khi triển khai đến các trường thì vấn đề này
chưa được coi trọng. Vì vậy, theo em Bộ giáo dục, Sở giáo dục nên có kế
hoạch chỉ thị cụ thể đến các trường để tiến hành vấn đề dạy học lịch sử địa
phương cho thật tốt.
Ngoài ra, theo phân phối chương trình thì tiết dạy lịch sử địa phương
như vậy là ít. Chúng ta biết rằng muốn cho học sinh hiểu rõ lịch sử địa
phương thì tăng thêm tiết lịch sử địa phương. Có như vậy giáo vên mới có
đủ thời gian giúp các em hiểu lịch sử địa phương mình sâu sắc.
Đối với giáo vên chúng ta không nên vì những khó khăn đó mà bỏ
quên một phần bài dạy trong chương trình bộ môn. Chúng ta phải khơi dạy


25


×